Trong bài toán nghiên cứu thủy thạch động 
lực, các tham sốcủa trầm tích và biến động của 
nó có tầm quan trọng đặc biệt. Các tham sốnày 
và sựbiến động của chúng theo không gian và 
thời gian không chỉcho ta cách nhìn nhận về
các diễn biến hình thái có thểxảy ra tại khu vực 
nghiên cứu, mà còn cung cấp thông tin quan 
trọng làm đầu vào cho mô hình toán, phục vụ
thực hiện các dựán. 
Cửa sông và vùng ven bờCửa Tùng (H.1) 
là khu vực đặc biệt, nằm trên nền đất bazan, nơi 
đây chịu tác động của các yếu tốkhí tượng và 
thủy văn sông Bến Hải và biển Đông. Từkhi 
các mục tiêu phát triển kinh tếxã hội của tỉnh 
Quảng Trị được thực thi, Cửa Tùng trởnên một 
khu vực có tầm quan trọng trong ngành du lịch 
và hải sản của tỉnh. Sựra đời của cụm công 
trình: cầu Tùng Luật, khu neo đậu tàu và hậu 
cần nghềcá (cảng cá), kè chắn cát đã tác động 
mạnh đến bức tranh thủy thạch động lực khu 
vực. Sau khi cụm công trình này đi vào hoạt 
động, một lượng cát lớn bịgiữlại ởphía nam 
kè, cùng lúc bãi tắm Cửa Tùng ngày càng xói lở
mạnh. Các tác động công trình này sẽ được 
đánh giá trong một nghiên cứu khác, trong bài 
này nhóm tác giảtập trung vào việc phân tích 
biến động trầm tích dựa trên sốliệu thu thập và 
các đợt khảo sát được thực hiện bởi khoa KT-TV-HDH, trường Đại học KHTN và các cơ
quan khác.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 9 trang
9 trang | 
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1861 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Biến động trầm tích và diễn biến hình thái khu vực cửa sông ven bờ Cửa Tùng, Quảng Trị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 427‐434 
427 
_______ 
Biến động trầm tích và diễn biến hình thái khu vực cửa sông 
ven bờ Cửa Tùng, Quảng Trị 
Nguyễn Thọ Sáo*, Nguyễn Minh Huấn, Ngô Chí Tuấn, Đặng Đình Khá 
Khoa Khí tượng Thủy văn và Hải dương học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN, 
334 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 11 tháng 8 năm 2010
Tóm tắt. Thủy thạch động lực là bài toán phức tạp, đòi hỏi nhiều nguồn số liệu, trong đó có các 
tham số trầm tích, bài này phân tích biến động trầm tích lơ lửng, trầm tích đáy và diễn biến hình 
thái khu vực cửa sông Bến Hải và vùng ven bờ Cửa Tùng trên cơ sở số liệu 2 đợt khảo sát do khoa 
KT-TV-HDH thực hiện 8/2009 và 4/2010 và thu thập của Công ty Tư vấn GTVT (TEDI) năm 
2000. 
Kết quả phân tích sẽ đóng góp các nhận định cơ bản về biến động trầm tích trong khu vực 
nghiên cứu, đồng thời làm số liệu đầu vào cho các mô hình toán. Đã đề xuất chọn đường kính hạt 
trung vị cho khu vực là d50 = 0.27mm và độ chọn lọc cát là 1.4, vận tốc chìm lắng bằng 2cm/s. 
Từ khóa: trầm tích lơ lửng, trầm tích đáy, đường kính hạt trung vị, độ chọn lọc, vận tốc chìm lắng. 
1. Mở đầu∗
Trong bài toán nghiên cứu thủy thạch động 
lực, các tham số của trầm tích và biến động của 
nó có tầm quan trọng đặc biệt. Các tham số này 
và sự biến động của chúng theo không gian và 
thời gian không chỉ cho ta cách nhìn nhận về 
các diễn biến hình thái có thể xảy ra tại khu vực 
nghiên cứu, mà còn cung cấp thông tin quan 
trọng làm đầu vào cho mô hình toán, phục vụ 
thực hiện các dự án. 
