Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam đã thu được những kết quả bước đầu quan trọng. Thời gian qua, Việt Nam đã đứng vững được trước những sóng gió biến động lớn bất lợi của tình hình thế giới và trong nước, nền kinh tế Việt Nam vẫn đứng trước nhiều thử thách.
Sau một thời gian thực hiện chủ trương đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có dáng dấp của một nền kinh tế thị trường. Những quan hệ hàng hoá, tiền tệ đang dần dần thay thế quan hệ phân phối hiện vật của thời kỳ tập trung quan liêu bao cấp. Bộ mặt kinh tế của đất nước đã có những thay đổi cơ bản, những nguồn lực quý báu của đất nước đã được sử dụng hiệu quả hơn. Quan hệ kinh tế của Việt Nam với các nước đã đi vào chiều sâu là cơ hội để Việt Nam hội nhập tốt hơn vào nền kinh tế thế giới. Mức sống của nhân dân được cải thiện, tốc độ tăng trưởng ở mức cao, trong điều kiện phải đối phó với muôn vàn khó khăn từ bên trong và từ bên ngoài, đã phần nào khẳng định được tính chất đúng đắn của con đường cải cách, từ đó cho phép đặt niềm tin vững chắc vào khả năng “cất cánh” của Việt Nam trong tương lai.
Kinh nghiệm thành công của các nước đi trước đã để lại nhiều bài học quan trọng. Có nước đã sử dụng nguồn vốn bên ngoài làm nguồn vốn chủ lực cho sự phát triển, còn nguồn vốn tích luỹ trong nước chỉ có tính chất bổ trợ cho nguồn vốn bên ngoài. Ơ một số nước khác, với ý thức tự lập tự chủ cao và không muốn từ chỗ lệ thuộc về kinh tế dẫn đến lệ thuộc về chính trị đã lựa chọn nguồn vốn nội địa làm nguồn vốn chủ đạo để phát triển. Tuy phương thức lựa chọn nguồn vốn chủ đạo có khác nhau và sự thành công của các nước cũng khác nhau theo nhiều góc độ, nhưng nhìn chung ở mỗi loại đều có một ưu thế nhất định.
Để bắt nhịp cùng với đà đi lên của đất nước. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng đua nhau để phát triển. Trong mỗi doanh nghiệp vốn cũng là điều kiện đầu tiên và quan trọng nhất để doanh nghiệp có thể tồn tại phát triển và tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, vấn đề để huy động vốn từ những phương thức nào là rất quan trọng nó luôn gắn chặt với tiến trình phát triển của mỗi doanh nghiệp.
Doanh nghiệp Nhà nước là một trong những thành phần kinh tế được Nhà nước ưu tiên phát triển và giữ một vai trò chủ đạo nhất trong nền kinh tế đất nước ta. Việc đưa ra được một phương thức huy động vốn tối ưu nhất là mối quan tâm hàng đầu của mỗi doanh nghiệp
Xuất phát từ đòi hỏi trên và cũng là phù hợp với chuyên ngành Tài Chính Doanh Nghiệp của em . Vì vậy, em quyết định chọn đề tài : “ Biện pháp tăng cường khai thác các nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh trong các Doanh nghiệp nhà nước của nước ta hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của mình.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo đề tài của em bao gồm 2 chương
Chương I : Vốn và tầm quan trọng của vốn đối với các doanh nghiệp
Chương II : Biện pháp tăng cường khai thác các nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh của các Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) ở nước ta hiện nay.
32 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1318 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Biện pháp tăng cường khai thác các nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh trong các Doanh nghiệp nhà nước của nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
LờI NóI ĐầU
Lời nói đầu.
Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam đã thu được những kết quả bước đầu quan trọng. Thời gian qua, Việt Nam đã đứng vững được trước những sóng gió biến động lớn bất lợi của tình hình thế giới và trong nước, nền kinh tế Việt Nam vẫn đứng trước nhiều thử thách.
