Đề tài Bảo đảm quyền con người trong lịch sử lập hiến Việt Nam

Trải qua hơn 1000 năm Bắc thuộc và hơn 100 năm chịuách đô hộ của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, phải gánh chịu những hy sinh to lớn để giành độc lập dân tộc và tự do của Tổ quốc, bị tước đi hầu hết các quyền cơ bản vốn có của một con người như quyền được sống, được tự do, được hạnh phúc Hơn ai hết, dân tộc Việt Nam rất hiểu và trântrọng các giá trị thiêng liêng của quyền con người. Do vậy, Ngay từ khi ĐảngCộng sản Việt Nam lãnh đạo toàn dân, toàn quân ta tiến hành cuộc Cáchmạng Tháng Tám thành công, giành chính quyền về tay nhân dân, thành lập ra nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã long trọng công bố trước toàn thế giới bản Tuyên ngôn độc lập, lần đầu tiên khẳng định tôn trọng các quyền công dân và quyền con người trên đất nước Việt Nam: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấycó quyền được sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc ”. Trong hai cuộc kháng chiến cứu nước đầy hy sinh, gian khổ, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã đoàn kết toàn dân, bền bỉ đấu tranh để giành lại một trong những quyền cơ bản của con người là quyền được sống trong hòa bình trong một đất nước độc lập, tự do. Nhân dân Việt Nam đã thể hiện ý chí quyết tâm cao nhất “Thà chết chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Chân lý và khát vọng ngàn đời của người dân Việt Nam đã được khái quát trong lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Nhân dân Việt Nam từ già đến trẻ, từ Bắc chí Nam, đã nhất tề đứng dậy, đạp bằng mọi gian nan, thử thách, chấp nhận gian khổ, hy sinh, quyết giành bằng được độc lập, tự do cho Tổ quốc, bảo vệ quyền sống, nhân phẩm, danh dự của mỗi công dân và cả dântộc. Trong những năm chiến tranh, tuy phải tập trung cao nhất mọi nguồn lực cho kháng chiến chống thực dân, đế quốc, không lúc nào Đảng và Nhà nước Việt Nam không quan tâm đến xây dựng nhà nước, chính quyền của nhân dân, vì nhân dân và chăm lo cải thiện đời sống của người lao động, thực thi các quyền của công dân đã được khẳng định trong Hiến pháp. Trải qua lịch sử đấu tranh giành độc lập, tự do, nhân dân Việt Nam càng hiểu và trân trọng giá trị thiêng liêng của các quyền con người, trước hết là quyền dân tộc tự quyết, quyền tự do quyết định vận mệnh của mình, quyền được sống trong sự tôn trọng nhân phẩm. Dân tộc Việt Nam hiểu rõ quyền con người gắn với độc lập, hòa bình, dân chủ và phát triển. Với mục tiêu đó, ngay sau khi giành được chính quyền, Việt Nam đã nhanh chóng tổ chức Tổng tuyển cử bầu Quốc hội, xâydựng và ban hành Hiến pháp (1946), trong đó các quyền tự do cơ bản của công dân - bộ phận quan trọng nhất của quyền con người đã được trân trọng ghi nhận. Tiếp tục sau đó, sự ra đời của các bản Hiến pháp 1959, 1980 và Hiến pháp hiện hành 1992 đã ngày càng hoàn thiện hơn các quy định về các quyền cơ bản của công dân nhằm hướng tới quyền con người được ngày càng được đảm bảo một cách tốt nhất trong nước Việt Nam dân chủ cộng hòa

pdf33 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 3526 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bảo đảm quyền con người trong lịch sử lập hiến Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP Thanh Duyên HC31 - 1 - LỜI MỞ ĐẦU Trải qua hơn 1000 năm Bắc thuộc và hơn 100 năm chịu ách đô hộ của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, phải gánh chịu những hy sinh to lớn để giành độc lập dân tộc và tự do của Tổ quốc, bị tước đi hầu hết các quyền cơ bản vốn có của một con người như quyền được sống, được tự do, được hạnh phúc… Hơn ai hết, dân tộc Việt Nam rất hiểu và trân trọng các giá trị thiêng liêng của quyền con người. Do vậy, Ngay từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo toàn dân, toàn quân ta tiến hành cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công, giành