Năm 1986 trước sự khủng hoảng về kinh tế xã hội ở Việt Nam (kinh tế ngày càng sa sút nghiêm trọng, lạm phát tăng cao, đời sống nhân dân giảm nhanh chóng) trước sự biến chuyển lớn lao của tình hình thế giới (chiến tranh lạnh kết thúc, quá trình toàn cầu hoá, xu thế hoà bình, hữu nghị, hợp tác ngày càng phát triển. Ngay cả Liên xô và Trung Quốc, hai nước lớn trong hệ thống xã hội chủ nghĩa cũng tiến hành những sự cải cách cho phù hợp với sự chuyển biến của tình hình trong nước và quốc tế). Đại hội VI, Đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đã đưa ra đường lối đổi mới chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, đa phương hoá đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Từ đường lối đổi mới đó kinh tế Việt Nam dần dần thoát khỏi khủng hoảng và từng bước phát triển, đời sống người dân được cải thiện nâng cao rõ rệt cả về vật chất lẫn tinh thần, quan hệ quốc tế được mở rộng theo đúng chủ trương “Việt Nam muốn làm bạn, làm đối tác tin cậy của tất cả các nước”.
Song song với các kết quả đạt được, thành tựu của sự mở cửa, sự thông thương quan hệ với nhiều nước thì văn hoá từ khắp các châu lục cũng tràn vào Việt Nam, có những yếu tố tiến bộ, tích cực thúc đẩy kinh tế - xã hội - Văn hoá. phát triển (như kĩ thuật, công nghệ, các giá trị văn háo khiến các dân tộc hiểu và gần bũi nhau hơn.) lại có cả những yếu tố, nhưng tệ nạn phá vỡ các giá trị đạo đức tốt đẹp, kìm hãm sự phát triển (như các tệ nạn xã hội : Mại dâm, ma tuý, cờ bạc, các bệnh nguy hiểm của nạn ăn chơi trác táng. các luận điệu xuyên tạc của các thế lực phản động.). Có nhiều nhà nghiên cứu nhận xét rằng người Việt Nam đặc biệt là giới trẻ ngày nay đang xa dần những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, lại căng quá mức ảnh hưởng tác động từ bên ngoài.
Văn hoá là thuộc tính, là nền tảng làm nên bản sắc dân tộc. Giữ gìn bản sắc cũng là cách thức cơ bản để các dân tộc không tự đánh mất mình.
Câu hỏi đặt ra vậy người Việt Nam phải có thái độ như thế nào để vừa giữ được các giá trị bản sắc dân tộc, vừa tiếp thu, tiếp nhận văn hoá từ bên ngoài vào mà không trở thành “lai căng” hay “vong bản” (nói chính xác hơn là phải có thái độ như thế nào giữa truyền thống và hiện đại).
24 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2688 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Báo chí Việt Nam từ khi hình thành đến năm 1945, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Năm 1986 trước sự khủng hoảng về kinh tế xã hội ở Việt Nam (kinh tế ngày càng sa sút nghiêm trọng, lạm phát tăng cao, đời sống nhân dân giảm nhanh chóng) trước sự biến chuyển lớn lao của tình hình thế giới (chiến tranh lạnh kết thúc, quá trình toàn cầu hoá, xu thế hoà bình, hữu nghị, hợp tác ngày càng phát triển. Ngay cả Liên xô và Trung Quốc, hai nước lớn trong hệ thống xã hội chủ nghĩa cũng tiến hành những sự cải cách cho phù hợp với sự chuyển biến của tình hình trong nước và quốc tế). Đại hội VI, Đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đã đưa ra đường lối đổi mới chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, đa phương hoá đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Từ đường lối đổi mới đó kinh tế Việt Nam dần dần thoát khỏi khủng hoảng và từng bước phát triển, đời sống người dân được cải thiện nâng cao rõ rệt cả về vật chất lẫn tinh thần, quan hệ quốc tế được mở rộng theo đúng chủ trương “Việt Nam muốn làm bạn, làm đối tác tin cậy của tất cả các nước”.