Sau một thời gian thực hiện chủ trương đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có dáng dấp của một nền kinh tế thị trường. Những quan hệ hàng hoá, tiền tệ đang dần dần thay thế quan hệ phân phối hiện vật của thời kỳ tập trung quan liêu bao cấp. Bộ mặt kinh tế của đất nước đã có những thay đổi cơ bản, những nguồn lực quý báu của đất nước đã được sử dụng hiệu quả hơn. Quan hệ kinh tế của Việt Nam với các nước đã đi vào chiều sâu là cơ hội để Việt Nam hội nhập tốt hơn vào nền kinh tế thế giới. Mức sống của nhân dân được cải thiện, tốc độ tăng trưởng ở mức cao, trong điều kiện phải đối phó với muôn vàn khó khăn từ bên trong và từ bên ngoài, đã phần nào khẳng định được tính chất đúng đắn của con đường cải cách, từ đó cho phép đặt niềm tin vững chắc vào khả năng “cất cánh” của Việt Nam trong tương lai.
Kinh nghiệm thành công của các nước đi trước đã để lại nhiều bài học quan trọng. Có nước đã sử dụng nguồn vốn bên ngoài làm nguồn vốn chủ lực cho sự phát triển, còn nguồn vốn tích luỹ trong nước chỉ có tính chất bổ trợ cho nguồn vốn bên ngoài. Ơ một số nước khác, với ý thức tự lập tự chủ cao và không muốn từ chỗ lệ thuộc về kinh tế dẫn đến lệ thuộc về chính trị đã lựa chọn nguồn vốn nội địa làm nguồn vốn chủ đạo để phát triển. Tuy phương thức lựa chọn nguồn vốn chủ đạo có khác nhau và sự thành công của các nước cũng khác nhau theo nhiều góc độ, nhưng nhìn chung ở mỗi loại đều có một ưu thế nhất định.
Để bắt nhịp cùng với đà đi lên của đất nước. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng đua nhau để phát triển. Trong mỗi doanh nghiệp vốn cũng là điều kiện đầu tiên và quan trọng nhất để doanh nghiệp có thể tồn tại phát triển và tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, vấn đề để huy động vốn từ những phương thức nào là rất quan trọng nó luôn gắn chặt với tiến trình phát triển của mỗi doanh nghiệp.
Doanh nghiệp Nhà nước là một trong những thành phần kinh tế được Nhà nước ưu tiên phát triển và giữ một vai trò chủ đạo nhất trong nền kinh tế đất nước ta. Việc đưa ra được một phương thức huy động vốn tối ưu nhất là mối quan tâm hàng đầu của mỗi doanh nghiệp
Xuất phát từ đòi hỏi trên và cũng là phù hợp với chuyên ngành Tài Chính Doanh Nghiệp của em . Vì vậy, em quyết định chọn đề tài : “ Biện pháp tăng cường khai thác các nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh trong các Doanh nghiệp nhà nước của nước ta hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của mình.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo đề tài của em bao gồm 2 chương
Chương I : Vốn và tầm quan trọng của vốn đối với các doanh nghiệp
Chương II : Biện pháp tăng cường khai thác các nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh của các Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) ở nước ta hiện nay.
