Đề tài Bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn

Ly hôn là một hiện tượng xã hội xuất hiện ngày càng nhiều cùng với sự phát triển của xã hội và ngày càng được xã hội quan tâm vì những hậu quả nặng nề, không mong muốn của nó. Khi cuộc sống vợ chồng rơi vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì ly hôn là lối thoát cho cuộc sống bế tắc, không còn tình cảm của hai vợ chồng. Nhưng hậu quả pháp lý và xã hội mà nó để lại ảnh hưởng nghiêm trọng đến một đối tượng vốn là niềm hạnh phúc của hai vợ chồng - đó là những đứa con. Những đứa trẻ ngây thơ vốn cần sự yêu thương, chăm sóc của cả cha và mẹ trong một gia đình êm ấm phải chịu cảnh gia đình tan nát, nếu không có sự bảo vệ sẽ rất dễ đánh mất cả tuổi thơ và tương lai. Vì vậy, vấn đề rất được xã hội quan tâm khi vợ chồng ly hôn là bảo vệ quyền lợi của những đứa con. Và pháp luật đã đóng vai trò không thể thiếu để bảo vệ những đứa trẻ vô tội này. Đó cũng là nguyên tắc cơ bản, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong Luật HN&GĐ Việt Nam. Luật HN&GĐ năm 2000 ra đời đã góp phần tích cực và quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn với những nội dung cơ bản như quy định về nguyên tắc giao con cho ai nuôi là vì quyền lợi mọi mặt của con; quy định về mức cấp dưỡng, phương thức cấp dưỡng nuôi con, quyền thăm nom con; quy định về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con khi quyền lợi mọi mặt của con không được đảm bảo Tuy nhiên, bên cạnh những tác dụng lớn lao mà nguyên tắc đem lại, trên thực tế vấn đề bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc do nhiều nguyên nhân khác nhau.Vậy, trên thực tế, nguyên tắc đó đã được Toà án áp dụng như thế nào, những gì đã làm được và chưa làm được và những giải pháp thích hợp để nguyên tắc đó được áp dụng hiệu quả trong các vụ ly hôn là một vấn đề thực tế rất cần được quan tâm. Được nghiên cứu rõ hơn về nguyên tắc này là nung nấu của tôi từ khi bước chân vào trường đại học Luật, và với sự giúp đỡ của các thầy, cô giáo trong tổ bộ môn Luật HN&GĐ, tôi mạnh dạn chọn đề tài : ‘‘Bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn’’ làm đề tài khoá luận tốt nghiệp. Để thực hiện khoá luận này, tôi có sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như : Phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác- Lênin, phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh Kết cấu khoá luận: Chương I: Khái quát chung về nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn. Chương II: Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2000. Chương III: Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn.

doc73 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1734 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Ly hôn là một hiện tượng xã hội xuất hiện ngày càng nhiều cùng với sự phát triển của xã hội và ngày càng được xã hội quan tâm vì những hậu quả nặng nề, không mong muốn của nó. Khi cuộc sống vợ chồng rơi vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì ly hôn là lối thoát cho cuộc sống bế tắc, không còn tình cảm của hai vợ chồng. Nhưng hậu quả pháp lý và xã hội mà nó để lại ảnh hưởng nghiêm trọng đến một đối tượng vốn là niềm hạnh phúc của hai vợ chồng - đó là những đứa con. Những đứa trẻ ngây thơ vốn cần sự yêu thương, chăm sóc của cả