Đối với Các Mác vĩ đại, khoa học là động lực của lịch sử. Quan niệm đó của C.Mác cũng hoàn toàn đúng trong thời đại chúng ta.Ngày nay, khoa học và công nghệ tác động hết sức mạnh mẽ đến mọi mặt của cuộc sống con người, đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, đời sống chính trị và văn hoá của xã hội, đến khả năng quốc phòng và an ninh của mọi quốc gia, đến các quan hệ quốc tế và việc giải quyết vấn đề toàn cầu của thời đại Vai trò này của khoa học và công nghệ lại càng trở nên đặc biệt quan trọng đối với các nước đang trên con đường rút ngắn giai đoạn phát triển để sớm trở thành một xã hội hiện đại.
17 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1341 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Biện chứng của quá trình phát triển giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ với mục tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LờI Mở ĐầU
Đối với Các Mác vĩ đại, khoa học là động lực của lịch sử. Quan niệm đó của C.Mác cũng hoàn toàn đúng trong thời đại chúng ta.Ngày nay, khoa học và công nghệ tác động hết sức mạnh mẽ đến mọi mặt của cuộc sống con người, đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, đời sống chính trị và văn hoá của xã hội, đến khả năng quốc phòng và an ninh của mọi quốc gia, đến các quan hệ quốc tế và việc giải quyết vấn đề toàn cầu của thời đại Vai trò này của khoa học và công nghệ lại càng trở nên đặc biệt quan trọng đối với các nước đang trên con đường rút ngắn giai đoạn phát triển để sớm trở thành một xã hội hiện đại.
Không ai phủ nhận được vai trò của tri thức đối với sự phát triển của mỗi quốc gia tri thức của con người có hai mức độ: tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận khoa học. Tri thức kinh nghiệm được hinh thành một cách tự phát qua quá trình sống và hoat động của mỗi cá nhân, chỉ phát huy tac dung trong những điều kiện khách quan. Muốn hoạt động có kết quả cao hơn, vươn tơí đỉnh cao của khoa học , trí tuệ ma nhờ đó ,lịch sử loài người mới có những bước tiến diệu kỳ con người phải vươn tới tri thức lý luận , khoa học. Muốn có tri thức lý luận, khoa học thì trước hết phải biết chữ và phải học , nghĩa là phảigiáo dục và đào tạo. Như vây, nói đến vai trò tri thức cững chính là nói dên vai trò của giáo dục và đào tạo. Thực tiễn lịch sử nhất là trong giai đoạn hiện nay đã chứng minh rằng yếu tố quan trọng nhất tạo nên sự thành công của các nước là giáo dục và đào tạo.
Chính vì vậy trong thời kỳ đầy mạnh công nghiệp hoá ,hiện đại hoá (CNH, HĐH) hiện nay thì Đảng ta xác định : “cùng với giáo dục - đào tạo khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu , là động lực phát triển kinh tế- xã hội , là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ”
biện chứng của quá trình phát triển giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ với mục tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá ở việt nam hiện nay
I .phát triển khoa học công nghệ theo mục tiêu công nghiệp hoá ở việt nam
1.Vai trò nền tảng và động lực của khoa học và công nghệ đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và sự phát triển xã hội ở Việt Nam
Trong đường lối và chiến lược phát triển kinh tế –xã hội của Đại hội Đảng lần thứ IX của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã khẳng định:Đường lối kinh tế của ta là : Đẩy mạnh công nghiệp hoá,hiện đại hoá,xây dựng nền kinh té độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nứơc công nghiệp…” và chỉ rõ “phát triển kinh tế, công nghiệp hoá,hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm”.Vì chỉ có bằng con đường CNH, HĐH nước ta mới có thể thoát ra khỏi nghèo nàn ,lạc hậu”.Vậy phải thực hiện CNH, HĐH bằng cách nào?
Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp Hành Trung Ương khoá VIII đã xác định rõ: “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phải bằng và dựa vào khoa học và công nghệ” khoa học và công nghệ phải trở thành nền tảng và động lực cho công nghiệp hoá,hiện đại hoá”. Đến Đại hội IX của Đảng điều này một lần nữa lại được khẳng định ở tầm chiến lược cao hơn : “Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam; coi sự phát triển giáo dục và đào tạo ,khoa học công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá”
Mục đích quan trọng nhất của CNH là phát triển sản xuất xã hội trước hết là phát triển lực lượng sản xuất nhằm thoả mãn các nhu cầu ngày càng tăng của con người và thúc đẩy sự phát triển của xã hội.Nền sản xuất xã hội ngày nay gắn liền với những phát minh ,sán chế trong khoa học coong nghệ,nghĩa là luôn đổi mới và hiện đại hoá.Hiện đại hoá nền sản xuất xả hội là nền tảng để thực hiện sự hiện đại hoá toàn bộ đời sống xã hội.
Hiện đại hoá trong sản xuất trươc hết là hiện đại hoá trong lực lượng sản xuất.Lực lượng sản xuất bao gồm các yếu tố cơ bản:tư liệu sản xuất và con người với những kinh nghiệm,tri thức nghề nghiệp và kĩ năng kĩ xảo.Ngày nay khoa học và công nghệ đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp..Trong nền kinh tế tri thức,khoa học đăc biệt là tri thức của một số lĩnh vực khoa học như tin học,điều khiển học,sinh học,…đã trực tiếp gia nhập vào qúa trình sản xuât và dịch vụ của xã hội.Bằng cách này lực lượng sản xuất xã hội sẽ không ngừng được bổ sung và đổi mới theo hướng gia tăng dần tính hiện đại ,tiên tiến.
Xu hướng vận động chung của lực lượng sản xuất hiện đại là không ngừng thay thế dần cấc trang thiết bị, các quy trình công nghệ chưa hoàn thiện bằng các trang thiết bị, quy trình công nghệ cao, công nghệ sạch. Điều này chỉ có thể thực hiện được bằng con đường phát triển khoa học và công nghệ. Như vậy, khoa học và công nghệ đã thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất theo hướng hiện đại và đó là tiền đề ,là cơ sở hiện đại hoá nền sản xuất xã hội.
Khoa học và công nghệ cũng có vai trò to lớn và quyết định trong việc biến đổi yếu tố con người trong lực lượng sản xuất treo chiều hướng hiện đại.Thông qua quá trình giáo dục, đào tạo và hoạt động thực tiễn con người được trang bị tri thức lý luận và kinh nghiệm cần thiết để cho họ có thể vận hành tốt và thích nghi với các trang thiết bị hiện đại tiên tiến trong sản xuất,cũng như đủ sức dể giải quyết những phức tạp trong sản xuất và đời sống.Mặt khác do thường xuyên đổi mới trang thiết bị sản xuất và đời sống theo hướng hiện đại đã buộc con người phải thường xuyên học tập,trau dồi kiến thức nghiệp vụ,chuyên môn để khỏi bị đào thải ra khỏi quá trình sản xúât xã hội và để có thể thích ứng với cuộc sống hiện đại. Nhờ vậy mà trình độ và chất lượng của đội ngũ những người lao động trong lực lượng sản xuất không ngừng được nâng cao và được hiện đại hoá.
Do đó,với tư cách là những yếu tố nằm trong lực luợng sản xuất,khoa học công nghệ đang có vai trò cực kỳ quan trọng,có tính chất quyết định đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thúc đẩy sự phát triển của sản xuất.