Chương I
Vốn và tầm quan trọng của vốn đối với các doanh nghiệp
1.1 Tổng quan về vốn của doanh nghiệp
Vốn là điều kiện không thể thiếu được để một doanh nghiệp được thành lập và tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhận thức được điều đó đã có nhiều quan niệm khác nhau về vốn mà các nhà kinh tế học đã đưa ra. Dưới đây là một số khái niệm về vốn
1.1.1 Các khái niệm về vốn
Theo quan điểm của Marx, ông cho rằng : dưới góc độ các yếu tố sản xuất, vốn đã được khái quát hoá thành phạm trù tư bản trong đó nó đem lại giá trị thặng dư và là “một đầu vào của quá trình sản xuất”
Định nghĩa về vốn của Marx có một tầm khái quát lớn vì nó bao hàm đầy đủ cả bản chất và vai trò của vốn. Bản chất của vốn chính là giá trị, cho dù nó có thể được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như đất đai, nhà cửa, máy móc… vốn là gía trị đem lại giá trị thăng dư vì nó tạo ra sự sinh sôi về giá trị thông qua các hoạt động sản xuất – kinh doanh. Tuy nhiên, do hạn chế về trình độ kinh tế lúc bấy giờ, Marx chỉ bó hẹp khái niệm về vốn trong khu vực sản xuất vật chất và cho rằng chỉ có kinh doanh sản xuất vật chất mới tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế. Paul Samuelson, người đại diện cho trường phái tân cổ điển đã thứa kế quan niệm về các yếu tố sản xuất của trường phái cổ điển và phân chia các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất ra thành ba loại chủ yêú là đất đai lao động và vốn. Theo ông vốn là “ các hàng hoá được sản xuất ra để phục vụ cho một quá trình sản xuất rất mới, là đầu vào cho hoạt động sản xuất của một doanh nghiệp”, vốn có thể là máy móc, trang thiết bị, vật tư …
Tuy nhiên, trong quan niệm về vốn của mình, Samuelson lại không đề cập tới các tài sản tài chính, những giấy tờ có giá có thể đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Ông đã đồng nhất vốn với tài sản cố định của doanh nghiệp
Theo David Begg, tác giả cuốn “kinh tế học” thì vốn bao gồm vốn hiện vật và vốn tài chính doanh nghiệp. Vốn hiện vật là dự trữ hàng hoá đã sản xuất để sản xuất ra hàng hoá khác. Vốn tài chính là tiền và các giấy tờ có giá của doanh nghiệp
Marx mới định nghĩa được về vốn một cách khái quát
Paul Samuelson và David Begg thì đã đồng nhất vốn với tài sản của doanh nghiệp. Thực chất là biểu hiện bằng tiền của tất cả tài sản của doanh nghiệp dùng trong sản xuất kinh doanh. Vốn của doạnh nghiệp được phản ánh trong bảng cân đối tài sản của doanh nghiệp. Bất cứ doanh nghiệp nào cũng cần phải có một lượng vốn nhất định để thực hiện những khoản đầu tư cần thiết như chi phí thành lập doanh nghiệp, mua sắm nguyên vật liệu, trả lãi vay nộp thuế và nhiều khoản khác đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được liên tục. Ngoài ra còn phải kể đến chi phí mua công nghệ và máy móc thiết bị mới… để tái sản xuất mở rộng. Do vậy, vốn đưa vào sản xuất kinh doanh có nhiều hình thái vật chất khác nhau để từ đó tạo ra sản phẩm hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ trên thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường vốn được coi là một loại hàng hóa. Nó giống các hàng hoá khác ở chỗ có chủ sở hữu đích thực, nhưng nó lại có đặc điểm khác vì người sở hữu vốn có thể bán quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất định. Cái giá của quyền sử dụng vốn chính là lãi suất. Chính nhờ có sự tách rời quyền sở hữu và quyền sử dụng nên vốn có thể lưu chuyển trong đầu tư kinh doanh và có thể sinh lời. Với doanh nghiệp, vốn là một trong nhứng điều kiện vật chất cơ bản kết hợp với sức lao động và các yếu tố khác làm đầu vào cho quá trình sản xuất kinh doanh. Sự tham gia của vốn không chỉ bó hẹp trong quá trình sản xuất riêng biệt mà trong toàn bộ quá trình sản xuất và tái sản xuất tiêu thụ, suốt cả thời gian tồn tại của doanh nghiệp
Quan niệm về vốn trong nền kinh tế thị trường đã được đúc kết lại như sau : “ vốn là toàn bộ giá trị ứng ra ban đầu và các quá trình sản xuất tiếp theo của doanh nghiệp tạo ra giá trị thặng dư”.
1.1.2 Các nguồn vốn của doanh nghiệp và phương thức huy động
Tuỳ theo loại hình doanh nghiệp có thể có các phương thức huy động vốn khác .Trong điều kiện kinh tế thị trường , các phương thức huy động vốn của doanh nghiệp đượng đa dạng hoá nhằm khai thác mọi nguồn vốn trong nên kinh tế . Tuy nhiên , cần lưu ý rằng, trong hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam do thi trường tài chính chưa phát triển hoàn chỉnh nên việc khai thác vốn có nhiều nét đặc trưng nhất định . Sự phát triển nhanh chóng và thị trường tài chính sẽ sớm tạo điều kiện để các doanh nghiệp mở rộng khả năng thu hút vốn vào kinh doanh.
