Đề tài Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá trong nền kinh tế thị trường, lấy mặt hàng gạo làm ví dụ

Thương mại quốc tế (TMQT) đú được khẳng định cả về lý luận và thực tiễn, là một trong những yếu tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế và do đỳ nỳ gỳp phần quyết định sự thắng bại của một đường lối cụng nghiệp hoỏ ở cỏc nước đang phỏt triển. Đặc biệt là lĩnh vực hoạt động xuất khẩu từ lừu đú chiếm vị trớ quan trọng hàng đầu trong sự tồn tại và phỏt triển kinh tế của mọi quốc gia. Trong bỏo cỏo chớnh trị của Ban chấp hành trung ương Đảng tại Đại hội lần thứ VIII nhấn mạnh: "Giữ vững độc lập tự chủ đi đụi với mở rộng hợp tỏc quốc tế,

doc58 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1797 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá trong nền kinh tế thị trường, lấy mặt hàng gạo làm ví dụ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời mở đầu Thương mại quốc tế (TMQT) đã được khẳng định cả về lý luận và thực tiễn, là một trong những yếu tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế và do đó nó góp phần quyết định sự thắng bại của một đường lối công nghiệp hoá ở các nước đang phát triển. Đặc biệt là lĩnh vực hoạt động xuất khẩu từ lâu đã chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong sự tồn tại và phát triển kinh tế của mọi quốc gia. Trong báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng tại Đại hội lần thứ VIII nhấn mạnh: "Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Dựa vào các nguồn lực trong nước là chính đi đôi tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả". Vai trò này đã được Đảng ta nhận thức rất sớm và đã nhấn mạnh từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986. Đảng ta đã khẳng định: "Xuất khẩu là một trong ba chương trình cốt lõi của nhiệm vụ kinh tế - xã hội trong 5 năm 1986-1990, không những có ý nghĩa sống còn đối với tình hình trước mắt mà còn là những điều kiện ban đầu không thể thiếu được để triển khai công nghiệp xã hội chủ nghĩa trong những chặng đường tiếp theo". Hơn nữa, xuất khẩu được coi là yếu tố có ý nghĩa "quyết định" để thực hiện chương trình về lương thực, thực phẩm, hàng hoá tiêu dùng và các hoạt động kinh tế khác. Xuất khẩu là cơ sở của nhập khẩu và là hoạt động kinh doanh để đem lại lợi nhuận lớn, là phương tiện thúc đẩy phát triển kinh tế. Mở rộng xuất khẩu để tăng thu ngoại tệ, tạo điều kiện cho nhập khẩu và cơ sở hạ tầng. Nhà nước ta luôn luôn coi trọng và thúc đẩy các ngành kinh tế hướng theo xuất khẩu khuyến khích các thành phần kinh tế mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm và tăng thu ngoại tệ. Lương thực là sản phẩm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng đầu của con người và có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đến toàn bộ hoạt động kinh tế - xã hội của bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới. Trong suốt thời gian qua, vấn đề an toàn lương thực luôn là mối quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta. Sau Đại hội VI của Đảng (1986) và đặc biệt sau Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (1988) các chính sách đổi mới nói chung và trong nông nghiệp nói riêng đã tác động mạnh mẽ, có hiệu quả đến quá trình sản xuất lương thực. Việt Nam từ năm 1989 đã trở thành nước xuất khẩu gạo trên thế giới. Hiện nay, sản xuất lương thực không những đảm bảo đủ yêu cầu lương thực trên phạm vi quốc gia mà hàng năm còn phục vụ cho xuất khẩu, góp phần tạo ra nguồn ngoại tệ phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế nói chung và phát triển nông nghiệp - nông thôn nói riêng. Tuy đạt được một số thành công ban đầu nhưng Việt Nam hiện đang còn gặp nhiều trở ngại trong hoạt động sản xuất và xuất khẩu hàng hoá. Nhất là trong hoạt động xuất khẩu các mặt hàng chủ lực trong đó có xuất khẩu gạo, lĩnh vực mà Việt Nam còn thiếu nhiều kinh nghiệm buôn bán quốc tế và gặp nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm, mở rộng thị trường. Vì vậy, chúng ta cần phải có những biện pháp từng bước hoàn thiện để phù hợp với thời cuộc, nhằm phát huy những nội lực bên trong và tiềm năng sẵn có mà tạo hoá đã ban cho dân tộc Việt Nam. Xuất phát từ thực tế sự phức tạp và tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu hàng hoá, đồng thời trước đòi hỏi thực tế của việc hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của công tác xuất khẩu hàng hoá nói chung, xuất khẩu gạo nói riêng, cùng với lượng kiến thức đã được trang bị tại nhà trường và những tìm hiểu thực tế, để đi sâu nghiên cứu vấn đề em chọn đề tài: "Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá trong nền kinh tế thị trường, lấy mặt hàng gạo làm ví dụ" làm đề án môn học. Bố cục của đề án gồm các phần: Lời nói đầu. Chương I : Cơ sở lý luận về kinh doanh xuất khẩu... Chương II : Thực trạng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam Chương III : Các biện pháp thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam Kết luận. Hà Nội, tháng 11 năm 1999 Sinh viên thực hiện Đàm Thị Hằng Chương I Cơ sở lý luận về kinh doanh xuất khẩu hàng hoá trong nền kinh tế thị trường I-/ Tầm quan trọng của xuất khẩu hàng hoá trong nền kinh tế quốc dân: 1-/ Tính tất yếu khách quan của thương mại quốc tế (TMQT): Thương mại quốc tế là lĩnh vực kinh doanh buôn bán hàng hoá và dịch vụ với nước ngoài nhằm thu được lợi nhuận và hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất. Buôn bán hàng hoá và dịch vụ là một hình thức của các mối quan hệ kinh tế - xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất kinh doanh hàng hoá nói riêng của các quốc gia nói chung. Thương mại quốc tế tạo điều kiện cho các nước tham gia vào phân công lao động quốc tế, phát triển kinh tế và làm giàu cho đất nước. TMQT là một trong những yếu tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế và do đó nó góp phần quyết định sự thắng bại của một đường lối công nghiệp hoá ở các nước đang phát triển cũng như của Việt Nam. Khi quá trình phân công lao động quốc tế đang diễn ra ngày càng sâu sắc thì TMQT đã trở thành một qui luật tất yếu khách quan và được xem là một điều kiện tiền đề, phương tiện cho sự phát triển kinh tế của mọi quốc gia. Thực tế đã chứng minh rằng không một quốc gia nào có thể tồn tại chứ chưa nói gì đến phát triển nếu như xây dựng một nền kinh tế hoàn chỉnh mang tính chất tự cấp tự túc, không quan hệ với thế giới. Bởi vì, nền kinh tế tự cấp tự túc vô cùng tốn kém về cả vật chất và thời gian, cho dù quốc gia đó to lớn như Liên Xô (cũ), Mỹ và Trung Quốc cũng không có đủ sức làm việc này. Do vậy, TMQT đã trở thành vấn đề sống còn vì nó cho phép thay đổi cơ cấu sản xuất và nâng cao mức sống của dân cư một quốc gia. Bí quyết thành công trong chiến lược phát triển kinh tế của nhiều quốc gia là mở rộng thị trường quốc tế và tăng nhanh xuất khẩu sản phẩm hàng hoá qua chế biến sâu và tinh, chiếm tỷ trọng cao trong hàng xuất khẩu. Sự ra đời và phát triển của TMQT gắn liền với quá trình phân công lao động quốc tế. Với sự tiến bộ khoa học kỹ thuật phạm