“CNH, HĐH là quá tình chuyển đổi căn bản,toàn diện các hoạt động sản xuất , kinh doanh,dịch vụ,và quản lý kinh tế-xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao đọng cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến ,hiện đại,dựạ trên sự phát triển của công nghiệp và Trong nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy BCH Trung ương khoá VII chỉ rõ tiến bộ khoa học công nghệ,tạo ra năng suất lao động xã hội cao”
CNH, HĐH ở nước ta có mục đích và nhiệm vụ trước tiên là phải phát triển sản xuất. Từ một nước nông nghiệp lạc hậu,để có thể đi vào nền sản xuất hiện đại,chúng ta cần phải tiến hành một quá trình chuyển đổi căn bản và toàn diện tất cả các khoạt động xã hội,trước tiên là hoạt động sản xuất,kinh doanh,dịch vụ từ lao động thủ công là chủ yếu sang lao động có kỹ thuật là chủ yếu, nhằm nâng cao năng suất lao động xã hội.Để thực hiện thành công bước chuyển đổi căn bản và toàn diện này, không thể không dựa vào sự phát triển của công nghệ và tiến bộ khoa học công nghệ.Vai trò động lực của khoa học công nghệ được thể hiện ở những mặt cụ thể sau:
Một là, khoa học công nghệ có vai trò quyết định trong quá trình trang bị và trang bị lại công nghệ hiện đại,tiên tiến cho nền sản xuất xã hội ,nói riêng,cho tất cấcc ngành kinh tế quốc dân,nói chung. Hai là, khoa học công nghệ đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc đào tạo,bồi dưỡng,khai thác và phát huy nguòon lực con người,đặc biẹt là nguồn lực trí tuệ – một nguồn lực to lớn,có tính chất quyết định đối với sự nghiệp CNH,HĐH ở nước ta. Ba là, khoa học công nghệ giữ vai trò động lực trong việc tạo ra môi trường thông tin - một môi trường mới đầy sức mạnh và quyền lực đối với sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH nói riêng,đối với sự phát triển xã hội nói chung. Bốn là, khoa học và công nghệ có vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện cơ chế tổ chức,quản lý sản xuất,dịch vụ,kinh doanh nhằm mục tiêu thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH. Năm là, khoa học và công nghệ đóng góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu phát triển bền vững của xã hội.
2.Thực trạng và nhu cầu về khoa học công nghệ ở Việt Nam.
a.Thực trạng của khoa học và công nghệ nước ta hiện nay
Vai trò cơ sở và động lực của khoa học và công nghệ đối với quá trình CNH,HĐH,đối với sự phát triển xã hội Việt Nam nói chung là đã rõ.uy nhiên đó mới chỉ là mặt lý luận còn mặt thực tế thì sao?qua việc tìm hiểu thực trạng khoa học và công nghệ trong điều kiện nuếoc ta hiện nay và những mâu thuẫn giữa nhu cầu rất cao về khoa học công nghệ cho CNH,HĐH với thực trạng đó sẽ góp phần nào trả lời được câu hỏi này.
Nếu xem xét thực trạng của khoa học công nghệ, thì ngoài khoa học với toàn bộ những tri thức đã có của con người về tự nhiêu, xã hội, và tư duy, còn phải đề cập dến 4 yếu tố cấu thành của công nghệ: trang thiết bị kỹ thuật, cơ sở vật chất; nguồn lực con người; thông tin và tổ chức quản lý.Khoa học cùng với 4 yếu tố của công nghệ tạo thành tổ hợp khoa học –công nghệ làm nền tảng và động lực cho cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại.
Yếu tố thứ nhất của công nghệ:trang thiết bị máy móc kỹ thuật
Xuất phát từ nhiệm vụ quan trọng nhất,quyết định của sự nghiệp CNH,HĐH ở nước tanhư trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã nểua là thay thếnhững trang thiết bị kỹ thuật thủ công bằng trang thiết bị máy móc hiện đại trên qui mô toàn bộ nền kinh tế quốc dân; đẩy mạnh sự phân công lao động và sản xuất hành hoá nhằm tạo ra bước ngoặt trong việc nâng cao năng suất lao động xã hội;biến đổi cơ cấu nền kinh tế,nhằm đưa nước ta từ một nước nông nghiệp căn bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020…để thấy rằng thực chất của CNH,HĐH ở nước ta chính là sự phát triển công nghệ cao, tiến, phù hợp với một xã hội CNH,HĐH.
Theo đánh giá của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường trong những năm gần đay thì trình độ công nghệ ở nước ta nhìn chung còn thấp và lạc hậu so với khu vực và thế giới.So với các nước công nghiệp tiên tiến nhất, công nghệ Việt Nam lạc hậu khoảng 50 năm đến 100 năm.xét về trang thiết bị kỹ thuật của nước ta so với các nước trung bình, lạc hậu từ 2-3thế hệ, hoặc từ 5-6 thế hệ tuỳ theo từng lĩnh vực chuyên ngành.
Trình độ phát triển chung của công nghệ nước ta về cơ bản,chỉ mới đạt ở giai đoạn 1 và 2trong 7 giai đoạn người ta phân chia.Bảy giai đoạn hay trình độ phát triển công nghệ đó là:
Giai đoạn 1: Nhập công nghệ để thoả mãn nhu cầu tối thiểu.Hầu hết các trang thiết bị máy móc ở nước ta hiện nay đều nhập từ nước ngoài
Giai đoạn 2: Tổ chức hạ tầng kinh tế ở mức tối thiểu để tiếp thu công nghệ nhập.Hạ tầng kinh tế của ta hiện nay nhìn chung vẫn còn quá thiếu thốn về số lượng và không đảm bảo về chất lượng.