1.1.2.1 Nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp
Đối với mọi loại hình doanh nghiệp, vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao gồm các bộ phận.
*Vốn góp ban đầu.
Khi doanh nghiệp được thành lập bao giờ chủ doanh nghiệp cũng phải có một số vốn ban đầu nhất định do các cổ đông –chủ sở hữu góp.Khi nói đến nguồi vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao giờ cũng phải xem xết hình thức sở hữu của doanh nghiệp đó ,vì hình thức sở hữu sẽ quyết định tính chất và hình thức tạo vốn của bản thân doanh nghiệp.
Đối với DNNN,vốn góp ban đầu chính là vốn đầu tư của Nhà nước . Chủ sở hữu của các DNNN là Nhà nước. Hiện nay cơ chế quản lý tài chính nói chung và quản lý vốn của doanh nghiệp Nhà nước nói riêng đang có những thay đổi để phù hợp với tình hình thực tế.
*Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia
Quy mô vốn ban đầu của chủ doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng, tuy nhiên, thông thường, số vốn này cần được tăng theo quy mô phát triển của doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động sản xuất - kinh doanh nếu doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả thì doanh nghiệp sẽ có những điều kiện thuận lợi để tăng trưởng nguồn vốn. Nguồn vốn tích luỹ từ lợi nhuận không chia là bộ phận lợi nhuận được sử dụng để tái đầu tư, mở rộng sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp.
Tự tài trợ bằng lợi nhuận không chia, nguồn vốn nội bộ là một phương thức tạo nguồn rất quan trọng và khá hấp dẫn của các doanh nghiệp, vì doanh nghiệp giảm được chi phí, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài. Rất nhiều doanh nghiệp coi trọng lợi nhuận từ tái đầu tư để lại, họ đặt ra mục tiêu phải có khối lượng lợi nhuận để lại đủ lớn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng.
Nguồn vốn tái đầu tư từ lợi nhuận để lại chỉ có thể thực hiện được nếu doanh nghiệp đã và đang hoạt động có hiệu quả, được phép tiếp tục đầu tư. Đối với các DNNN thì việc tái đầu tư phụ thuộc không chỉ vào khả năng sinh lời của bản thân doanh nghiệp mà còn phụ thuộc vào chính sách khuyến khích tái đầu tư của Nhà nước.
Tuy nhiên đối với các công ty cổ phần thì việc để lại lợi nhuận liên quan đến một số yếu tố rất nhạy cảm. Khi công ty để lại một phần lợi nhuận trong năm cho tái đầu tư, tức là không dùng số lợi nhuận đó để chia lãi cổ phần, các cổ đông không được nhận tiền lãi cổ phần (cổ tức) nhưng bù lại, họ có quyền sở hữu số vốn cổ phần tăng lên của công ty.
Như vậy, giá trị ghi sổ của các cổ phiếu sẽ tăng lên cùng với việc tự tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ. Điều này một mặt, khuyến khích cổ đông giữ cổ phiếu lâu dài, nhưng mặt khác, dễ làm giảm tính hấp dẫn của cổ phiếu trong thời kỳ trước mắt (ngắn hạn) do cổ đông chỉ nhận được một phần cổ tức nhỏ hơn. Nếu tỷ lệ chi trả cổ tức thấp, hoặc số lãi ròng không đủ hấp dẫn thì giá cổ phiếu có thể giảm sút.