vi chuyên môn hoá ngày một tăng. Số sản phẩm cùng dịch vụ để thoả mãn nhu cầu của con người ngày một dồi dào. Điều đó phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày càng tăng. TMQT cũng vì thế mà ngày càng phát triển mở rộng và phức tạp. Theo quan điểm của chủ nghĩa trọng thương thì mỗi nước muốn đạt được sự thịnh vượng phải gia tăng khối lượng tiền tệ. Muốn có của cải, các nước phải phát triển buôn bán với nước ngoài. Lý thuyết trọng thương chỉ ra rằng lợi nhuận buôn bán là kết quả của sự thay đổi không ngang giá và lừa gạt giữa các quốc gia, TMQT chỉ có lợi cho một bên và gây ra thiệt hại cho bên kia. Đến giai đoạn cuối họ cho rằng có thể tăng cường nhập khẩu nếu qua đó đẩy mạnh được xuất khẩu, cán cân thương mại vẫn nghiêng về phía xuất khẩu. Sự khác nhau về điều kiện tự nhiên và xã hội giữa các quốc gia là cơ sở xuất hiện TMQT. Chính sự khác nhau đó mà mỗi nước có lợi thế riêng là chuyên môn hoá sản xuất những mặt hàng cụ thể phù hợp với điều kiện sản xuất và xuất khẩu hàng hoá của mình để nhập khẩu những hàng hoá cần thiết khác mà trong nước chưa có điều kiện để sản xuất hay sản xuất với chi phí lớn không hiệu quả. Điều quan trọng ở đây là mỗi quốc gia phải tự xác định cho được những mặt hàng nào mà nước mình có lợi nhất trên thị trường cạnh tranh quốc tế. Sự khác nhau về điều kiện sản xuất cũng giải thích được lý do buôn bán giữa các nước về những mặt hàng như dầu lửa, lương thực, dịch vụ du lịch,... Do đó đã nhiều câu hỏi được đặt ra là: Tại sao Mỹ lại nhập cà phê và xuất khẩu lương thực? Tại sao Nhật Bản lại xuất khẩu hàng công nghiệp và chi nhập khẩu nguyên liệu thô? Tại sao một nền kinh tế kém phát triển như Việt Nam lại có thể hy vọng đẩy mạnh xuất khẩu?... Lý thuyết lợi thế so sánh của nhà kinh tế học David Ricardo (1817) đã phần nào giải thích một cách căn bản và có hệ thống những câu hỏi này. Quy luật lợi thế tương đối nhấn mạnh sự khác nhau về chi phí sản xuất, coi đó là chìa khoá của các phương thức thương mại. Lý thuyết này khẳng định nếu mỗi nước chuyên môn hoá vào các sản phẩm mà nước đó có lợi thế tương đối (hay có hiệu quả sản xuất so sánh cao nhất) thì thương mại sẽ có lợi cho cả hai bên. Thậm chí nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các quốc gia khác trong sản xuất hầu hết các loại sản phẩm thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào TMQT để tạo ra lợi ích cho mình. Khi tham gia vào TMQT, quốc gia có hiệu quả thấp trong sản xuất tất cả các loại hàng hoá sẽ chuyên môn hoá sản xuất, xuất khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất chúng ít bất lợi nhất và nhập khẩu các hàng hoá mà việc sản xuất chúng bất lợi lớn nhất. Tuy nhiên, người ta cũng thấy rằng TMQT vẫn diễn ra do sự chênh lệch giữa các nước về chi phí cơ hội của hàng hoá tạo ra trong điều kiện sản xuất khá giống nhau. Chẳng hạn như, một nền kinh tế khép kín có các nguồn lực nhất định có thể làm ra máy video và áo sơ mi. Càng dùng nhiều nguồn lực vào việc làm ra máy video, thì càng ít nguồn lực có thể dùng làm áo sơ mi. Chi phí cơ hội của máy video là lượng áo sơ mi bị hy sinh do dùng các nguồn lực vào việc làm ra các máy video thay cho các áo sơ mi. Cũng như sự trao đổi buôn bán ô tô là khá phát triển giữa Mỹ và Nhật Bản; điều tương tự cũng xảy ra đối với các mặt hàng điện tử giữa các nước Tây Âu. Rõ ràng là, không có thế lực nào bắt buộc hai nước phải buôn bán với nhau nếu một nước không có lợi. Các quốc gia hoàn toàn tự do trong việc lựa chọn mặt hàng cũng như đối tác buôn bán có