Giai đoạn 3: Tạo nguồn công nghệ từ nước ngoài thông qua lắp ráp.Mô hình công nghệ này ở nước ta cũng đã có nhưng chủ yếu mới chỉ tập trung ở những thiết bị,tiện nghi sinh hoạt, tiêu dùng:bưa chính- viễn thông ,ôtô xe máy,vô tuyến,…
Giai đoạn 4: Phát triển công nghệ nhờ Lixăng (giấy chứn nhận quyền sở hữu công nghệ đối với các sáng chế đang áp dụng)
Giai đoạn 5: Đổi mới công nghệ nhờ nghiên cứu và triển khai.Thích ứng công nghệ nhập, cải tiến cho phù hợp.Thích ứng công nghệ nhập, cải tiến cho phù hợp . ở nước ta hiện nay ddax có một vai yếu tố trong giai đoạn này như trong lĩnh vực nông nghiệp : lai tạo giống mới ; bước đầu sản xuất những vật liệu mới.
Giai đoạn 6 : Xuất khẩu công nghệ trên cơ sở nghiên cứu triên khai . ở nước ta hiện nay chưa đạt đến giai đoạn này.
Giai đoạn 7 : Liên tục đổi mới công nghệ dựa trên đầu tư cao về nghiên cứu cơ bản . ở nước ta cũng hoàn toàn chưa có giai đoạn này.
Đặc điểm nôi bật của sự phát triển công nghệ hiện nay ở nước ta là tính phức tạp , đan xen, chắp vá. Trong một số lĩnh vực sản xuất, dịch vụ , kinh doanh chúng ta đã có nhập những trang thiết bị rất hiện đại, không thua kém gì nhiều nước trong khu vực , như trong lĩnh vực bưu chính viễn thông, ta đã có những bước tiến khá dài so với 10 năm: các loại máy vi tin các thế hệ về sau này,sư dụng Internet toàn cầu, diện thoại , điện báo…, một số các máy móc sử dụng trong lĩng vực y tế… Trong khi đó chúng ta vẫn còn sử dụng rất rộng rãi phổ biến các công cụ sản xuất thô sơ lạc hậu, đăc biệt là trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp , tiểu thủ công nghiệp.
Sự không đồng bộ, chắp vá cũ nát của các trang thiết bị do lâu ngày không được thay thế, đổi mới, và còn do cả sự nhập nội các trang thiết bị cũ đã bị thảI ra từ nước ngoài trong những năm gần đay là nguyên nhân đưa đến sự lãng phí quá lớn các nguồn tài nguuyên thiên nhiên , gây ô nhiễm môi trường, năng suất và chất lượng sản phẩm thấp…
Yếu tố thứ 2 của công nghệ là con người – là nguồn nhân lực. Đó là những người lao động có nghề nghiệp được đào tạo khoa học kỹ thuật. Yếu tố này có thể coi là một thế mạnh của ta. Về mặt số lượng: hiện nay nước ta đứng thứ 13 về quy mô dân số trong hơn 200 nước trên thé giới. Tốc độ tăng dân số ở nước ta cho dến nay vẫn còn khá cao. Số người bổ sung thêm vào lực lượng xã hội hàng năm khoảng 1triệu người, trong khi đó số người hết tuổi lao động hàng năm chỉ bằng khoảng 1/3.Đây vừa là thuận lợi nhưng đồng thời cũng là khó khăn của chúng ta trong quá trình CNH,HĐH.
Về mặt lý thuyết,quy mô dân số đông,nguồn lao động dòi dào đó chính là sức mạnh của quốc gia,là yếu tố cơ bản để mở rộng sản xuất.Tuy nhiên,trong điều kiện cụ thể của nước ta, do nguồn vốn còn hạn hẹp, công cụ sản xuất lạc hậu, thô sơ, khả năng mở rộng sản xuất còn rất hạn chế,thì nguồn lực lao động tăng nhanh trở thành sức ép lớn đối với sự phát triển kinh tế-xã hội.