cha và mẹ trong một gia đình êm ấm phải chịu cảnh gia đình tan nát, nếu không có sự bảo vệ sẽ rất dễ đánh mất cả tuổi thơ và tương lai. Vì vậy, vấn đề rất được xã hội quan tâm khi vợ chồng ly hôn là bảo vệ quyền lợi của những đứa con. Và pháp luật đã đóng vai trò không thể thiếu để bảo vệ những đứa trẻ vô tội này. Đó cũng là nguyên tắc cơ bản, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong Luật HN&GĐ Việt Nam. Luật HN&GĐ năm 2000 ra đời đã góp phần tích cực và quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn với những nội dung cơ bản như quy định về nguyên tắc giao con cho ai nuôi là vì quyền lợi mọi mặt của con; quy định về mức cấp dưỡng, phương thức cấp dưỡng nuôi con, quyền thăm nom con; quy định về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con khi quyền lợi mọi mặt của con không được đảm bảo … Tuy nhiên, bên cạnh những tác dụng lớn lao mà nguyên tắc đem lại, trên thực tế vấn đề bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc do nhiều nguyên nhân khác nhau.Vậy, trên thực tế, nguyên tắc đó đã được Toà án áp dụng như thế nào, những gì đã làm được và chưa làm được và những giải pháp thích hợp để nguyên tắc đó được áp dụng hiệu quả trong các vụ ly hôn là một vấn đề thực tế rất cần được quan tâm. Được nghiên cứu rõ hơn về nguyên tắc này là nung nấu của tôi từ khi bước chân vào trường đại học Luật, và với sự giúp đỡ của các thầy, cô giáo trong tổ bộ môn Luật HN&GĐ, tôi mạnh dạn chọn đề tài : ‘‘Bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn’’ làm đề tài khoá luận tốt nghiệp. Để thực hiện khoá luận này, tôi có sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như : Phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác- Lênin, phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh… Kết cấu khoá luận: Chương I: Khái quát chung về nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn. Chương II: Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2000. Chương III: Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn. Trong khuôn khổ một đề tài khoa học với thời lượng nghiên cứu và trình độ chuyên môn còn hạn hẹp, chắc chắn bản khoá luận này sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi hy vọng rằng những ý kiến đóng góp quý giá của thầy cô giáo và các bạn sinh viên sẽ giúp khoá luận này được hoàn thiện hơn. Tôi xin trân trọng cảm ơn ! CHƯƠNG I KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA CON KHI CHA MẸ LY HÔN 1. Ly hôn và hậu quả pháp lý, xã hội của ly hôn đối với con 1.1. Khái niệm ly hôn Ly hôn là một vấn đề xã hội được quan tâm ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Đây là vấn đề không mới nhưng luôn nhức nhối bởi những hậu quả nặng nề mà nó để lại. Có thể nói từ khi pháp luật ra đời, những quy định tương tự như ly hôn đã xuất hiện, bởi vì quan hệ HN&GĐ là quan hệ chủ đạo trong xã hội, mà ly hôn là điều khó tránh khỏi khi quan hệ hôn nhân đã thực sự tan vỡ. Tuy nhiên, ở mỗi hình thái kinh tế xã hội trong lịch sử, những quan điểm, những quy định về vấn đề này lại không giống nhau. Bởi vì mỗi giai cấp thống trị đều đưa ra những quy định để bảo vệ tối đa cho giai cấp mình, cho chế độ của mình. C.Mác đã nói: Pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị được đề lên thành luật (). Vì vậy, khi các hình thái kinh tế xã hội thay đổi theo hướng ngày càng tiến bộ thì vấn đề ly hôn ngày càng được nhìn nhận một cách tiến bộ hơn. Đặc trưng của quan hệ HN&GĐ dưới chế độ phong kiến là tư tưởng trọng nam khinh nữ, bảo vệ quyền gia trưởng của người đàn ông, chế độ đa thê và những quy định hà khắc, những căn cứ bất bình đẳng về ly hôn… Khi hôn nhân không xuất phát từ tình yêu, gia đình không được xây dựng trên nguyện vọng cùng nhau xây đắp thì ly hôn chỉ là một thứ công cụ để bảo vệ cho hệ tư tưởng của chế độ phong kiến cũng như lợi ích của giai cấp phong kiến. Nó chỉ là công cụ để người chồng có cơ hội tự cho mình quyền bỏ vợ với những lý do hết sức bình thường như không có con, ghen tuông, lắm lời… và lấy đi của người vợ quyền bỏ chồng khi cuộc hôn nhân đó chỉ còn là xiềng xích trói buộc, là một sự đau khổ dằn vặt về cả thể chất lẫn tinh thần. Trong xã hội tư sản, khi xã hội đã tiến lên một bước dài trong lịch sử, những quan hệ về HN&GĐ cũng có sự phát triển đáng kể với những quy định như tự do yêu đương, hôn nhân một vợ một chồng, tự do ly hôn… Tuy nhiên, nhìn vào bản chất vấn đề, những quy định trên vẫn không thoát khỏi hệ tư tưởng của giai cấp tư sản do bị rằng buộc bởi những quy định ngăn cấm của nhà làm luật. Vì vậy, những quy định này dù rất tiến bộ nhưng rất khó thực hiện trên thực tế, và chỉ mang tính hình thức. Lê nin đã nói: ‘‘Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, quyền ly hôn cũng như tất cả mọi quyền dân chủ khác, không loại trừ một quyền nào đều không thể thực hiện một cách dễ dàng được, nó lệ thuộc vào nhiều điều kiện, bị giới hạn, bị thu hẹp và có tính chất hình thức’’(). Chúng ta có thể thấy rõ điều đó qua quy định về căn cứ ly hôn : Việc ly hôn thường căn cứ vào lỗi của một bên đương sự. Lỗi là yếu tố quyết định cuộc hôn nhân đó có thể tồn tại được hay không và ai là người có quyền xin ly hôn. Như vậy, không cần quan tâm tới tình trạng cuộc hôn nhân, cuộc sống của một gia đình trong một thời gian dài đã diễn ra như thế nào, chỉ cần một bên có lỗi, cuộc hôn nhân đó có căn cứ chấm dứt. Như vậy, ly hôn đã không được phản ánh đúng bản chất của nó. Trong xã hội XHCN, khi pháp luật là ý chí số đông trong xã hội, quy định về ly hôn đã phản ánh được đúng bản chất của vấn đề. Nếu như hôn nhân là sự kết tinh của tình yêu và sự đồng thuận của hai bên nam nữ thì ly hôn là một lối thoát khi cuộc hôn nhân mà họ đã chọn là thực sự sai lầm. Vì vậy, nó là cơ hội mới để người ta có thể làm lại cuộc đời, thoát khỏi đau khổ, bất hạnh. Bởi vì bản chất của ly hôn ‘‘chỉ là việc xác nhận một sự kiện: cuộc hôn nhân này chỉ là một cuộc hôn nhân đã chết, sự tồn tại của nó chỉ là bề ngoài và giả dối’’() và bởi vì: ‘‘Tự do ly hôn tuyệt không có nghĩa là làm tan rã những mối liên hệ gia đình mà ngược lại, nó củng cố những mối liên hệ đó trên những cơ sở dân chủ, những cơ sở duy nhất có thể có và vững chắc trong một xã hội văn minh’’() Đứng trên quan điểm tiến bộ của chủ nghĩa Mac - Lê nin, Khoản 8 Điều 8 Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000 quy định: ‘‘ Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ hôn nhân do Toà án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc của chồng hoặc cả hai vợ chồng’’. Như vậy khi nhận thấy cuộc hôn nhân của mình là sai lầm, quan hệ vợ chồng luôn căng thẳng, nặng nề thì ai cũng có