chính quyền về tay nhân dân, thành lập ra nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã long trọng công bố trước toàn thế giới bản Tuyên ngôn độc lập, lần đầu tiên khẳng định tôn trọng các quyền công dân và quyền con người trên đất nước Việt Nam: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc…”. Trong hai cuộc kháng chiến cứu nước đầy hy sinh, gian khổ, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã đoàn kết toàn dân, bền bỉ đấu tranh để giành lại một trong những quyền cơ bản của con người là quyền được sống trong hòa bình trong một đất nước độc lập, tự do. Nhân dân Việt Nam đã thể hiện ý chí quyết tâm cao nhất “Thà chết chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Chân lý và khát vọng ngàn đời của người dân Việt Nam đã được khái quát trong lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Nhân dân Việt Nam từ già đến trẻ, từ Bắc chí Nam, đã nhất tề đứng dậy, đạp bằng mọi gian nan, thử thách, chấp nhận gian khổ, hy sinh, quyết giành bằng được độc lập, tự do cho Tổ quốc, bảo vệ quyền sống, nhân phẩm, danh dự của mỗi công dân và cả dân tộc. Trong những năm TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP Thanh Duyên HC31 - 2 - chiến tranh, tuy phải tập trung cao nhất mọi nguồn lực cho kháng chiến chống thực dân, đế quốc, không lúc nào Đảng và Nhà nước Việt Nam không quan tâm đến xây dựng nhà nước, chính quyền của nhân dân, vì nhân dân và chăm lo cải thiện đời sống của người lao động, thực thi các quyền của công dân đã được khẳng định trong Hiến pháp. Trải qua lịch sử đấu tranh giành độc lập, tự do, nhân dân Việt Nam càng hiểu và trân trọng giá trị thiêng liêng của các quyền con người, trước hết là quyền dân tộc tự quyết, quyền tự do quyết định vận mệnh của mình, quyền được sống trong sự tôn trọng nhân phẩm. Dân tộc Việt Nam hiểu rõ quyền con người gắn với độc lập, hòa bình, dân chủ và phát triển. Với mục tiêu đó, ngay sau khi giành được chính quyền, Việt Nam đã nhanh chóng tổ chức Tổng tuyển cử bầu Quốc hội, xây dựng và ban hành Hiến pháp (1946), trong đó các quyền tự do cơ bản của công dân - bộ phận quan trọng nhất của quyền con người đã được trân trọng ghi nhận. Tiếp tục sau đó, sự ra đời của các bản Hiến pháp 1959, 1980 và Hiến pháp hiện hành 1992 đã ngày càng hoàn thiện hơn các quy định về các quyền cơ bản của công dân nhằm hướng tới quyền con người được ngày càng được đảm bảo một cách tốt nhất trong nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Tuy nhiên, giống như ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới, việc thực hiện và bảo đảm quyền con người ở Việt Nam vẫn chưa được hoàn thiện một cách triệt để nhất, Đảng và Nhà nước ta vẫn đang phải tiếp tục quá trình sửa đổi, xây dựng, để khắc phục những khiếm khuyết trong những quy định về quyền con người và đảm bảo quyền con người, để nhằm hướng tới cho dân tộc Việt Nam một cuộc sống tốt đẹp và đảm bảo nhất. TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP Thanh Duyên HC31 - 3 - Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN CON NGƯỜI 1.1 Lịch sử hình thành 1.1.1 Quyền con người trong Cách mạng tư sản Thuật ngữ “quyền con người” xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử loài người. Ngay từ thời cổ đại thì ở một số các quốc gia đã có sự xuất hiện và bàn luận về quyền con người. Vào khoảng thế kỷ V đến thế kỷ IV trước công nguyên, cư dân ở Ai Cập đã bắt đầu sử dụng các quyền như quyền tự do ngôn luận, tự do bình đẳng trước pháp luật. Các triết gia thời bấy giờ quan niệm rằng, quyền con người là quyền tự nhiên, thuộc sở hữu của tất cả mọi người. Ngay trong bộ luật Hammurabi cổ đại thì quyền con người cũng đã được bộc lộ qua các quy định về quyền trẻ em, quyền của nô lệ, và một số quyền lợi của nữ giới. Mặc dù được xuất hiện sớm nhưng quyền con người chỉ được xem như là một hình thức pháp lý kể từ khi hình thức Dân