Song song với các kết quả đạt được, thành tựu của sự mở cửa, sự thông thương quan hệ với nhiều nước thì văn hoá từ khắp các châu lục cũng tràn vào Việt Nam, có những yếu tố tiến bộ, tích cực thúc đẩy kinh tế - xã hội - Văn hoá... phát triển (như kĩ thuật, công nghệ, các giá trị văn háo khiến các dân tộc hiểu và gần bũi nhau hơn...) lại có cả những yếu tố, nhưng tệ nạn phá vỡ các giá trị đạo đức tốt đẹp, kìm hãm sự phát triển (như các tệ nạn xã hội : Mại dâm, ma tuý, cờ bạc, các bệnh nguy hiểm của nạn ăn chơi trác táng... các luận điệu xuyên tạc của các thế lực phản động...). Có nhiều nhà nghiên cứu nhận xét rằng người Việt Nam đặc biệt là giới trẻ ngày nay đang xa dần những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, lại căng quá mức ảnh hưởng tác động từ bên ngoài.
Văn hoá là thuộc tính, là nền tảng làm nên bản sắc dân tộc. Giữ gìn bản sắc cũng là cách thức cơ bản để các dân tộc không tự đánh mất mình.
Câu hỏi đặt ra vậy người Việt Nam phải có thái độ như thế nào để vừa giữ được các giá trị bản sắc dân tộc, vừa tiếp thu, tiếp nhận văn hoá từ bên ngoài vào mà không trở thành “lai căng” hay “vong bản” (nói chính xác hơn là phải có thái độ như thế nào giữa truyền thống và hiện đại).
Ngày 1-9-1858 thực dân Pháp nổ tiếng súng xâm lược Việt Nam kết thúc quá trình dòm ngó, biến nước ta thành thuộc địa. Cùng với quân đội trang bị súng ống, vũ khí hiện đại, bộ máy Nhà nước phản động với toà án, quân đội, cảnh sát, nhà tù để sẵn sàng đàn áp bắt cứ cuộc nổi dậy của nhân dân Việt Nam, thực dân Pháp còn đem vào Việt Nam một luồng khí mới của văn minh phương Tây nhằm nô dịch văn hoá, giành lại sự thống trị tuyệt đối về mặt tinh thần đối với nhân dân ta. Các loại hình văn hoá nghệ thuật, kết quả của môi trường cưỡng bức đó đã dần hình thành: Báo chí, văn học, nhiếp ảnh, điện ảnh, kiến trúc, hội hoạ, âm nhạc, ngôn ngữ... Thực dân Pháp đã coi các loại hình văn háo này là công cụ thống trị hữu hiệu nhân dân ta (Nhằm từng bước xoá dần rồi xoá hẳn ảnh hưởng của văn hoá Trung hoa, gây tâm lý tự ti, rồi nể phục và sợ hãi Pháp). Trong bối cảnh như vậy, câu hỏi trên đã được đặt ra với toàn thể xã hội Việt Nam vừa mang tính bức thiết, vừa mang tính nóng bỏng, thời sự. Người Việt Nam trong giai đoạn đó có thái độ như thế nào. Tiếp nhận hay không tiếp nhận nền văn minh xa lạ (có tính nô dịch) ấy. Nếu tiếp nhận thì tiếp nhận như thế nào: lấy tất cả hay có sự chọn lọc.
Vì lí do đó (hay chính xác là câu hỏi đó) mà trong bài viết này tôi muốn tìm hiểu thái độ của người Việt Nam. đối với vấn đề nên hay không nên tiếp nhận văn minh phương Tây (tôi chỉ dừng lại ở văn minh phương Tây, thứ văn minh Pháp đã đưa sang Việt Nam) thông qua lĩnh vực báo chí. Tôi hi vọng rằng trong khi điểm lại lịch sử báo chí Việt Nam để thấy được những thái độ, cách ứng xử của nhân dân ta với báo chí có thể chúng ta sẽ tìm ra thái độ thích hợp trong quá trình tiếp xúc giữa hai nền văn minh . Kết quả, ý nghĩa, cũng như bài học đúc kết của thái độ ấy sẽ là kinh nghiệm quí báu cho thái độ tiếp nhận các nền văn hoá ngày nay.