khả năng đem lại lợi ích cao cho họ. Do vậy, sự chênh lệch giữa các nước về chi phí tương đối trong sản xuất quyết định phương thức TMQT. Vậy TMQT bắt nguồn từ đâu: Một là, TMQT xuất hiện từ sự đa dạng về điều kiện tự nhiên của sản xuất giữa các nước, nên chuyên môn hoá sản xuất một số mặt hàng có lợi thế và nhập khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất chúng bất lợi lớn nhất thì chắc chắn đem lại lợi nhuận lớn hơn. Nguồn lực tự nhiên gồm: đất đai, thời tiết, khí hậu, vị trí địa lý. Nguồn tài nguyên ảnh hưởng tới TMQT là rất rõ, nó giải thích tại sao một nước kinh doanh xuất khẩu nông sản, lương thực, dầu lửa, dịch vụ du lịch,... Nguồn nhân lực là lực lượng con người trong một quốc gia. Đây là lực lượng trực tiếp sản xuất ra sản phẩm nên nó ảnh hưởng rất lớn đến điều kiện sản xuất, đặc biệt là lao động có kỹ năng cao. Lực lượng lao động của một nước càng có kỹ năng cao thì nước đó càng có nhiều khả năng để trở thành nước xuất khẩu các sản phẩm chế tạo, đặc biệt là các sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật cao giá cả phải chăng trên thị trường thế giới. Những thập kỷ qua đã nói lên điều này, nhờ dựa vào lực lượng lao động dồi dào, giá nhân công rẻ mạt mà các nước Đông Nam á đã thành công chiến lược hướng vào xuất khẩu các sản phẩm có sử dụng nhiều lao động. Hạ tầng cơ sở của một nước như: giao thông vận tải với truyền thông, hệ thống cung cấp điện năng và các phương tiện công cộng đóng một vai trò quan trọng về việc có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển thương mại của một nước đó đối với thế giới. Ví dụ như đường sá, bến cảng không thích hợp có thể làm tăng chi phí lưu thông hàng hoá, không có điều kiện để phát triển các hoạt động dịch vụ. Ngược lại, cơ sở hạ tầng tốt là một nguồn lực phục vụ cho xuất khẩu, như hệ thống truyền thông tin phát triển giúp cho các bên liên lạc trao đổi dễ dàng, nhanh, xúc tiến quá trình thương mại giữa các nước. Hai là, hiệu quả kinh tế theo qui mô, nghĩa là hầu hết các hàng hoá được sản xuất ra đắt hơn khi sản xuất với khối lượng nhỏ, và trở nên rẻ hơn khi qui mô sản xuất tăng lên. Do vậy mà một nền sản xuất có qui mô lớn người ta có thể tiết kiệm trong việc sử dụng máy móc thiết bị và nguyên liệu. Hơn nữa, do sự phân công công việc ra giữa nhiều người khác nhau, mỗi người có thể trở thành chuyên gia trong một lĩnh vực của quá trình sản xuất thông qua kinh nghiệm và đào tạo chuyên môn. Hiệu quả kinh tế theo qui mô có ý nghĩa quan trọng cho lĩnh vực TMQT của các nước nhỏ, và bị giới hạn nhiều hơn so với các nước lớn. Điều này cho thấy tại sao các nước nhỏ thường mở rộng thương mại hơn so với các nước lớn (khi đo lường, chẳng hạn bằng tỷ lệ xuất khẩu/GDP). Đối với các nước nhỏ việc cố gắng để sản xuất ra mọi hàng hoá trong nước chắc chắn là phi hiệu quả. Hiệu quả kinh tế theo quy mô là lý do quan trọng giải thích TMQT về những hàng hoá nhất định nào đó. Ba là, sự khác nhau về thị hiếu, sở thích, phong tục tập quán, sự độc quyền về bản quyền, bằng phát minh sáng chế, tri thức chuyên môn của một số người. Thị hiếu rất khác nhau cả giữa các nước và mọi người. Điều này nói lên việc buôn bán các sản phẩm rất khác nhau giữa các nước tương tự. Một tác động khác là sự tồn tại những bằng phát minh sáng chế, quyền sở hữu công nghiệp. Công ty có quyền sở hữu về một phát minh sáng chế có thể từ chối cấp giấy phép sản xuất hoặc gia công chế biến đối với các công ty ở nước khác hoặc chỉ cho phép với điều kiện là các sản phẩm ấy không được xuất