*Phát hành cổ phiếu
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể tăng vốn chủ sở hữu bằng cách phát hành cổ phiếu mới
Một nguồn tài chính dài hạn rất quan trọng là phát hành cổ phiếu để huy động vốn cho doanh nghiệp. Phát hành cổ phiếu được gọi là hoạt động tài trợ dài hạn của doanh nghiệp. Chúng ta sẽ xem xét một số yếu tố cơ bản liên quan đến phát hành các loại cổ phiếu khác nhau. Có hai loại cổ phiếu được phát hành
** Cổ phiếu thường
Là loại cổ phiếu thông dụng nhất vì nó có những ưu thế trong việc phát hành ra công chúng và trong quá trình lưu hành trên thị trường chứng khoán. cổ phiếu thường là chứng khoán quan trọng nhất được trao đổi, mua bán trên thị trường chứng khoán, điều đó cũng đủ để chứng minh tầm quan trọng của nó so với các công cụ tài chính khác
**Cổ phiếu ưu tiên
Cổ phiếu ưu tiên chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng số cổ phiếu được phát hành. Tuy nhiên trong một số trường hợp, việc dùng cổ phiếu ưu tiên là cách thích hợp. Cổ phiếu ưu tiên có đặc điểm là nó có cổ tức cố định. Người chủ cổ phiếu này có quyền được thanh toán lãi trước các cổ đông thường. Nếu lãi chỉ đủ trả cổ tức cho các cổ đông ưu tiên thì các cổ đông thương sẽ không được nhận cổ tức của kỳ đó.
1.1.2.2 Nợ và các phương thức huy động nợ của doanh nghiệp
Để bổ sung vốn cho quá trình sản xuất – kinh doanh, doanh nghiệp có thể sử dụng nợ từ các nguồn : tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại và vay thông qua phát hành trái phiếu.
* Nguồn vốn tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại
Có thể nói rằng vốn vay ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất, không chỉ đối với sự phát triển của bản thân mỗi doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự hoạt động và phát triển của mỗi doanh nghiệp đều gắn liền với các dịch vụ tài chính do các ngân hàng thương mại cung cấp, trong đó có việc cung ứng các nguồn vốn.
Không một doanh nghiệp nào không vay vốn ngân hàng hoặc không sử dụng tín dụng thương mại nếu doanh nghiệp đó muốn tồn tại vững chắc trên thương trường. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp thường vay ngân hàng để đảm bảo nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất – kinh doanh, đặc biệt là có đủ vốn đảm bảo cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp.
Về mặt thời hạn vốn vay ngân hàng có thể được phân loại theo thời hạn vay, bao gồm: vay dài hạn (thường tính từ 3 năm trở lên ), vay trung hạn ( từ 1 năm đến 3 năm) và vay ngắn hạn (dưới 1 năm). Tiêu chuẩn và quan niệm về thời hạn để phân loại trong thực tế không giống nhau giữa các nước và có thể khác nhau giữa các ngân hàng thương mại.
Tuỳ theo tính chất và mục đích sử dụng, ngân hàng cũng có thể phân loại cho vay thành các loại như: cho vay đầu tư tài sản cố định, cho vay đầu tư tài sản lưu động, cho vay để thực hiện dự án. cũng có những cách phân chia khác như: cho vay theo ngành kinh tế, theo lĩnh vực phục vụ hoặc theo hình thức bảo đảm tiền vay.
Nguồn vốn tín dụng ngân hàng có nhiều ưu điểm nhưng nguồn vốn này cũng có những hạn chế nhất định. Đó là các hạn chế về điều kiện tín dụng, kiểm soát của ngân hàng và chi phí sử dụng vốn
Đối với doanh nghiệp tài trợ bằng nguồn vốn tín dụng thương mại là nguồn tài trợ rẻ, tiện dụng và linh hoạt trong kinh doanh, hơn nữa nó còn tạo khả năng mở rộng quan hệ hợp tác trong kinh doanh một cách lâu bền. Các điều kiện ràng buộc cụ thể có thể được ấn định khi hai bên ký kết hợp đồng mua bán hay hợp đồng kinh tế nói chung. Chi phí cho sử dụng nguồn vốn tín dụng thương mại thể hiện qua lãi suất của khoản vay, đó là chi phí lãi vay, sẽ được tính vào giá thành sản phẩm hay dịch vụ. Khi mua bán hàng hoá trả chậm, chi phí này có thể “ẩn” đưới hình thức thay đổi mức giá, tuỳ thuộc vào quan hệ thoả thuận cụ thể giữa các bên. trong xu hướng hiện nay ở Việt Nam cũng như trên thế giới các hình thức tín dụng ngày càng được đa dạng hoá và linh hoạt hơn, với tính chất cạnh tranh hơn; do đó, các doanh nghiệp cũng có nhiều cơ hội để lựa chọn nguồn vốn tài trợ cho hoạt động của doanh nghiệp.