thể đứng ra yêu cầu Toà án chấm dứt quan hệ đó. Toà án sẽ là người thứ ba nhìn nhận, xem xét toàn diện vấn đề và đưa ra quyết định cuối cùng. Đảm bảo quyền tự do ly hôn là một nội dung quan trọng của nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ đã được ghi nhận tại Điều 64 Hiến pháp Việt Nam năm 1992 và được cụ thể hoá tại Điều 2 Luật HN&GĐ năm 2000. Tuy nhiên, tự do ly hôn không phải là tự do một cách tuỳ tiện mà phải dựa vào những căn cứ luật định. Đó là khi quan hệ vợ chồng lâm vào “tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được’’(Khoản 1 Điều 89 Luật HN&GĐ năm 2000). Và ly hôn chỉ có giá trị pháp lý khi nó được Toà án công nhận. Căn cứ ly hôn đã được đánh giá một cách tổng quát mà sâu sắc, đi đến tận cùng bản chất của mọi nguyên nhân. Đó là khi quan hệ hôn nhân ấy thực sự tan vỡ, mọi cố gắng để duy trì đời sống chung đã trở thành vô ích, sự tồn tại của nó chỉ làm cho tình trạng gia đình càng thêm trầm trọng. Điều này rất khác với những căn cứ ly hôn dựa vào yếu tố lỗi – chỉ dựa vào hiện tượng mà không đi vào bản chất của vấn đề. Như vậy, trong các thời kỳ khác nhau, khái niệm ly hôn được hiểu rất khác nhau về bản chất. Ở chế độ phong kiến và tư sản ly hôn chỉ được nhìn nhận dưới góc độ tiêu cực: do lỗi của một bên gây ra, thì ở chế độ XHCN nó được nhìn nhận ở một khía cạnh tích cực: là lối thoát cho một cuộc sống bế tắc. Vì vậy, căn cứ ly hôn và vai trò của cơ quan xét xử ở các thời kỳ khác nhau cũng rất khác nhau. Ở thời kỳ phong kiến và tư bản, cơ quan xét xử không quan tâm nhiều đến cuộc sống tình cảm của vợ chồng đã thực sự chấm dứt chưa mà chỉ cần xem xét “ lỗi’’ mà các bên đưa ra có đúng và hợp lý không. Vì vậy, việc xét xử hoàn toàn thụ động. Còn ở chế độ XHCN, Toà án với vai trò là người thứ ba nhìn nhận vấn đề một cách khách quan, đi vào bản chất của vấn đề để quyết định mở ra một lối thoát hay giữ lại cuộc sống bình yên sau những quyết định nhất thời của các bên. 1.2. Hậu quả pháp lý và xã hội của việc ly hôn đối với con và sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng. Khi vợ chồng ly hôn, quan hệ hôn nhân chấm dứt, tuy nhiên quan hệ huyết thống hay quan hệ nuôi dưỡng giữa cha mẹ và con vẫn không hề thay đổi. Vì vậy, trên phương diện pháp lý, các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với nhau sẽ chấm dứt nhưng các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con thì vẫn không thay đổi. Trên phương diện đạo đức, cha mẹ là người sinh thành ra các con, cha mẹ có trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng các con khi chúng chưa thể tự lo cho bản thân mình mà không phụ thuộc vào hoàn cảnh gia đình. Khi ly hôn, vợ chồng cảm thấy thoả mãn vì đã tìm thấy lối thoát cho bản thân nhưng lại không thể tránh khỏi việc gây ra đau khổ, thiệt thòi cho con cái – những đứa trẻ vô tội trong sự tan vỡ của gia đình. Nguyên nhân của ly hôn là tình cảm của vợ chồng đã rơi vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nên mọi người khi đi đến quyết định ly hôn đã muốn có một cuộc sống riêng cho mình. Vì vậy, sau khi ly hôn họ không còn sống chung là một điều đương nhiên. Cha mẹ không còn sống chung, vì vậy, pháp luật quy định con chỉ được sống với một người. Đó là hậu quả pháp lý mà trẻ phải chịu, dù không ai muốn nhưng không còn cách nào khác. Vì