khẩu. Điều này tạo cho nước sở hữu phát minh có một sự độc quyền thực sự về loại sản phẩm này. Trên thị trường thế giới. Cuối cùng là, do nhu cầu kinh tế hay sở thích làm giầu mà bất cứ một quốc gia nào trên thế giới cũng muốn. Muốn đất nước giàu có thì TMQT phải phát triển. Những lợi ích mà TMQT đem lại đã làm cho thương mại và thị trường thế giới trở thành nguồn lực của nền kinh tế quốc dân, là nhân tố kích thích sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học công nghệ, là một phương tiện để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. TMQT vừa là cầu nối kinh tế của mỗi quốc gia với các nước khác trên thế giới, vừa là nguồn hậu cần cho sản xuất và đời sống của toàn xã hội văn minh hơn, thịnh vượng hơn. Trong thế giới hiện đại không một quốc gia nào bằng chính sách "đóng cửa với nước ngoài lại phát triển có hiệu quả nền kinh tế trong nước". Muốn phát triển nhanh, mỗi nước không thể đơn độc dựa vào nguồn lực của mình mà phải tận dụng có hiệu quả tất cả những thành tựu kinh tế, khoa học kỹ thuật của loài người đã đạt được. Nền kinh tế "mở cửa" sẽ mở ra những tiềm năng sẵn có của một nước nhằm sử dụng sự phân công lao động quốc tế một cách có lợi nhất. Nhận thức được vấn đề này, Đảng và Nhà nước ta đã có những bước đi đúng đắn trong đường lối đối ngoại của mình. Với chính sách đa dạng hoá và đa phương hoá các quan hệ quốc tế, mở cửa và hướng mạnh ra xuất khẩu đã làm cho nền kinh tế nước ta sống dậy, hoạt động ngoại thương trong 10 năm đổi mới đã đạt được những thành tựu đáng kể, như hoạt động xuất khẩu hàng hoá ở nước ta không ngừng gia tăng, từ năm 1986 đến năm 1996 trung bình hàng năm tăng 25-27% đóng góp một phần không nhỏ cho quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Do vậy, tại Đại hội Đảng lần thứ VIII, Đảng ta khẳng định: "Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng, đa phương hoá và đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn làm bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Hợp tác nhiều mặt song phương và đa phương với các nước các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, giải quyết các vấn đề tồn tại và tranh chấp bằng thương lượng. 2-/ Vai trò của xuất khẩu hàng hoá trong nền kinh tế quốc dân (KTQD): Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế. Nó không phải là những hành vi mua bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán trong một nền thương mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài. Do đó xuất khẩu là hoạt động kinh tế đối ngoại dễ đem lại những hiệu quả đột biến cao, hoặc có thể chịu thiệt hại khôn lường vì nó phải đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà các chủ thể trong nước tham gia xuất khẩu không dễ dàng khống chế được. ở một góc độ khác, xuất khẩu có vai trò rất quan trọng trong cán cân thanh toán quốc tế. ở các nước có nền sản xuất hàng hoá phát triển cao, xuất khẩu không những đảm bảo cho nhu cầu nhập khẩu trong nước mà còn đảm bảo chi cho các nguồn khác, ngoài ra còn tạo ra dự trữ ngoại tệ cho Nhà nước, tăng thu cho ngân sách, kích thích đổi mới công nghệ, cải biến cơ cấu kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm, nâng cao mức sống của người dân. Nhờ có xuất khẩu mà phát huy cao độ tính năng động, sáng tạo của mọi người, mọi đơn vị, mọi tổ chức, mọi ngành nghề, mọi địa phương trong xã hội, chất lượng sản phẩm luôn được nâng cao, việc đưa tiến độ khoa học kỹ thuật mới được thường xuyên và có ý thức. Việc xuất khẩu trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần dẫn tới việc hình thành các liên doanh, liên kết giữa các chủ thể trong và ngoài nước một cách tự giác tạo sức mạnh phát triển cho các chủ thể một cách thiết thực, nó liên kết chặt chẽ giữa các nhà sản xuất với các nhà khoa học một cách thiết thực và có hiệu quả từ phía các nhà sản xuất, nó khơi thông nhiều nguồn chất xám ở cả trong và ngoài nước, tạo ra sự tăng trưởng mạnh cho nền kinh tế góp phần rút ngắn khoảng cách chênh lệch với các người giàu. Vì vậy, trong định hướng phát triển kinh tế xã hội của Đảng, chính sách kinh tế đối ngoại nói chung và chính sách TMQT nói riêng phải được coi là một chính sách cơ cấu có tầm quan trọng chiến lược nhằm phục vụ quá trình phát triển của nền KTQD. Chính sách xuất nhập khẩu phải tranh thủ được tối đa nguồn vốn kỹ thuật công nghệ tiên tiến của nước ngoài nhằm thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, giải quyết việc làm cho người lao động, thực hiện phương châm phát triển thương mại với nước ngoài để đẩy mạnh sản xuất trong nước, vừa có sản phẩm tiêu dùng vừa có hàng hoá để xuất khẩu. Với những nước nghèo như nước ta, sự phát triển mạnh của xuất khẩu sẽ góp phần giải quyết những nhiệm vụ kinh tế quan trọng, thể hiện như sau: 2.1. Xuất khẩu tạo nguồn vốn cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước: Trong điều kiện nền kinh tế lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến, trình độ của trang thiết bị quá cũ, lạc hậu. Để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trước mắt chúng ta phải nhập khẩu một số lượng lớn máy móc, trang thiết bị hiện đại bên ngoài nhằm trang bị cho nền sản xuất. Nguồn vốn để nhập khẩu thường dựa vào các nguồn chủ yếu là: vay, viện trợ, đầu tư nước ngoài và xuất khẩu. Ba nguồn vốn đầu phụ thuộc vào nước ngoài, vì vậy nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu là xuất khẩu. Đối với nhiều nước, xuất khẩu đã trở thành nguồn tích luỹ chủ yếu trong giai đoạn đầu của công nghiệp hoá. 2.2. Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển: Sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến và chế tạo hàng hoá xuất khẩu, nhất là các ngành áp dụng kỹ thuật tiên tiến sản xuất ra các hàng hoá có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới, giúp tạo ra một năng lực công nghiệp mới không những cho phép tăng sản xuất về mặt số lượng mà còn tăng chất lượng sản phẩm vì tăng năng suất lao động. Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh mẽ, đó là thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu thế phát triển chung của kinh tế thế giới là tất yếu đối với nước ta. Việc phát triển các ngành công nghiệp xuất khẩu nhằm đáp ứng nhu cầu khắt khe của khách hàng và sản xuất ra những sản phẩm có trình độ kỹ thuật đạt tiêu chuẩn quốc tế mà một lực lượng lao động được đào tạo, rèn luyện về trình độ kỹ thuật và chuyên môn lành nghề. Điều đó có tác động tích cực đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động này thể hiện: - Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi. Chẳng hạn, khi phát triển ngành dệt xuất khẩu sẽ tạo cơ hội đầy đủ cho việc phát triển ngành sản xuất nguyên liệu như bông, thuốc nhuộm,... Sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu (gạo, dầu, thực vật, chè,...) có thể kéo theo sự phát triển của ngành công nghiệp chế tạo thiết bị phục vụ cho nó như bao bì,... - Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho sản xuất phát triển và ổn định. - Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực s
Tài liệu liên quan