chủ cổ điển ra đời. Tuy nhiên trong thời kỳ đầu của hình thức này, với xã hội chiếm hữu nô lệ và một nhà nước chủ nô chuyên chế, thì giai cấp chủ nô với các thiết chế và quy định chỉ nhằm mục đích duy trì sự thống trị của mình, bảo vệ lợi ích cho chính giai cấp của mình thì nô lệ khi ấy không được coi là con người, mà chỉ là công cụ để tạo ra của cải vật chất cho chủ nô. Như vậy, trong thời kỳ đầu này không thể nói là có tồn tại quyền con người. Đến thời kỳ phong kiến, thì nông dân - bộ phận chiếm đa số trong xã hội đã có được một số quyền cơ bản hơn như: quyền được sống mà không phụ thuộc ý chí của người khác, quyền được có tài sản, có gia đình và có một số công cụ lao động… Tuy nhiên trên thực tế thì địa vị của người nông dân TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP Thanh Duyên HC31 - 4 - và người nô lệ không khác nhau là mấy, nông dân vẫn phải phụ thuộc nhiều vào giai cấp thống trị, vẫn bị giai cấp thống trị chèn ép với nhiều hình thức khác nhau. Do đó, trong thời kỳ này các cuộc đấu tranh của nông dân nhằm đòi quyền bình đẳng, tự do cũng được diễn ra nhiều hơn và thường xuyên hơn. Tuy nhiên, phải cho đến phong trào Phục Hưng thì nhân quyền - hay quyền con người mới được nhắc đến thường xuyên và trở nên phổ biến hơn. Thế kỷ XVII là giai đoạn phát triển mạnh mẽ nhất của các tư tưởng về quyền con người. Lúc này, nhân quyền được phát triển thành các học thuyết và xuất hiện các quan niệm khác nhau về quyền con người. Điển hình nhất là quan niệm của hai trường phái: - Quan niệm thứ nhất của trường phái pháp luật tự nhiên cho rằng: quyền con người là đặc quyền tự nhiên. Trường phái này cho rằng quyền con người bắt nguồn từ bản chất vốn có và bất biến của con người do đó không ai có thể thay đổi được chúng. Trong tác phẩm “Hai luận thuyết về Chính phủ”, Locke cho rằng: trong trạng thái tự nhiên, con người có các quyền tự do, bình đẳng và quyền tư hữu. Về sau, Montesquieu đã phát triển thêm tư tưởng này, bằng chứng là trong cuốn “Tinh thần pháp luật” ông đã cho rằng: Trong trạng thái tự nhiên, mọi con người sinh ra bình đẳng. Như vậy, trường phái pháp luật tự nhiên đã khẳng định, quyền con người là cái tự nhiên, vốn có, không phải do thần thánh hay vương quyền ban phát, quyền con người tồn tại một cách tự nhiên và độc lập với mọi quyền lực, dựa trên đó, trường phái này cũng đã xây dựng các nguyên tắc bảo vệ quyền cá nhân, quyền con người trước quyền lực nhà nước. - Quan niệm thứ hai xem quyền con người trong tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Theo đó, quyền con người là một giá trị nhân loại, là một khái niệm TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP Thanh Duyên HC31 - 5 - có tính lịch sử, được hình thành qua các cuộc đấu tranh giai cấp và được bổ sung thêm qua các thời đại khác nhau, quyền con người không tồn tại một cách tự nhiên mà luôn gắn liền với các cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột. Như vậy, chỉ khi nào có giai cấp, có nhà nước thì quyền con người mới được đặt ra. Cũng trong giai đoạn này, một số văn bản ghi nhận quyền con người cũng đã được ra đời ví dụ như: Thỉnh luật về quyền năm 1628, Đạo dụ năm 1679 hay như trong Dự luật về các quyền ở Anh năm 1689. Đặc biệt, Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ năm 1776 và Tuyên ngôn nhân quyền của Pháp năm 1789 là hai văn bản ghi nhận một cách rõ ràng và cụ thể nhất về quyền con người trong thời kỳ này. Trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Thomas Jefferson đã khẳng định: “…mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Trong bản Tuyên ngôn nhân quyền của Pháp cũng khẳng định: “...người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Hai bản Tuyên ngôn này đã đánh thức cả nhân loại về các quyền của con người, của công dân như một giá trị cao quý và thiêng liêng được thừa nhận chung trên toàn thế giới. Như vậy, có thể thấy giai đoạn Cách mạng tư sản là một gian đoạn quan trọng, đánh dấu bước phát triển mới trong cuộc đấu tranh vì tự do và quyền con người. 