NỘI DUNG
Báo chí là sản phẩm của phương Tây, ra đời cùng với sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản (CNTB). Báo chí ra đời phải có các điều kiện : Điều kiện kỹ thuật tức là phải có nghề in chữ rời, in hoạt bản bởi tờ báo trước hết phải có tính định kỳ; điều kiện thứ hai là phải có người làm báo (là một nghề); điều kiện thứ ba là phải có độc giả (nói cho cùng báo chí cũng là một sản phẩm hàng hoá. Ở Việt Nam trong thời kỳ phong kiến những hình thức thông tin sơ khai đã được sử dụng như những câu vè lưu truyền trong dân gian, tiếng mõ làng, tiếng trống “giảng thập điều” trong sinh hoạt đình làng... đến những hình thức thông tin chính thức của Nhà nước phong kiến tổ chức ra Quảng Văn Đình thời Lê Thánh Tông hay Quảng Minh Đình thời Gia Long chẳng hạn. Nói chung đây mới chỉ là những hình thức sơ khai của thông tin, nó chưa phải là báo chí. Báo chí chỉ xuất hiện ở Việt Nam khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, khi kĩ thuật in và thợ sử dụng tới Việt Nam. Những thiết bị này, được sử dụng trước hết để in ấn các công văn, chỉ thị, hoạt động của các tướng tá, binh lính tiến hành chiến tranh xâm lược và bình định các nơi mà thực dân Pháp chiếm được.
Đầu năm 1865 soái phủ Nam Kỳ thấy cần thiết phải mở mang giáo dục, truyền bá học thuật và tư tưởng Pháp nhất là tạo cho việc đưa quốc ngữ thực sự vào quỹ đạo xâm lăng văn hoá đánh bại chữ Nho, quyết định cho xuất bản tờ báo tiếng Việt đầu tiên : tờ Gia Định Báo. Đây là tờ báo mở đầu cho lịch sử báo chí Việt Nam. Báo chí Việt Nam từ khi hình thành (năm 1865 với sự ra đời của tờ Gia Định Báo) đến năm 1945 có thể chia thành các giai đoạn sau:
1. Giai đoạn hình thành (1865 - 1907)
Như trên đã nói báo chí là công cụ của thực dân Pháp nhằm nô dịch dân ta. Pháp đưa báo chí, một loại hình văn hoá phương Tây vào Việt Nam nhằm truyền bá tư tưởng học thuyết của Pháp đồng thời với việc xoá dần ảnh hưởng của văn hoá Hán đã ăn sâu trong tâm thức người Việt Nam. Tuy nhiên, thực dân Pháp mặc dù đưa văn hoá báo chí vào nhưng không cho nhân dân ta được tự do ra báo, được tự do viết báo nói lên ý chí nguyện vọng của mình. Sắc lệnh ngày 30.12.1898 buộc tất cả các báo tiếng Việt, chữ Trung Hoa và các tiếng khác (trừ tiếng Pháp) phải có giấy phép trước khi xuất bản. Đưa ra sắc lệnh thực dân Pháp đã ngang nhiên làm ngơ trước luật báo chí ngày 29.7.1881 thừa nhận tự do báo chí áp dụng ở chính quốc, ở Angiêri và các xứ thuộc địa của tổng thống Pháp. Sắc lệnh ngày 30.12.1898 về báo chí là cơ sở của chế độ báo chí ở Việt Nam trong suốt thời kỳ thuộc địa (tuy có thay đổi chút ít để phù hợp với tình hình, song thực chất báo chí luôn luôn bị kìm chặt trong sử kiểm soát gắt gao của chính quyền thực dân).
Chính vì sắc lệnh ngặt nghèo này thì ngay cả ở Nam Kỳ - là xứ trực trị nhiều tờ báo đều do người Pháp đứng tên dù là tính toán của thực dân hay là sự khéo léo củấcc nhà yêu nước. Ở Bắc kỳ, Trung Kỳ việc xuất bản báo chí đặc biệt là báo Tiếng Việt lại có phần phức tạp hơn.
Ở Nam Kỳ, Gia Đình báo là tờ báo xuất hiện đầu tiên bằng chữ quốc ngữ (cũng là đầu tiên bằng chữ quốc ngữ ở Việt Nam). Ngoài Gia Định báo là tờ báo độc diễn trong làng báo ngót 40 năm thì ở Nam Kỳ còn có một số tờ báo khác như Nông cổ mít đàm, Lục tỉnh tân văn, Phan Yên Báo.
Ở Bắc kỳ báo chí xuất hiện muộn hơn (do Bắc Kỳ bị thôn tính hoàn toàn muộn). Những tờ báo đầu tiên : Đại Nam đồng văn nhật báo, Đại Việt tân báo... tiêu biểu nhất là tờ Đăng cổ tùng báo.