Cửa sông và vùng ven bờ Cửa Tùng (H.1) 
là khu vực đặc biệt, nằm trên nền đất bazan, nơi 
đây chịu tác động của các yếu tố khí tượng và 
thủy văn sông Bến Hải và biển Đông. Từ khi 
các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh 
Quảng Trị được thực thi, Cửa Tùng trở nên một 
khu vực có tầm quan trọng trong ngành du lịch 
và hải sản của tỉnh. Sự ra đời của cụm công 
trình: cầu Tùng Luật, khu neo đậu tàu và hậu 
cần nghề cá (cảng cá), kè chắn cát đã tác động 
mạnh đến bức tranh thủy thạch động lực khu 
vực. Sau khi cụm công trình này đi vào hoạt 
động, một lượng cát lớn bị giữ lại ở phía nam 
kè, cùng lúc bãi tắm Cửa Tùng ngày càng xói lở 
mạnh. Các tác động công trình này sẽ được 
đánh giá trong một nghiên cứu khác, trong bài 
này nhóm tác giả tập trung vào việc phân tích 
biến động trầm tích dựa trên số liệu thu thập và 
các đợt khảo sát được thực hiện bởi khoa KT-
TV-HDH, trường Đại học KHTN và các cơ 
quan khác. ∗ Tác giả liên hệ. ĐT: 84-4-38584943. 
 E-mail: saont@vnu edu vn 
N.T. Sáo và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 427‐434 428
2. Nguồn số liệu 
Phương pháp đo đạc, lấy mẫu, phân tích 
được thực hiện bằng các máy móc hiện đại, quy 
trình quy phạm Việt Nam đã ban hành, do đó 
đạt độ tin cậy. 
2.1. Khảo sát địa hình và địa chất công trình 
của TEDI (2000): 
- Bản đồ địa hình 1/2000 với 240ha dưới 
nước, 70ha trên cạn 
- 17 lỗ khoan khu vực đê chắn cát, neo đậu 
tàu và luồng 
- 5 mặt cắt địa tầng. 
Các khảo sát này chỉ tập trung vào khu vực 
cửa sông Bến Hải [1, 2]. 
2.2. Hai đợt khảo sát (đợt 1 từ 12-18/8/2009, 
đợt 2 từ 21-28/4/2010) của Trường ĐH KHTN: 
- Đo đạc địa hình đáy biển (H.2) 
- Đo địa hình trên bờ và đáy sông (H.2) 
- Lấy mẫu bùn cát đáy (H.3) 
- Lấy mẫu trầm tích lơ lửng tại 3 tầng sâu 
0.2h, 0.6h, 0.8h tại biên phía bắc, phía nam, 
trên sông. 
H.1. Khu vực nghiên cứu. 
N.T. Sáo và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 427‐434 429
H.2. Sơ đồ khảo sát địa hình. 
H.3. Vị trí lấy mẫu đáy. 
N.T. Sáo và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 427‐434 430
Các khảo sát này đầy đủ hơn, phạm vi bao 
gồm: sông Bến Hải từ cầu Hiền Lương ra tận 
cửa sông, dải ven biển kéo dài về hai phía cửa 
sông mỗi bên 5-6 km, bề rộng tính ra phía biển 
khoảng 2 km, đến độ sâu khoảng 10-15m, bao 
trùm khu vực sóng đổ. Trên tuyến biên phía bắc 
(D1-B1) và tuyến biên phía nam (D2-B2), lấy 
mẫu lơ lửng tại các vị trí cách bờ 20, 500, 1000 
và 2000m. 
3. Biến động trầm tích 
Xét toàn diện bức tranh trầm tích sẽ rất khó 
khăn, đặc biệt khi thực hiện các dự án xây dựng 
công trình ven bờ. Nếu không xét đầy đủ các 
nguồn trầm tích, các đánh giá có thể sai lệch 
(H.4). Tuy nhiên, các khó khăn về mọi mặt 
không bao giờ cho phép đánh giá định lượng 
đầy đủ các nguồn trầm tích, thậm chí tại các 
nước có đủ điều kiện như Mỹ, Nhật, Hà Lan.. 
Vì vậy các nhà khoa học thường tập trung vào 
các nguồn nổi trội nhất mang tính địa phương 
của khu vực nghiên cứu để thực hiện các đánh 
giá của mình 
H.4. Các nguồn trầm tích cần xét đến khi đánh giá cơ chế vận chuyển. 
H.5. Trích lục biểu đo trầm tích lơ lửng. 
