Thuế là khoản thu mang tính bắt buộc mà các tổ chức hoặc cá nhân phải nộp cho nhà nước khi có đủ những điều kiện nhất định. Về bản chất, thuế là loại quan hệ phân phối gắn với nhà nước, là loại quan hệ giữa nhà nước với người nộp thuế. Lí luận và thực tiễn đã chỉ ra rằng thuế ra đời và tồn tại là khách quan, là điều kiện vật chất quan trọng đề nhà nước tồn tại và phát triển. Để tạo cơ sở pháp lí ổn định vững chắc cho nguồn thu thuế, thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, đòi hỏi nhà nước cần phải ban hành hệ thống pháp luật thuế đồng bộ.
Ở Việt Nam, cùng với sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội, hệ thống pháp luật thuế được hình thành và ngày càng phát triển. Pháp luật thuế có hệ thống quy phạm phức tạp, chi tiết và thường xuyên được sửa đổi, thay thế, bổ sung để đáp ứng yêu cầu của nhà nước và phù hợp với đời sống kinh tế - xã hội. Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) là một trong rất nhiều các loại thuế của hệ thống thuế nước ta. Đây là một loại thuế trực thu, là một nguồn thu quan trọng cho ngân sách nhà nước. Cũng như các loại thuế khác, thuế TNDN cũng được điều chỉnh bởi một hệ thống quy phạm chi tiết và thường xuyên được sửa đổi, bổ sung, thay thế. Ngày 10/5/1997, Quốc hội nước ta đã thông qua Luật thuế TNDN thay thế cho Luật thuế lợi tức được sử dụng trong những năm cuối thập kỉ 80, đầu thập kỉ 90. Tiếp đó, ngày 17/6/2003, Quốc hội thông qua Luật thuế TNDN sửa đổi để thay thế cho Luật thuế TNDN năm 1997. Qua các lần sửa đổi, Luật thuế TNDN ngày càng trở nên hoàn thiện, nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số nhược điểm. Để khắc phục những nhược điểm này, ngày3/6/2008, Quốc hội nước ta thông qua Luật thuế TNDN năm 2008, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009.
13 trang |
Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1326 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Bình luận các quy định về đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2008, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Thuế là khoản thu mang tính bắt buộc mà các tổ chức hoặc cá nhân phải nộp cho nhà nước khi có đủ những điều kiện nhất định. Về bản chất, thuế là loại quan hệ phân phối gắn với nhà nước, là loại quan hệ giữa nhà nước với người nộp thuế. Lí luận và thực tiễn đã chỉ ra rằng thuế ra đời và tồn tại là khách quan, là điều kiện vật chất quan trọng đề nhà nước tồn tại và phát triển. Để tạo cơ sở pháp lí ổn định vững chắc cho nguồn thu thuế, thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, đòi hỏi nhà nước cần phải ban hành hệ thống pháp luật thuế đồng bộ.
Ở Việt Nam, cùng với sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội, hệ thống pháp luật thuế được hình thành và ngày càng phát triển. Pháp luật thuế có hệ thống quy phạm phức tạp, chi tiết và thường xuyên được sửa đổi, thay thế, bổ sung để đáp ứng yêu cầu của nhà nước và phù hợp với đời sống kinh tế - xã hội. Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) là một trong rất nhiều các loại thuế của hệ thống thuế nước ta. Đây là một loại thuế trực thu, là một nguồn thu quan trọng cho ngân sách nhà nước. Cũng như các loại thuế khác, thuế TNDN cũng được điều chỉnh bởi một hệ thống quy phạm chi tiết và thường xuyên được sửa đổi, bổ sung, thay thế. Ngày 10/5/1997, Quốc hội nước ta đã thông qua Luật thuế TNDN thay thế cho Luật thuế lợi tức được sử dụng trong những năm cuối thập kỉ 80, đầu thập kỉ 90. Tiếp đó, ngày 17/6/2003, Quốc hội thông qua Luật thuế TNDN sửa đổi để thay thế cho Luật thuế TNDN năm 1997. Qua các lần sửa đổi, Luật thuế TNDN ngày càng trở nên hoàn thiện, nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số nhược điểm. Để khắc phục những nhược điểm này, ngày3/6/2008, Quốc hội nước ta thông qua Luật thuế TNDN năm 2008, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009.
Luật thuế TNDN năm 2008 có nhiều thay đổi trong đó phải kể đến những thay đổi quan trọng về đối tượng nộp thuế. Đây là một chủ trương rất quan trọng của Nhà nước, tạo ra bước tiến quan trọng trong lộ trình hướng tới xây dựng một luật thuế TNDN thống nhất và hoàn chỉnh. Để tìm hiểu chi tiết hơn về vấn đề này, đề tài xin nghiên cứu nội dung: “Bình luận các quy định về đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2008”.