Giai đoạn này trên cả nước cả khoảng 10 tờ báo.
Các tờ báo ra đời cuối thế kỳ XIX hầu hết là do người Pháp lập ra nhằm phục vụ cho chính sách xâm lược, nô dịch nhân dân ta. Người viết bao gồm cả người Việt và người Pháp (người Việt chủ yếu là công chức cho Pháp). Nội dung là tuyên truyền cho chính sách của thực dân Pháp. Hình thức trình ày đơn điệu thô sơ, khô khan xếp hết bài này đến bài khác. Độc giả chủ yếu là công chức, quan lại, các nhà nho và lớp trí thức nho học. Thực dân Pháp còn thúc đẩy các hoạt động tuyên truyền theo hình thức này bằng việc phát không đến độc giả hoặc bắt buộc các công sở, các làng xã phải mua và đọc báo. Thời kỳ này các tờ báo tuyên truyền cho chính sách của thực dân Pháp gần như giữ vai trò độc tôn cũng có tờ áo thể hiện tinh thần yêu nước rõ rệt như tờ Phan Yên báo (1898) do Diệp Văn Cương lập ra với loạt bài. Đòn Câu ARCHIMEDE của Cuồng Sĩ. Bằng Giang có nhận xét rất đúng rằng: Đay là tơ báo quốc ngữ đầu tiên bị cấm ở Nam Kỳ.
Trương Vĩnh Ký, đại diện cho giới công chức làm viẹc cho Pháp là một trong những nhà báo đầu tiên của nước ta. Ông là chủ bút tờ Gia Định báo từ năm 1869. Về chính trị, rõ ràng ông là người thân Pháp : Ca ngợi công ơn khai hoá của thực dân, bào chữa cho chính sách đầu hàng và hành động phản quốccủa bọn Việt Nam. Nhiều lần Trương Vĩnh Ký cho rằng : ta không chống lại được văn minh phương Tây, hơn nữa còn công khai khẳng định :Tôi phục vụ cho cả hai đất nước đẻ ra tôi và tổ quốc lớn là nước Pháp. Tuy nhiên Trương Vĩnh Ký có công thúc đẩy báo chí non trẻ của ta sung sức và không ngừng phát triển bằng việc đưa các bài nghiên cứu nghiêm túc lên trên mặt báo. Có thể nói trình độ văn hoá, khoa học không ngừng hỗ trợ nếu không nói là quyết định uy tín cho tờ báo bởi sự nghiêm túc, kịp thời và sinh động. Trương Vĩnh Ký còn có công lớn trong việc phổ biến chữ quốc ngữ qua tuyên truyền, cổ động và dạy trên tờ Gia Định báo.
Bước sang thế kỷ XX báo chí Việt Nam có bước chuyển biến với nội dung phong phú hơn, có tính chuyên sâu hơn, có sự tham gia của nhiều giai tầng hơn (phản ánh rõ nét sự thay đổi của xã hội Việt Nam).
Về nội dung các mục được mở rộng : có các trang đăng tải truyện dịch, truyện dài, truyện ngắn, mục thơ ca (đăng các thơ sáng tác mới, văn học dân gian sưu tầm); tầm mắt vươn xa với mục “Âu châu điện báo” của Nông cổ mít đàm; “Điện báo toàn cầu” của Đăng cổ tùng báo, mục “Nhời đàn bà” để tranh thủ độc giả phụ nữ; rồi cả mục quảng cáo...
Về nghệ thuật báo chí cũng có những bước tiến đáng kể nhất là tờ Đăng cổ tùng báo : cách đưa tin nhanh gọn đảm bảo tính thời sự, nội dung phong phú hơn, tầm mắt vươn xa với mục “Điện báo toàn cầu” đăng tin thế giới; đối tượng phụ nữ cũng được tranh thủ với mục “Nhời đàn bà” chữ quốc ngữ với thể văn tường thuật phóng sự nghị luận đã được dùng khá thông thoát hơn hẳn.