Trình độ phân công lao động thấp kém của một nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp lạc hậu đã có ảnh hưởng tiêu cực đến việc phát huy nguồn lực con người ở nước ta hiện nay.Lao động trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp vẫn còn chiếm tới hơn 70%, số còn alị thuộc các lĩnh vực lao động khác như công nghiệp ,dịch vụ.Điều đáng lo ngại nhất là lực lượng lao động được đào tạo kỹ thuật nghề nghiệp còn rất thấp.Hiện nay lực lượng lao động giản đơn (92,1%) vẫn chiếm số áp đảo so với lao động trí tuệ (7,9%)
Xét về độ tuổi, nhìn chung lực lượng lao động ở nước ta hiện nay được xếp vào loại trẻ,có 54% số người trong tuổi lao động là thanh niên (16-35 tuổi).Lực lượng lao động trẻ có nhiều thuận lợi lớn là sức khoẻ tốt ,năng động,sáng tạo phù hợp với nhu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH.Tuy nhiên ,đội ngũ những người lao động kỹ thuật ,những người có trình độ học vấn cao,họ đang năm những vị trí quan trọng trong sản xuất,kinh doanh,dịch vụ,trong các cơ quan nghiên cứu khoa học cũng như các trường đại học,cao đẳng,trung học chuyên nghiệp hay các trường dạy nghề đang bị già hoá,trong khi đội ngũ thay thế chưa phát triển kịp.
Yếu tố thứ ba của công nghệ hiện đại là thông tin. Trong nhiều năm nay Đảng ta đặc biệt quan tâm đến việc phát triển công nghệ thông tin, coi đó là một trong những mũi nhọn công nghệ phẩi phát triển trước một bước.Trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, một lần nữa Đảng ta khẳng định “Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học”
Đối với nước ta lĩnh vực thông tin nói chung ,công nghệ thông tin nói riêng đang rất mới mẻ.Hầu hết các trang thiết bị kỹ thuật của thông tin và công nghệ thông tin hiện đại chúng ta đều nhập từ nước ngoài,tuy rằng chúng ta đang sử dụng những trang thiết bị rất hiện đại. Tuy nhiên xét về nguồn tiềm năng trí tuệ thông tin cũng là một thế mạnh của chúng ta trong tương lai , vì con người Việt Nam có tố chất thông minh nhanh nhạy. Bởi vì một trong những thế mạnh của khoa học công nghệ ngày nay không chỉ là chế tạo , sản xuất ra các trang thiết bị kỹ thuật tiên tiến, mà còn được biểu hiện ở kỹ năng vận dụng sử dụng trong thực tiễn. Do đó có thể nói về thực trạng công nghệ, xét theo yếu tố thông tin tuy hiện nay ta mới bắt đầu phát triển hội nhập trong qua trình toan cầu hoá, nhưn đã có những tín hiệu hứa hẹn một tiềm năng lớn, một sự phát triển nhanh chóng trong tương lai.
Yếu tố cơ bản thứ tư của công nghệ là tổ chức quản lý.Từ khi đất nươc bước vào đổi mới nước ta đã có bước chuyển từ cơ chế quản lý tập trung hành chính quan liêu bao cấp sang cơ chê quản lý thị trường xây dựng xã hội chủ nghĩa. Sự chuyển đổi cơ chế đó đã thực sự đem lại một sức sống mới,một bầu không khí làm ăn mới cho đất nước.ta gặp rất nhiều khó khăn,đặc biệt là về cơ chế quản lý ở cả tầm vi mô lẫn vĩ mô.Chúng ta chưa có được một hệ thống quản lý thông thoáng,đồng bộ,nhất quán; luật pháp lại chưa hoàn thiện,việc thi hành pháp luạt và những quy luật dưới luật chưa nghiêm,chưa công bằng.Vì vậy đã gây khó khăn ,cản trở cho chúng ta trong công tác tổ chức,quản lý,điều hành xã hội nói chung trong việc phát triến sản xuất,kinh doanh và dịch vụ nói riêng.Vấn đề tổ chức ,quản lý vẫn đang là một trong những vấn đề phức tạp, nan giải nhất hạn chế việc khai thác và phát huy có hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước: nguồn vốn tài chính, nguồn tài nguyên thiên nhiên, và đặc biệt nguồn lực con người.