1.1.2. Quyền con người trong pháp luật Quốc tế hiện hành Nếu quyền con người trong Cách mạng tư sản chỉ được đề cập ở một số nước thì ngày nay, trong xu hướng toàn cầu hóa về mọi mặt, quyền con người TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP Thanh Duyên HC31 - 6 - và các nguyên tắc về quyền con người đã trở thành những quy tắc ứng xử, những chuẩn mực pháp lý chung được cả cộng đồng quốc tế thừa nhận và được ghi nhận trong các văn bản pháp lý quốc tế như Hiến chương Liên hiệp quốc, các tuyên ngôn quốc tế và các công ước quốc tế. Ngày 24/10/1945, Liên hiệp quốc ra đời và đã thông qua bản Hiến chương Liên hiệp quốc, ngay trong khoản 3, Điều 1 của Hiến chương đã quy định một trong những mục đích cơ bản nhất của Liên hiệp quốc: “…khuyến khích phát triển sự tôn trọng quyền con người và tự do cho tất cả mọi người trong cộng đồng nhân loại, không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hay tôn giáo…”. Tuy nhiên, việc quy định của Hiến chương chỉ mang tính chất là những nguyên tắc chung, kêu gọi nhân loại bảo vệ quyền con người, chứ không phải là cơ sở pháp lý để đảm bảo cho cuộc đấu tranh đòi quyền con người. Ngày 10/12/1948, Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền đã được Ủy ban quyền con người thông qua. Đây có thể coi là văn kiện chính trị pháp lý cơ bản và đầy đủ nhất cho cuộc đấu tranh cho quyền con người. Kể từ đây, nhân quyền được chính thức xem là vấn đề của toàn nhân loại. Các quyền con người được quy định trong bản Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền được xem là tiêu chuẩn, làm cơ sở cho các văn bản pháp lý khác về quyền con người được ban hành sau này. Kể từ năm 1948, Liên hiệp quốc còn thông qua rất nhiều Công ước, Hiệp ước, và Nghị định thư về nhân quyền. Tiêu biểu như: Công ước về các quyền dân sự, chính trị và Công ước về các quyền kinh tế, chính trị, văn hóa năm 1966; Công ước quốc tế về loại trừ các hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965; Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989… TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP Thanh Duyên HC31 - 7 - 1.1.3 Quyền con người ở Việt Nam Ở Việt Nam, thuật ngữ quyền con người được nhắc đến đầu tiên từ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945, người đã nhắc đến quyền con người rồi suy rộng ra là quyền tự quyết của dân tộc làm căn nguyên cho cuộc đấu tranh giành độc lập của nước Việt Nam khỏi ách thống trị của chế độ thực dân và phong kiến. Việt Nam không có một bản tuyên ngôn nhân quyền riêng mà quyền con người được quy định nằm trong một phần của Hiến pháp, mà cụ thể hơn là nằm trong các quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân, Hiến pháp không chỉ đơn thuần là văn bản quy định việc tổ chức nhà nước mà còn là cơ sở đảm bảo cho việc thực hiện nhân quyền, hay nói cách khác là thực hiện quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam. Điều này đã làm cho quyền con người mà biểu hiện là quyền công dân và Hiến pháp ngay từ buổi đầu đã có sự gắn bó chặt chẽ, cùng là cơ sở cho cuộc đấu tranh giành độc lập và giải phóng dân tộc. Bên cạnh việc xây dựng các quy định đảm bảo quyền con người trong nước, chúng ta còn tiến hành thể chế hóa các quy định về quyền con người của pháp luật quốc tế vào pháp luật quốc gia, tạo nên sự thống nhất và tăng cường mối quan hệ giữa pháp luật quốc gia và pháp luật thế giới trong lĩnh vực nhân quyền. Điều này thể hiện qua việc Việt Nam đã tham gia ký kết và là thành viên của rất nhiều điều ước quốc tế về quyền con người. Cho đến nay, Nhà nước ta đã tham gia hầu hết các công ước quốc tế cơ bản về quyền con người. Năm nhóm quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa trong pháp luật Việt