Bên cạnh tiếng nói của các tờ báo thân Pháp ca ngợi các chính sách thực dân của Pháp ở thuộc địa, ta thấy xuất hiện tiếng nói của các khuynh hướng khác. Giới tư sản bản xứ mới hình thành dùng báo chí giới thiệu kinh nghiệm kinh doanh, cổ vũ đi vào thương trường, canh nông kỹ nghệ cho giới chủ, thương gia người Việt lợi kinh tế với người Hoa, với ngoại kiều (tờ nông cổ mít đàm). Tuy nhiên tờ báo chủ trương yên ổn làm ăn dưới sự đô hộ của thực dân Pháp (dù báo có đăng một số bài thờ yêu nước được sưu tập, có bài thơ của Lê Quang Chiêu hoạ lại thơ của Tôn Thọ Tường bác lại luận điệu bán nước của y). Có thể nói ngay từ khi mời hình thành tầng lớp tư sản bản xứ đã tỏ ra lung lay, bạc nhược về chính trị.
Những sĩ phu tư sản hoá trong phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục đã khéo léo tận dụng báo chí để tuyên truyền một số bài thơ yêu nước, cổ động tinh thần dân tộc. Tờ báo này bị đình bản ngày 14.7.1907 (Đăng cổ tùng báo) do thực dân Pháp lo sợ ảnh hưởng của tờ báo tới các tầng lớp nhân dân. Chính Koblukowski - Toàn quyền Đông Dương đã phải thừa nhận: Đó là những vần thơ ca nảy lửa, thấm đượm tinh thần yêu nước rất kích động hừng hực ngọn lửa căm thù giặc Pháp và chí khí tự lập tự cường của Sào Nam, Tây Hồ... của Đông Kinh Nghĩa Thục... thiêu cháy ảo tưởng về nền trị bình vĩnh cửu.
Đặc biệt đáng chú ý là việc xuất bản lục tỉnh tân văn, một tờ báo quốc ngữ do Trần Chánh Chiếu - một người vào làng Tây nhưng có cảm tình với phong trào Đông Du, với Phan Bội Châu - làm chủ bút. Báo hô hào bỏ cờ bạc, hút thuốc phiện; giảm bớt nghi lễ cưới xin, ma nhay, kêu gọi giành lại quyền lợi kinhtế trong thương mại, dịch vụ... đang nằm trong tay Hoa kiều, Ấn kiều được Chính phủ Pháp che chở. Báo còn lên án bọn quan lại phong kiến tham nhũng kêu gọi đồng bào hợp quần tương thân tương ái... Những tư tưởng cấp tiến này khiến thực dân Pháp lo sợ và chúng ra lệnh bắt ông. Tờ báo sang tay các chủ bút khác, màu sắc cũng khác đi.
2. Giai đoạn 1907 - 1918
Sau khi phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, phong trào Đông Du, phong trào chống thuế bị dập tắt, một mặt thực dân Pháp thi hành chính sách kiểm duyệt gắt gao bịt mồn bịt miệng những tư tưởng tiến bộ, ngăn chặn sách báo cách mạng từ ngoài vào (Tân thư, Tân văn) (Chính sách kiểm duyệt ngặt nghèo này khiến cho sau khi Đăng cổ tùng báo ngừng xuất bản ở Bắc kỳ, trên toàn quốc chỉ có hai tờ báo tiếng Việt xuất bản ở Nam Kỳ là lục tỉnh tân văn và nông cổ mít đàm). Mặt khác, chúng tìm cách vạch ra một đường lối báo chí mới có hiệu lực nhằm phản công lại những tư tưởng yêu nước. Trong khi đó năm 1911 cách mạng Tân Hội thành công gây ra một tiếng vang lớn trong nhân dân ta, nhiều người yêu nước Việt Nam đã đi theo tiếng gọi ấy, trong đó có cụ Phan Bội Châu. Việt Nam quang phục hội ra đời với tôn chỉ “Đánh đuổi giặc Pháp khôi phục Việt Nam” và gây ra các vụ bạo động khiến thực dân Pháp hết sức lo sợ càng làm cho chúng quyết tâm thực hiện ngay đường lối báo chí mới. Chính Sestier - thanh tra chính trị bản xứ đã thừa nhận “Thật là một việc tốn công vô ích và là một đường lối chính trị tồi khi muốn dập tắt tư tưởng và tình cảm của dân chúng An Nam, đã thể hiện rõ rệt trong sự bàn luận các vấn đề chính tri”. Đường lối báo chí đó là : Đặt cho báo chí nhiệm vụ làm tấm mộc để chắn đỡ ảnh hưởng của phong trào giải phóng dân tộc từ bên ngoài tràn về, đồng thời đặt nhiệm vụ dùng báo chí để hướng dẫn dư luận bản xứ. Theo đó “Chính phủ cần phải tỏ ra không hề đối lập với tiến hoá”, “đang muốn giúp nó phát triển và những người viếtvăn muốn giáo dục cho dân chúng và những nhà dịch thuật có khả năng cải tạo những tin tức ở nước ngoài, trong phạm vi kính trọng tự do và thanh danh người khác cũng là tôn trọng chính phủ bảo hộ.