vậy, để bảo vệ quyền lợi cho trẻ em, pháp luật quy định con chỉ được sống với một người và đó là người có khả năng bảo đảm quyền lợi về mọi mặt cho chúng, còn người kia sẽ thực hiện nghĩa vụ của mình một cách gián tiếp. Sự thiệt thòi, mất mát không chỉ dừng lại ở việc chúng không được sống cùng cả cha và mẹ mà ngay cả sự gần gũi, gắn bó giữa các anh, chị, em trong gia đình cũng bị chia rẽ. Bởi vì, khi một người không đủ khả năng chăm sóc cho tất cả các con thì họ buộc phải lựa chọn đứa con nào ở với mình thì quyền lợi của chúng sẽ được đảm bảo hơn. Quyết định khó khăn đó cũng là để bảo đảm cuộc sống vật chất cho con, nhưng lại làm mất đi một cuộc sống vui vẻ với tình cảm yêu thương, quấn quýt nhau giữa các anh, chị, em trong một gia đình. Sau khi ly hôn, quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con vẫn không hề thay đổi nhưng do con chỉ được sống với một người nên cách thức thực hiện các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ có một số thay đổi, đặc biệt là đối với người không trực tiếp nuôi con. Đứa con chỉ được sự chăm sóc, nuôi dưỡng trực tiếp bởi một người và người kia thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình một cách gián tiếp. Đối với người không trực tiếp nuôi con, trẻ chỉ nhận được sự chăm sóc, nuôi dưỡng qua việc thăm nom, cấp dưỡng. Đây chỉ là một sự cố gắng bù đắp chứ không thể lấp đầy khoảng trống về tình cảm trong lòng những đứa trẻ còn ngây thơ. Chính những hậu quả pháp lý đó đã gây ra những hậu quả về mặt xã hội rất nặng nề, ảnh hưởng tới cuộc sống và sự phát triển của các em. Cha mẹ bất hoà luôn ảnh hưởng tới sự phát triển của con về mặt tâm lý. Những cảnh cãi vã nhau, những câu chì chiết, những câu chửi hay những lần đánh nhau trước mặt con lúc nào cũng có hại và sẽ rất khó xoá nhoà trong những ký ức tuổi thơ của con. Trẻ rơi vào tình trạng luôn lo lắng, bất an, có cảm giác bị bỏ rơi. Cũng có trường hợp trẻ tự kết tội mình có phần nào trách nhiệm trong sự chia ly của bố mẹ. Sự buồn bã, sự suy nhược, sự cách ly, sự mất ngủ, những cơn ác mộng và những nỗi sợ hãi, ám ảnh ban đêm… đều có khả năng chế ngự trong đời sống tinh thần của đứa trẻ. Kết quả học tập cũng có phần sụt giảm. Đôi khi đứa trẻ chuyển sự thô bạo trong gia đình sang những quan hệ xã hội. Trong những trường hợp khác, chúng chọn thái độ của một người lớn trưởng thành sớm, chúng già dặn và không còn sự hồn nhiên như bạn bè cùng lứa. Trẻ sống trong các gia đình ly hôn thường rất mặc cảm trong cuộc sống, ngại tiếp xúc, kín kẽ khi nói về bản thân và gia đình không trọn vẹn của mình. Nhìn xa hơn ở những trường hợp cha mẹ ly hôn mà cả hai đều chạy theo cuộc sống riêng tư của mình, những đứa trẻ bỗng dưng bị bỏ rơi, lạc lõng giữa cuộc đời. Và một thực tế là những trẻ đó rất dễ vướng vào những cạm bẫy của cuộc đời và rơi vào con đường phạm pháp. Do những thiệt thòi không dễ bù đắp, những nguy cơ mà các em dễ mắc vào, những hậu quả xã hội mà các em phải chịu, bảo vệ trẻ em có cha mẹ ly hôn là một việc làm rất cần thiết và cấp thiết. Trẻ em là hạnh phúc của gia đình, là tương lai của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nếu không được sự quan tâm của xã hội, sự bảo vệ của pháp luật thì những mầm non của hôm nay không thể trở thành những công dân có ích cho xã hội mai sau được. Những trẻ có cha mẹ ly hôn phải chịu nhiều thiệt thòi so với các bạn bè đồng lứa, hơn nữa, chúng vẫn còn chưa thể tự lo được cho mình, vì vậy, rất cần có sự quan tâm đặc biệt đến đối tượng này. Mặt khác, chúng đang trong quá trình phát triển về nhân cách và nhận thức, rất cần được dạy đỗ, chỉ bảo, định hướng của những người đi trước. Đây cũng là lứa tuổi dễ bị lợi dụng, dễ sa vào cạm bẫy nên sự quan tâm, sự định hướng của người lớn lại càng cần thiết. 1.3. Ý nghĩa của việc điều chỉnh bằng pháp luật trong việc bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn Là cơ sở pháp lý để nâng cao tinh thần trách nhiệm của cha mẹ Cha mẹ là người sinh thành ra các con, cho con sự sống, vì vậy cha mẹ cũng là người có trách nhiệm nuôi dưỡng con. Dù cuộc sống khó khăn hay đầy đủ, cha mẹ có hạnh phúc hay không thể sống chung với nhau thì cũng không được từ chối trách nhiệm của mình. Trong gia đình, việc cùng nhau chăm sóc, dạy dỗ con là một niềm hạnh phúc của vợ chồng. Sự vất vả, bận rộn luôn được động viên bởi ý nghĩ là để đem lại sự đầy đủ, niềm vui cho con. Tuy nhiên, khi mục đích của hôn nhân không đạt được, vợ chồng kết tội cho nhau về sự tan vỡ của gia đình thì những kết quả của tình yêu đã chết đó cũng rất dễ rơi vào tình trạng bị bỏ rơi hoặc chỉ nhận được một nửa sự yêu thương. Vì vậy, để bảo vệ quyền lợi cho trẻ pháp luật đã quy định nuôi con không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ của cha mẹ. Nuôi con là một nghĩa vụ luật định nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của người làm cha, mẹ, đặc biệt là khi họ đã ly hôn. Đó cũng là cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền lợi cho con khi người làm cha mẹ không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình. Sự cụ thể hoá của nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của trẻ em trong trường hợp đặc biệt Bảo vệ trẻ em luôn là một điều được xã hội quan tâm, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Cả xã hội đã luôn cố gắng tạo điều kiện cho trẻ em được phát triển một cách toàn diện. Nhà nước đã đưa ra rất nhiều chủ trương, chính sách và nâng lên thành luật. Rất nhiều quyền lợi của trẻ được pháp luật bảo vệ như quyền được cha mẹ chăm sóc, nuôi dưỡng, được học hành, được vui chơi và phát triển toàn diện… Trẻ em có cha mẹ ly hôn là một đối tượng đặc biệt bởi vì so với những trẻ khác thì chúng phải chịu nhiều thiệt thòi và bất hạnh. Do vậy, pháp luật đã có những quy định để bảo đảm quyền lợi cho chúng. Và những quy định của Luật HN&GĐ về trách nhiệm của cha mẹ khi ly hôn và những quyền lợi của trẻ chính là một sự cụ thể hoá của nguyên tắc bảo vệ trẻ em trong trường hợp đặc biệt. Sự tiếp nối truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc. Lịch sử đất nước ta từ xưa đến nay, tình mẫu tử, tình phụ tử luôn chiếm một vị trí thiêng liêng trong trái tim người Việt. Dù cuộc sống vất vả, lam lũ, dù đất nước chiến tranh liên miên nhưng giữa những khó khăn ấy vẫn sáng loà tình cảm gia đình, tình yêu thương, sự hy sinh của cha mẹ cho con cái. Nó đã kết tinh thành một giá trị tinh thần quý báu, đó là truyền thống dân tộc. Ngày nay khi đất nước đang có những bước chuyển lớn trong lịch sử, truyền thống đó vẫn được tiếp nối. Khi xã hội càng phát triển, sự quan tâm của xã hội đến trẻ em ngày càng được chú trọng. Chúng