Nam về cơ bản đã tương thích với luật quốc tế về quyền con người. TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP Thanh Duyên HC31 - 8 - 1.2 Quyền con người – Quyền công dân 1.2.1 Mối quan hệ giữa quyền con người và quyền công dân Quyền con người là những quyền tự nhiên của con người và không bị tước bỏ bởi bất cứ ai và bất cứ chính thể nào, mọi người được sinh ra đều bình đẳng và được tạo hóa ban cho một số quyền không thể tước bỏ, như quyền sống, quyền tự do, quyền được mưu cầu hạnh phúc. Quyền con người là thành quả đấu tranh lâu dài qua các thời đại của nhân loại, của các dân tộc bị áp bức trên thế giới nhằm xác lập quyền bình đẳng, tự do trong các quan hệ giữa người và người, cũng như giữa các dân tộc; và đó cũng là thành quả đấu tranh của loài người nhằm hướng tới làm chủ thiên nhiên, làm chủ xã hội, làm chủ bản thân mình. Đó là quyền của mỗi người với tư cách là thực thể tự nhiên và xã hội, không phân biệt quốc tịch, màu da, ngôn ngữ, chính kiến, v.v.. được bảo đảm bằng luật pháp quốc tế và quốc gia mà trước hết là luật pháp quốc gia1. Quyền con người không chỉ bao quát quyền công dân, mà còn là quyền của tất cả mọi người, không phân biệt quốc tịch, năng lực hành vi dân sự và năng lực pháp luật. Đó còn là quyền của quốc gia. Đặc biệt các quyền về kinh tế, xã hội của người dân trong đó có quyền sở hữu tư nhân, quyền tự do kinh doanh... được Nhà nước tôn trọng, bảo vệ và thực hiện. Quyền công dân là khả năng của công dân thực hiện một hành vi nào đó theo quy định của pháp luật một cách tự nguyện, tự do, ý chí nhằm thỏa mãn những nhu cầu, lợi ích của bản thân. 1 Trần Duy Hương – Quyền con người và thực hiện quyền con người trong điều kiện hiện nay, Tạp chí cộng sản số 24 (168) năm 2008. TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP Thanh Duyên HC31 - 9 - Quyền con người và quyền công dân là hai khái niệm không đồng nhất nhưng giữa chúng có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Điều này thể hiện ở ba khía cạnh sau: Thứ nhất, có thể nói quyền con người và quyền công dân là hai phạm trù không mâu thuẫn nhau, quyền con người bao hàm cả quyền công dân. Có thể nói quyền công dân là nội dung cơ bản và là sự thể hiện ra bên ngoài của quyền con người. Điều 50 Hiến pháp 1992 quy định “ Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng và thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật”. Theo C.Mác thì con người luôn gắn liền với Nhà nước, với xã hội. Mỗi con người đều tồn tại trong một cộng đồng quốc gia, một dân tộc nhất định. Cho nên C.Mác cho là quyền con người, quyền công dân luôn nằm trong một thể thống nhất, vừa có tính độc lập, vừa có mối quan hệ biện chứng với nhau. Theo đó, Lênin cũng đã khẳng định “quyền con người, quyền công dân không thể tách rời nhau một cách biệt lập được”. Ngày nay, trên thế giới, các quốc gia đều quy định trong Hiến pháp – văn bản pháp lý cao nhất các chế định về quyền và nghĩa vụ của công dân, đó là việc cụ hóa thể quyền con người, thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của công dân cũng chính là đảm bảo quyền con người. Thứ hai, Quyền con người là một khái niệm rộng, vừa ghi nhận quyền của cá nhân ở phạm vi quốc tế vừa là quyền công dân ở trong phạm vi từng quốc gia nhất định còn khái niệm quyền công dân thì ở một mức độ hẹp hơn, chỉ trong phạm vi từng quốc gia nhất định, được pháp luật quốc gia ghi nhận, TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP Thanh Duyên HC31 - 10 - do đó không thể bao quát hết tất cả các quyền tự nhiên vốn có của cá nhân con người. Về chủ thể thì quyền con người ngoài những các nhân là công dân của một quốc gia thì nó còn bao gồm cả những người không phải là công dân như người nước ngoài, người không quốc tịch, người bị tước quyền công dân… Còn quyền công dân thì chủ thể của nó phải là những người có mối liên hệ đặc thù với quốc