*Phát hành trái phiếu công ty
trái phiếu là tên chung của các giấy tờ vay nợ dài hạn và trung hạn, bao gồm: trái phiếu chính phủ và trái phiếu công ty. Trái phiếu còn được gọi là trái khoán. Việc lựa chọn trái phiếu thích hợp là rất quan trọng vì nó liên quan đến chi phí trả lãi, khả năng lưu hành và tính hấp dẫn của trái phiếu. Trước khi quyết định phát hành cần hiểu rõ đặc điểm ưu và nhược điểm của mỗi loại trái phiếu. Trên thị trường tài chính ở nhiều nước hiện nay thường lưu hành các loại trái phiếu doanh nghiệp như sau:
- Trái phiếu có lãi suất cố định
- Trái phiếu có lãi suất thay đổi
- Trái phiếu có thể thu hồi
- Chứng khoán có thể chuyển đổi
1.2 Tầm quan trọng của vốn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Đối với mọi doanh nghiệp, dù thuộc bất kỳ thành phần nào, với bất kỳ quy mô nào thì vốn vẫn là điều kiên tiên quyết không thể thiếu được. Để doanh nghiệp tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh vốn chính là tiền đề là cơ sở cho sự mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh.
Vốn quyết định mức độ trang thiết bị cơ sở vật chất kỹ thuật, ứng dụng các thành tựu khoa học vào sản xuất kinh doanh, quyết định khả năng đổi mới máy móc thiết bị, quy trình công nghệ, phương pháp quản lý mới trong doanh nghiệp. Theo đó doanh nghiệp có thể liên tục đổi mới, nâng cao chất lượng mẫu mã sản phẩm, tăng năng suất lao động.
Việc đảm bảo đủ nguồn vốn sẽ giúp doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất một cách thường xuyên và liên tục, doanh nghiệp có thể chớp được thời cơ kinh doanh và lợi thế trong cạnh tranh.
Vốn được sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp luôn phải có sẵn trước khi hoạt động này phát sinh. Đó chính là khoản vốn mà doanh nghiệp phải ứng trước cho quá trình sản xuất kinh doanh. Về nguyên tắc: sau một chu kỳ kinh doanh, vốn phải được thu hồi để tiếp tục chu kỳ sản xuất kinh doanh khác, nếu không doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn có khi dẫn tới phá sản… vì vậy, doanh nghiệp phải có biện pháp quản lý vốn sao cho hiệu quả cao đảm bảo luôn đủ vốn đầu tư đúng lúc, đúng chỗ cho sản xuất kinh doanh. Tóm lại, doanh nghiệp phải đặc biệt quan tâm đến hiệu quả sử dụng vốn tại doanh nghiệp của mình.
Chương II
Biện pháp tăng, cường khai thác các nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh của các Doanh nghiệp Nhà nước
2.1 Thực trạng vốn tại các doanh nghiệp Nhà nước.
Đối với bất kỳ loại doanh nghiệp nào, dù là DNNN hay doanh nghiệp tư nhân, sự tồn tại và phát triển của chúng hoàn toàn phụ thuộc vào hoạt động tài chính của bản thân chúng, hay nói cách khác, sự sống còn của mỗi doanh nghiệp đều phụ thuộc vào hiệu quả của việc huy động và sử dụng vốn.