N.T. Sáo và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 427‐434 431
3.1. Trầm tích lơ lửng 
Trong báo cáo của TEDI không có số liệu 
đo đạc và phân tích trầm tích lơ lửng. Trầm tích 
lơ lửng cũng không thuộc diện quan trắc của 
trạm Hiền Lương trong hệ thống trạm do Trung 
tâm Khí tượng Thủy văn Quốc gia quản lý. Các 
kết quả từ 2 đợt đo đạc cho thấy nồng độ trầm 
tích lơ lửng trong sông dao động trong khoảng 
20-30mg/l, vùng ven biển khoảng 30-50mg/l, 
cho thấy ảnh hưởng của tác động sóng trong 
vùng bờ. Điều này phù hợp với các nghiên cứu 
về trầm tích, theo đó nồng độ lơ lửng do tác 
động sóng thường lớn hơn do tác động của 
dòng chảy. Tuy nhiên, đại lượng này vẫn khá 
nhỏ so với một số vùng cửa sông ven biển trên 
thế giới, từ 40-100mg/l. Do vậy trong các tính 
toán thủy động lực, nếu bỏ qua yếu tố này, kết 
quả tính toán sẽ không sai khác đáng kể so với 
trường hợp có xét đến nó. Hình dưới đây trích 
dẫn một số kết quả đo trầm tích lơ lửng trên 
tuyến khảo sát B1-d1 
3.2. Trầm tích đáy 
Chúng ta sẽ sử dụng thang phân loại trầm 
tích dưới đây [3]: 
H.6. Thang phân loại trầm tích Welnworth [3]. 
H.7. Phía bắc bãi tắm Cửa Tùng là cát trắng mịn, phía nam bãi là cát vàng thô hơn. 
N.T. Sáo và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 427‐434 432
Với khảo sát của TEDI, chỉ sử dụng trầm 
tích mặt của 18 lỗ khoan trong phân tích này. 
Các lỗ khoan chỉ tập trung vào khu vực nhỏ, 
chủ yếu phục vụ cho việc thiết kế các công 
trình: cầu, cảng, kè. Nếu chỉ lấy trầm tích tầng 
mặt của các lỗ khoan có thể thấy đường kính 
trung vị trung bình của hạt là d50 = 0.32mm, độ 
chọn lọc σ = 1.8-2.2. Trong khảo sát đợt 1 của 
ĐH KHTN (8/2009) với 39 mẫu, d50 = 0.16mm, 
σ = 1.2-2, cá biệt có vị trí đạt đến 5. Khảo sát 
đợt 2 với 30 mẫu cho thấy d50 = 0.1mm, σ = 
1.1-2.3, cá biệt có vị trí đạt đến 3. Như vậy 
trong khu vực này trầm tích thuộc loại cát bở 
rời, không kết dính và nên được xếp vào loại 
nhiều cấp (multi-fraction) thay vì nhiều lớp 
(multi-layer). 
Với các đặc trưng trên, vận tốc chìm lắng 
của hạt (trong nước tĩnh, nhiệt độ nước 25-
30oC) khoảng 2cm/s. Lưu ý rằng các giá trị d50 
và σ là trung bình của toàn bộ số mẫu, phân bố 
của chúng diễn biến phức tạp hơn theo không 
gian và thời gian (H.9a, b, c). Bằng cách thô 
thiển, thấy rằng đường kính hạt trung vị theo 
trung bình số mẫu có vẻ thô hơn trong thời gian 
trước đây và mịn hơn gần đây, cho thấy có sự 
xáo trộn của chế độ thủy động lực, vốn là động 
lực chính tác động lên phân bố trầm tích theo 
nguyên nhân ngoại sinh. Đường kính hạt 
chuyển từ thô (d50 = 0.35mm) ở ven bờ sang 
mịn dần (d50 = 0.08mm) khi hướng ra biển, hợp 
với quy luật chung của các bãi biển chịu tác 
động chủ yếu của sóng. Trầm tích phía bắc cửa 
sông hầu hết là cát vàng hơi thô, còn phía nam 
cửa sông, đặc biệt phía dưới kè chắn sóng là cát 
trắng mịn hơn. Mặt khác, chỉ tại bãi tắm Cửa 
Tùng, thấy rằng phần phía bắc bãi có cát trắng 
mịn mang nguồn gốc cát từ phía nam, phần phía 
nam bãi có cát vàng thô hơn mang nguồn gốc từ 
phía bắc bãi (H. 7). Từ đó có thể nhận định rằng 
phân bố trầm tích do dòng chảy sóng là kết quả 
của cơ chế đề xuất dưới đây: 
H.8. Cơ chế đề xuất cho vận chuyển trầm tích tại bãi tắm Cửa Tùng. 