gia, phải là công dân của quốc gia. Do vậy, không thể đồng nhất hai khái niệm quyền con người và quyền công dân về mọi phương diện, tuy nhiên ở một khía cạnh nào đó, ta cũng có thể xem quyền công dân là quyền con người trong một xã hội nhất định, có một nền pháp luật cụ thể. Thứ ba, việc ghi nhận quyền con người và quyền công dân trong Hiến pháp cũng phải khác nhau, phải được phân định một cách rõ ràng. Các quyền về chính trị được quy định dưới dạng quyền công dân còn các quyền về kinh tế, văn hóa, xã hội, dân sự thì nên quy định dưới dạng quyền con người nhằm đảm bảo cho mỗi cá nhân có thể được hưởng quyền của mình một cách bình đẳng nhất. Như vậy, có thể thấy quyền con người và quyền công dân là hai khái niệm không đồng nhất với nhau, nhưng ở một khía cạnh nào đó thì chúng lại thống nhất với nhau. Quyền công dân không thể nằm ngoài quyền con người và ngược lại không quyền con người nào mà lại không bao hàm cả quyền công dân. Việt Nam trước đây cũng như các nước Xã hội chủ nghĩa khác, đều cho rằng quyền con người là một phạm trù tư sản, không thừa nhận hai khái niệm quyền con người và quyền công dân là hai khái niệm độc lập mà luôn đồng nhất chúng với nhau. Ngày nay, cùng với sự phát triển của nhân loại, cộng đồng quốc tế ngày càng quan tâm hơn đến lĩnh vực quyền con người, do TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP Thanh Duyên HC31 - 11 - vậy, chúng ta đã có nhận thức lại một cách đúng đắn hơn về vấn đề này, tiếp thu những tư duy lý luận và giá trị pháp lý mới đúng đắn hơn nhằm ngày càng nâng cao hơn nữa quyền con người trên thực tế. 1.2.2 Mối quan hệ giữa Hiến pháp với quyền con người, quyền công dân Xã hội loài người đã trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội: công xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản và cộng sản. Tương ứng với nó là sự ra đời của 4 chế độ Nhà nước là: nhà nước chiếm hữu nô lệ, nhà nước phong kiến, nhà nước tư bản chủ nghĩa và nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhưng phải cho đến khi nhà nước tư bản chủ nghĩa ra đời thì Hiến pháp mới được xuất hiện. Có thể thấy rằng quyền con người và Hiến pháp cùng được sinh ra trong cách mạng tư sản, tuy nhiên, vấn đề nhân quyền lại được đặt ra sớm hơn và vì cần một thiết chế đủ mạnh để bảo đảm quyền con người được tôn trọng và bảo vệ nên Hiến pháp mới được ra đời. Vậy câu hỏi đặt ra là tại sao quyền con người, quyền công dân lại phải được ghi nhận và đảm bảo bằng Hiến pháp mà không phải là bất cứ một văn bản nào khác? Xét về nguồn gốc tự nhiên thì con người vốn dĩ sinh ra đã được tự do. Tuy nhiên sự tự do này không thể là tuyệt đối, vì tự do của người này sẽ ảnh hưởng đến quyền tự do cá nhân của người khác, vì vậy, để có một cuộc sống tốt đẹp, con người đã lựa chọn từ bỏ “trạng thái tự nhiên” tức sự tự do tuyệt đối đó để tuân thủ một “khế ước xã hội”. Đó cũng là lý do mà Nhà nước được ra đời để nhằm đảm bảo cho quyền con người được thực thi một cách tốt nhất. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động của mình không thể tránh khỏi trường hợp nhà nước quá lạm dụng quyền hạn của mình và can thiệp quá sâu TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP Thanh Duyên HC31 - 12 - vào quyền tự do vốn có của con người, do vậy, muốn đảm bảo quyền con người được được thực hiện một cách tối ưu nhất thì vấn đề đặt ra là quyền lực nhà nước phải được hạn chế một cách phù hợp. Có nhiều cách để hạn chế quyền lực nhà nước, nhưng cách tốt nhất là Hiến pháp – đạo luật tối cao nhất phải ghi nhận các quyền tự do của con người, của công dân như là một giới hạn để quyền lực nhà nước không thể xâm phạm vào. Một mặt khác, xét về bản chất thì Hiến pháp là văn bản có hiệu lực pháp lý tối cao, được coi là đạo luật gốc, do cơ quan có thẩm quyền cao nhất hoặc do chính nhân dân thông qua. Trong nội dung của mình, Hiến pháp quy đị
Tài liệu liên quan