Đúng là giọng điệu của chủ thuyết Pháp - Việt đề huề.
Trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất để thực hiện nhiệm vụ: phải cấp cho chính quốc tới mức tối đa nhân lực, vật lực và tài lực, đồng thời một mặt vẫn duy trì trật tự an ninh ở thuộc địa, mặt khác làm cho guồng máy kinh tế và chính trị chạy đều, thực dân Pháp ráo riết thi hành chủ thuyết này. Giữa năm 1916, cuộc chiến Âu châu bước bào giai đoạn quyết liệt đòi hỏi các thuộc địa phải đẩy mạnh hơn nữa cái nghĩa vụ vắt máu và tiền bạc cho “mẫu quốc” Albert Sarraut trở lại làm toàn quyền mở đầu cho hàng loạt thay đổi trong chính sách thống trị thuộc địa của thực dân Pháp nhằm phục vụ trước mắt cho cuộc chiến và mục tiêu lâu dài cho chế độ thuộc địa ở Đông Dương. Trong một bài diễn thuyết dài để chỉ đạo cho hoạt động báo chí ở Đông Dương ông ta cho rằng : Một tờ báo, một ngòi bút, còn cái động lực nào bằng và “nghĩa vụ của nhà báo là phải diễn giải cho người ta biết cái công khai hoá của nước Pháp ở xứ này... Phải chỉ đạo thuyết minh, diễn giải bình luận cho người ta biết cái công ấy lớn lao chừng nào bởi lòng quảng đại vô cùng của nước Đại Pháp... khiến cho những người được hưởng cái công ấy phải đội ơn kính trọng đời đời”.
Những chủ trương trên đây của thực dân Pháp đã quy định khuynh hướng báo chí Việt Nam giai đoạn này : Từ Đông Dương tạp chí đến Trung Bắc tân văn, công thị báo, rồi Nam Phong...
Nội dung cơ bản của báo chí thời kỳ này là đề cao công đức khai hoá của thực dân Pháp, chống lại mạnh mẽ các tư tưởng yêu nước, các tư tưởng tiến bộ đồng thời tuyên truyền chính sách của Pháp, vận động người dân mua quốc trái, tham gia quân đội chiến đấu cho mẫu quốc”, cổ động góp vốn phát triển kinh tế nước nhà bài trừ hàng hoá Trung Quốc... Có thể nói tinh thần chủ yếu của các tờ báo ra đời trong thời kỳ này là cổ suý cho chủ thuyết Pháp - Việt đề huề mà đi tiên phong là Đông Dương tạp chí, Nam Phong.
Tờ Đông Dương tạp chí, chủ bút Nguyễn Văn Vĩnh kịch liệt chống lại cách mạng, ra sức tố cáo những người cách mạng một cách dữ dội mà sau chiến tranh không hề thấy hoặc ít thấy trên mặt báo của người Việt, dù là tư sản. Ngay trong số 1, Đông Dương tạp chí đã những vụ nổ bom, bạo động của Việt Nam quang phục hội là “quân cuồng dại”, là dùng khí giới “tiểu nhân” là “dòi bọ ngoại quốc”... đáng “bỏ rọ lăn sông” hô hào quan lại hại nước Pháp - Việt phải hợp tác mà trừ đi. Tờ báo chủ trương “Trung nghĩa với Đại Pháp để cầu tiến bộ cải lương, khai hoá. Họ không phủ nhận người Pháp được nhiều quyền lợi nhưng giải thích rằng đó là sự đền bù công lai khai hoá, bảo hộ, trị an. Họ không phủ nhận (không thể phủ nhận) dân ta bị trị nhưng lại cho rằng dưới chế độ thuộc địa còn khá hơn là sống dưới chế độ nhà vua hồi độc lập.Họ còn tự bào chữa rằng chủ nghía Pháp - Việt mới là sự yêu nước. Họ cũng khẳng định chính họ mới là những người biết yêu thương giống nòi, còn những người cách mạng thì chẳng làm được gì hết mà chỉ làm loạn hại nước hại dân.