N.T. Sáo và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 427‐434 433
Qua kết quả phân tích thấy rằng có thể lấy 
d50 = 0.27mm và σ = 1.4 là thích hợp đối với 
vùng này. Cũng thấy rằng nếu cơ chế trên là 
phù hợp, thì rõ ràng nguồn cát trắng mịn từ phía 
nam đi lên phía bắc do tác động của dòng chảy 
sóng đã bị chặn lại một phần do tác động của kè 
chắn sóng, phần còn lại đi lên phía bắc ít cơ hội 
tiếp xúc trực tiếp với bãi tắm Cửa Tùng do sự 
hiện diện của kè này. 
4. Biến động hình thái 
a) Diễn biến đường bờ có thể nhận thấy trên 
H.9, các bản đồ của Hải quân với tỷ lệ 1: 100 
000 và 1: 200 000 không đủ mô tả chính xác 
đường bờ, trong khi ảnh hàng không 2004, bản 
đồ Google và đường bờ từ 2 đợt khảo sát cho 
thấy sự bồi tụ đáng kể sau kè phía nam và xói 
lở ở các bãi phía bắc cửa sông Bến Hải. 
b) Thay đổi mặt cắt ngang diễn ra đáng kể 
(H.10). Các hình vẽ thiết diện ngang cho thấy 
xói lở đang hiện diện tại mọi nơi ở bãi tắm Cửa 
Tùng. Xói lở mạnh xảy ra khoảng 100m từ 
đường bờ trở ra, sau đó bình diện đáy trở nên 
ổn định. 
Các biến động hình thái xảy ra với cường 
độ mạnh trong những năm gần đây, trùng hợp 
với việc hệ thống công trình cầu, kè, cảng cá đi 
vào hoạt động. Tuy nhiên các tác động công 
trình không được xem xét ở đây. 
H.9a. Đường kính hạt d50 (TEDI). H.9b. Đường kính hạt d50 
(KS đợt1). 
H.9c. Đường kính hạt d50 
(KS đợt 2). 
N.T. Sáo và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 427‐434 434
H.10a. Thiết diện phía bắc bãi. H.10b. Thiết diện phía giữa bãi. H.10c. Thiết diện phía nam bãi. 
5. Nhận xét và thảo luận 
Bồi tụ và xói lở bờ biển là hiện tượng xảy ra 
liên tục và thường xuyên tại vùng biển Việt 
Nam, với tốc độ ngày càng gia tăng và khu vực 
Cửa Tùng không là ngoại lệ. Sự phân tích trên 
đây có thể chưa toàn diện vì chỉ dựa trên nguồn 
số liệu hạn hẹp, nhưng phần nào cho thấy sự 
biến động của trầm tích và hình thái bờ biển 
theo không gian và thời gian trong vùng. Các 
biến động có thể đạt trạng thái cân bằng trong 
10-15 năm tới. Kết quả phân tích có thể làm căn 
cứ cho đầu vào các mô hình thủy thạch động 
lực được ứng dụng về sau để lựa chọn giải pháp 
cải tạo thích hợp bãi tắm Cửa Tùng. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Báo cáo khảo sát địa hình-thủy văn, Công ty Tư 
vấn Xây dựng Cảng đường thủy, Hà Nội, 2000. 
[2] Báo cáo khảo sát địa chất công trình, Công ty 
Tư vấn Xây dựng Cảng đường thủy, Hà Nội, 
2000. 
[3] Soulsby, Động lực học cát biển - Hướng dẫn các 
ứng dụng thực hành, Thomas Telford, 199 
Variations of sediment and morphology changes in Cua Tung 
beach and adjacent region, Quang Tri province 
Nguyen Tho Sao, Nguyen Minh Huan, Ngo Chi Tuan, Dang Dinh Kha 
Faculty of Hydro-Meteorology & Oceanography, Hanoi University of Science, VNU, 
334 Nguyen Trai, Hanoi, Vietnam
Geohydrodynamics is always a complicated problem, requiring a lot of input data, in which 
sediment characteristics are the most important. This paper describes these parameters including 
suspended and bed sediment, morphology change in Ben Hai river mouth and Cua Tung beach. The 
analysis is based on field surveys implemented by Hydrometeorology and Oceanography Faculty 
under Hanoi University of Science in 2009 and 2010, added by the survey of TEDI in 2000. 
The analysis is considered to be useful for assessment of sediment variation in the region of study 
and may be served as an in put to mathematical models as well. As a results, the mean diameter of 
sand can be taken as d50 = 0.27mm and the sorting parameter as 1.4, settling velocity as 2cm/s. 
Keywords: suspended sediment, bed sediment, mean grain size, sorting parameter, settling velocity. 
N.T. Sáo và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 427‐434 428