ta đang cùng nhau nỗ lực để xây dựng một nhà nước pháp quyền. Sự ghi nhận nghĩa vụ nuôi con của cha mẹ trong pháp luật là một trong những biểu hiện của sự tiếp nối truyền thống đạo đức dân tộc, đặc biệt là trong Luật HN&GĐ Thể hiện tính chất công bằng, dân chủ, nhân đạo của pháp luật xã hội chủ nghĩa Qua phân tích về bản chất của ly hôn dưới chế độ XHCN, chúng ta đã thấy được sự tiến bộ của pháp luật XHCN. Việc quy định căn cứ ly hôn không liệt kê ra các trường hợp cụ thể tức là khi đã nhìn nhận toàn diện vấn đề và cảm thấy cuộc hôn nhân đó là không thể cứu vãn thì Toà mới cho phép ly hôn. Quy định đó đã hạn chế được rất nhiều trường hợp gia đình tan vỡ khi vợ chồng dù có xung đột nhưng chưa đến mức trầm trọng và còn cứu vãn được. Vì vậy, số trẻ em phải chịu cảnh gia đình tan vỡ do những sai lầm nhất thời của cha mẹ cũng vì thế mà giảm đi. Còn khi đã đủ căn cứ để ly hôn, việc duy trì một cuộc hôn nhân đã chết chỉ làm cho tình trạng gia đình càng trầm trọng thêm, và tất nhiên sẽ ảnh hưởng xấu đến con cái thì việc ly hôn của cha mẹ ở một khía cạnh nào đó cũng tốt hơn cho những đứa con. Quy định về giao con cho ai nuôi cũng thể hiện tính nhân đạo của pháp luật. Việc giao con cho ai nuôi là vì lợi ích của con chứ không phải dựa vào lỗi của cha mẹ - căn cứ dẫn đến ly hôn trong pháp luật tư bản chủ nghĩa. Trong mọi trường hợp thì quyền lợi của con luôn được đặt lên hàng đầu, đã thể hiện được bản chất nhân đạo của pháp luật XHCN. 2. Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn trong pháp luật hôn nhân gia đình Việt Nam Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, quan hệ HN&GĐ chưa được ghi nhận riêng biệt ở một văn bản pháp luật nào của Việt Nam. Các quy định về bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn còn rất ít ỏi và sơ lược. Điểm đáng chú ý nhất là quy định về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con của cha mẹ khi ly hôn ở các bộ dân luật trong thời kỳ Pháp thuộc. Ở thời kỳ phong kiến, có thể nói, vấn đề bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn chưa được quan tâm và đề cập vào luật pháp. Một trong những văn bản đầu tiên về pháp luật HN&GĐ của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là Sắc lệnh số 97-SL ngày 22/5/1950 về sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật và Sắc lệnh số 159-SL ngày 17/11/1950 quy định về vấn đề ly hôn. Nếu như pháp luật phong kiến hạn chế quyền ly hôn của người vợ hoặc quy định căn cứ ly hôn riêng cho người vợ và người chồng thì Sắc lệnh số 159-SL lần đầu tiên ghi nhận quyền bình đẳng của người vợ qua việc quy định năm duyên cớ ly hôn chung cho cả vợ và chồng (Điều 2). Về vấn đề bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn, Sắc lệnh đã có những quy định rất tiến bộ, dù còn đơn lẻ: ‘‘Toà sẽ căn cứ vào quyền lợi của con vị thành niên để ấn định việc trông nom, nuôi nấng và dạy dỗ chúng. Hai vợ chồng đã ly hôn phải cùng nhau chịu phí tổn về việc nuôi dạy con, mỗi bên tuỳ theo khả năng của mình’’ (Điều 6). Với những quy định hết sức tiến bộ, Sắc lệnh đã thể hiện được tinh thần bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ và trẻ em, góp phần xoá bỏ hôn nhân phong kiến, và là cơ sở để xây dựng Luật HN&GĐ năm 1959 và các Luật HN&GĐ tiếp theo. Tuy nhiên, hạn chế của Sắc l
Tài liệu liên quan