Tờ Nam Phong với chủ bút Phạm Quỳnh cũng có một luận điệu như thế, tin vào thiên chức của Đại Pháp xưa nay vẫn được dạy cho phát triển quốc tuý của mình khiến cho dân mình biết có một nhân cách riêng mà sống theo nhân cách ấy. Phạm Quỳnh cho rằng nhiệm vụ của nhà báo là người đứng giữa giãi bày ban bố những mưu hay chước phải cho phần nhiều người đọc được biết cũng thay mặt quốc dân mà trình bày cho Nhà nước rõ cái chân tình trong nước và những sở nguyện của dân. Khác với Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh đề cao tư tưởng tôn quân, trung vua tức là yêu nước.
Nguyễn Bá Trác trong bài xã luận với đầu đề “thế nào là yêu nước đăng trên số đầu của Công thị báo và dịch ra quốc ngữ trên số 2 của Trung Bắc tân văn đã nói rằng : Nước là gì ? Nước tức là dân. Muốn yêu nước thì phải yêu dân. Muốn yêu dân thì phải yêu người bênh vực cho dân. Nước đại Pháp bênh vực cho dân ta đó. Vậy ta muốn yêu nước thì tất nhiên phải yêu nước Đại Pháp. Đúng là tư tưởng thân Pháp.
Tuy nhiên, bên cạnh tiếng nói ca ngợi công ơn khai hoá của thực dân Pháp, tuyên truyền cho chính sách của Pháp ở Đông Dương mang khuynh hướng quốc gia cải lương thì báo chí thời kỳ này có những bước chuyển quan trọng về các hình thức và nọi dung Đông Dương tạp chí (1913) và Trung Bắc Tân văn (1915) được coi là mở ra một kỷ nguyên mới cho báo chí xứ này”. Loại tạp chí khảo cứu trưởng thành vượt bậc với tạp chí Nam Phong (1917). Đông dương tạp chí là tờ báo đầu tiên chú ý nhiều đến văn học, văn học chữ quốc ngữ bắt đầu phôi thai, bạn đọc Việt Nam là quen với văn học thế giới qua một số tác phẩm dịch. Ngoài ra tờ báo còn đóng vai trò tích cực trong truyền bá chữ quốc ngữ (với mục “Dạy tiếng An Nam cho người Pháp và dạy cho những người biết chữ Nho và chữ Nôm tự học chữ quốc ngữ, các tác phẩm văn học trong và ngoài nước...). Nam phong tạp chí với phong cách tạp chí khảo cứu có tính bách khoa toàn thư đã giúp độc giả Việt Nam tìm hiểu học thuật, văn hoá, văn học nước ngoài (của cả Phương Đông và Phương Tây) tìm hiểu văn hoá, văn học cổ nước ta; góp phần vào phát triển chữ quốc ngữ và tiếng nói dân tộc. Cùng với Đông Dương tạp chí, Nam Phong đã góp phần xây dựng nền văn học bằng chữ quốc ngữ trong bước đầu mới hình thành (hai tờ đăng nhiều tác phẩm văn học hơn cả so với các tờ báo khác hai mươi năm đầu thế kỷ XX).
3. Giai đoạn 1919 - 1920
Báo chí Việt Nam phát triển thêm một bước mới rất quan trọng về chất. Sự phát triển đó ảnh hưởng nhiều của tình hình trong nước và quốc tế. Khôi phục kinh tế Pháp bị tàn phá trong chiến tranh và tiến hành khai thác thuộc địa với quy mô lớn, có chiều sâu. Đi đôi với sự thay đổi chính sách kinh tế thực dân Pháp còn thực hiện các chủ trương thích ứng nhằm củng cố và tăng cường bộ máy chính quyền cai trị như mở rộng cơ sở xã hội, mở rộng các trường học quốc học thành lập hội. “Khai trí tiến đức”... Làm nảy sinh những cơ cấu giai cấp mới và quan hệ xã hội mới : Giai cấp tư sản và giai cấp công nhân tăng nhanh về số lượng và chất lượng, tầng lớp tiểu tư sản đông đảo thêm, nông dân bị bóc lột theo cả lối phong kiến và tư bản chủ nghĩa.
Đây là giai