b. Mâu thuẫn giữa nhu cầu cấp bách phát triển khoa học và công nghệ nhằm đẩy mạnh sự nghiệp CNH,HĐH với thực trạng và thực lực còn yếu kém của khoa học công nghệ nước ta hiện nay
Việc tìm ra mâu thuẫn và giải quýêt mâu thuẫn luôn là nguồn gốc và động lực thúc đẩy sự phát triển nói chung.Việc phát hiện ra mâu thuẫn giữa nhu cầu cấp bách của sự phát triển khoa học và công nghệ để đẩy mạnh CNH,HĐH,với thực lực và thực trang khoa học công nghệ ở nước ta hiện nay có một quan trọng đắc biệt trong việc thực hiện mục tiêu “tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta căn bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.sau đây là một số mâu thuẫn cơ bản.
Một là, mâu thuẫn giữa nhu cầu rất cấp bách ,rát lớn về các trang thiết bị kỹ thuật hiện đại để đẩy mạnh quá trình CNH,HĐH với thực trạng công nghệ còn quá lạc hậu của đất nước ta hiện nay. Các trang thiết bị kỹ thuật được sử dụng trong sản xuất,chế biến,kinh doanh,dịch vụ ở nước ta hiện nay chủ yếu là thủ công hoặc bán cơ giới.Các trang thiết bị hầu hết đã cũ nát,chắo vá,khập khiễng vì vậy mà không thể cho sản phẩm đáp ứng thị trường xuất khẩu, cũng như không thể bảo vệ được môI trường sống.Một trong những nhiệm vụ quan trọng đầu tiên của CNH,HĐH là phảI trang bị và trang bị lại kỹ thuật máy móc tiên tiến cho các ngành sản xuất kinh doanh,dịch vụ chủ chốt,đặc biệt ưu tiên các ngành công nghệ cao,công nghệ sạch.Nếu ko có công nghệ cao ,công nghệ sạch chúng ta không thẻ gia nhập được vào thị trường thế giới.
Bởi vậy ,việc trang bị và trang bị lại các trang thiết bị may móc cũ, lạc hậu bằng các trang thiết bị kỹ thuật hiện đại của các công nghệ cao,công nghệ sạch là nhu cầu cấp bách dể đảy mạnh quá trình CNH,HĐH,là nhu cầu cấp thiết của sự phát triẻn đaats nước và sự hội nhập toàn cầu.
Hai là, mâu thuẫn giữa sự đòi hỏi phải có một cơ sở vật chất -kỹ thuật đủ mạnh và phù hơpp để đưa công nghệ hiện đại vào quá trìnhCNH,HĐH đất nước với thực trạng cơ sở hạ tầng vật chất- kỹ thuật còn quá nhỏ bé lạc hậu,không đồng bộ hiện nay.Các trang thiết bị kỹ thuật càng cao,hiện đại,càng đòi hỏi những điều kiện vật chất,kỹ thuật đi kèm theo nó cũng phảI cao.Bởi vậy phảI chú trọng đến việc nâng cấp,xây dựng lại cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật như nhà xưởng,đường sá,điện nước…nhằm tăng độ bền và hiệu quả sử dụng các trang thiết bị,đồng thời tránh được sự lãng phí lớn.
Ba là, mâu thuẫn giữa sự đòi hỏi rất cao về xã hội hoá tri thức khoa học công nghệ để có đủ trình độ tiến hành công nghiệp hoá,hiện đại hoá,với mặt bằng dân trí hạn chế,đặc biệt là ở vùng nông thôn rộng lớn với 3/4 dân số cả nước.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của CNH,HĐH là chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế quốc dân từ nông nghiệp –công nghiệp - dịch vụ sang cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ.Điều này có nghĩa là,con người Việt Nam phải chuyển từ lối sống nông nghiệp là chủ yếu sang lối sống công nghiệp với sự thống trị của những tri thức khoa học công nghệ hiện đại có sự kết hợp chặt chẽ giưa lý luận và thực tiễn,phù hợp với lao động trí tuệ .Trình độ dân trí nước ta hiện nay còn rất thấp,đại bộ phận người lao động chưa được đào tạo đầy đủ gây khó khăn cho việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
Bởi vậy việc nâng cao trình độ dan trí,bồi dưỡng nhân tài,tăng cường công tác giáo dục và đào t