Hiện nay, DNNN năng lực quá yếu, quy mô vốn còn rất nhỏ bé. Điều này làm doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn trong sản xuất – kinh doanh, khả năng thanh toán kém, dễ gặp rủi ro. Tính đến tháng 5 năm 2001 vốn chủ sở hữu bình quân mỗi DNNN ước khoảng 22 tỷ đồng. Trong đó, số DNNN có số vốn dưới 5 tỷ đồng chiếm 59.8% ( số doanh nghiệp có vốn từ 1 tỷ đồng trở xuống chiếm 18.2%); số doanh nghiệp có vốn từ 5 đến 10 tỷ đồng chiếm 15.2% ; số doanh nghiệp có vốn trên 10 tỷ đồng chỉ chiếm 25% . Các tổng công ty 90, 91 là những DNNN có mức vốn cao nhất hiện nay, nhưng vẫn là thấp so với các doanh nghiệp trên thế giới. Năm 2000 vốn bình quân của một công ty 91 khoảng 3885 tỷ đồng, nếu tính theo tỷ giá 15000 đ/USD thì nó vào khoảng 259 triệu USD ( trong đó có 5 tổng công ty có mức vốn dưới 1000 tỷ đồng là Công nghiệp tàu thuỷ; cà phê; Lương thực miền Nam; Lương thực miên Bắc; Thuốc lá). Vốn bình quân của một tổng công ty 90 khoảng 284 tỷ đồng, nếu tính theo tỷ gía 15000đ/USD thì vốn bình quân đó khoảng 18.9 triệu USD. Trong khi đó nếu so với các công ty nhỏ ( 6 đến 50 lao động) ở các nước công nghiệp phát triển hiện nay đang có số vốn từ 3 đến 50 triệu USD ( nếu tính theo tỷ giá 15000đ/USD thì số vốn đó là 45 tỷ đồng đến 750 tỷ đồng), còn công ty có từ 200-500 lao động của họ có vốn hàng trăm triệu USD, các tập đoàn xuyên quốc gia và các công ty lớn trên thế giới thì có số vốn lên tới hàng chục, trăm tỷ USD . Như vậy, trong thời gian tới khi Việt Nam hội nhập sâu vào kinh tế khu vực và thế giới thì doanh nghiệp Việt Nam sẽ bị bất lợi so với các doanh nghiệp ở các nước công nghiệp phát triển về mặt tài chính. Đây là mối đe doạ đối với các doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam.
2.2 Các phương thức huy động vốn của DNNN
Trên cơ sở phân tích thực trạng về tình hình vốn trong các DNNN hiện nay, vấn đề đặt ra cần phải giải quyết là các DNNN cần phải bổ sung và huy động vốn để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp mình như thế nào? Dưới đây em xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp để huy động vốn trong các DNNN ở nước ta hiện nay.
2.2.1 Nguồn vốn huy động từ ngân sách Nhà nước
Bất cứ doanh nghiệp nào khi thành lập phải có vốn điều lệ. Về nguyên tắc, số vốn theo điều lệ phải lớn hơn hoặc bằng tổng mức vốn pháp định mà Nhà nước dã quy định cho các ngành nghề. Vì thế, ngay từ khi có quyết định thành lập, DNNN phải được Nhà nước cấp vốn điều lệ theo đúng điều lệ thành lập DNNN ( không trễ hơn 30 ngày kể từ ngày có quyết định thành lập) Vốn cấp có thể bằng tiền hoặc bằng quyền sử dụng đất, bằng các tài sản hữu hình, vô hình khác được đánh giá theo thời giá nhằm đảm bảo cho DNNN có thể sản xuất kinh doanh bình thường và phải cạnh tranh được trên thị trường. Trong quá trình kinh doanh, nếu thiếu vốn, doanh nghiệp nhà nước phải tự xoay sở trên thị trường vốn, nhà nước không cấp thêm.
Tuy nhiên, việc cấp phát vốn của nhà nước cho các DNNN đã phạm phải một số hạn chế nhất định
Thứ nhất là cơ chế cấp vốn từ ngân sách nhà nước cho DNNN trong thời gian qua ở Việt Nam, cơ chế này có nhiều nhược điểm. Đó là cấp theo lối bình quân, chia đều cho mọi doanh nghiệp trong đó có nhiều doanh nghiệp không đáng được cấp. Mặt khác, do vốn ngân sách có hạn và không phải lúc nào cũng có sẵn, nên việc cấp cho doanh nghiệp nào trước, doanh nghiệp nào sau và cấp cho doanh nghiệp nào đ