NỘI DUNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ THUẾ TNDN.
1.1 Khái niệm và những đặc điểm cơ bản của thuế TNDN.
Thuế TNDN là một bộ phận của thuế thu nhập nói chung, cùng với thuế thu nhập cá nhân. Đây là một loại thuế trực thu, đánh vào thu nhập của các tổ chức kinh doanh (doanh nghiệp) có thu nhập phát sinh từng lần hoặc trong một khoảng thời gian xác định từ một số nguồn nhất định. Có thể khái quát “Thuế TNDN là loại thuế trực thu, thu vào phần thu nhập của các tổ chức kinh doanh nhằm đảm bảo sự đóng góp công bằng, hợp lí của các tổ chức sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có thu nhập, góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển” (7, trang 213).
Thuế TNDN mang những đặc điểm của quan trọng của thuế như có tính cưỡng chế và tính pháp lý cao, là khoản đóng góp không mang tính hoàn trả trực tiếp, nó cũng có những đặc điểm của thuế thu nhập nói chung như: có đối tượng đánh thuế là thu nhập, là loại thuế trực thu, là một loại thuế phức tạp, có tính ổn định không cao.
Ngoài những đặc điểm chung trên, thuế TNDN còn mang những đặc điểm riêng biệt như:
Là loại thuế đánh vào lợi nhuận của các cơ sở sản xuất kinh doanh nên mức động viên của ngân sách nhà nước đối với loại thuế này phụ thuộc rất lớn vào hiệu quả kinh doanh cũng như quy mô lợi nhuận của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thu nhập chịu thuế cao sẽ phải nộp thuế nhiều, ngược lại những doanh nghiệp có thu nhập thấp hoặc gặp khó khăn sẽ được nộp thuế ít, thậm chí được giảm thuế, miễn thuế.
Người nộp thuế thu nhập doanh nghiệp là tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có thu nhập chịu thuế theo quy định.
Do là loại thuế trực thu nên đối tượng nộp thuế cũng chính là đối tượng chịu thuế TNDN.
Thuế TNDN chỉ đánh vào phần thu nhập còn lại sau khi đã trừ đi các chi phí liên quan để tạo ra thu nhập đó.
Về nguyên tắc, thuế có tính chất lũy tiến. Tuy nhiên, do những điều kiện cụ thể mà một số nước trong đó có Việt Nam áp dụng thuế suất thống nhất đối với thuế TNDN.
1.2 Vai trò của thuế TNDN.
Thuế TNDN là một loại thuế phổ biến ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Vai trò quan trọng của thuế TNDN được thể hiện ở những mặt sau:
Thứ nhất, Thuế thu nhập doanh nghiệp là công cụ quan trọng để Nhà nước thực hiện chức năng tái phân phối thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta, tất cả các thành phần kinh tế đều có quyền tự do kinh doanh và bình đằng trên cơ sở pháp luật. Các doanh nghiệp với lực lượng lao động có tay nghề cao, năng lực tài chính mạnh thì doanh nghiệp đó sẽ có ưu thế và có cơ hội để nhận được thu nhập cao; ngược lại các doanh nghiệp với năng lực tài chính, lực lượng lao động bị hạn chế sẽ nhận được thu nhập thấp, thậm chí không có thu nhập. Ðể hạn chế nhược điểm đó, Nhà nước sử dụng thuế thu nhập doanh nghiệp làm công cụ điều tiết thu nhập của các chủ thể có thu nhập cao, đảm bảo yêu cầu đóng góp của các chủ thể kinh doanh vào ngân sách Nhà nước được công bằng, hợp lý.
Thứ hai, Thuế thu nhập doanh nghiệp là nguồn thu quan trọng của ngân sách Nhà nước. Phạm vi áp dụng của thuế thu nhập doanh nghiệp rất rộng, gồm cá nhân, nhóm kinh doanh, hộ cá thể và các tổ chức kinh tế có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có phát sinh lợi nhuận. Nền kinh tế thị trường nước ta ngày càng phát triển và ổn định, tăng trưởng kinh tế được giữ vững ngày càng cao, các chủ thể hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ ngày càng mang lại nhiều lợi nhuận thì khả năng huy động nguồn tài chính cho ngân sách Nhà nước thông qua thuế thu nhập doanh nghiệp ngày càng dồi dào.
Thứ ba, Thuế thu nhập doanh nghiệp là công cụ quan trọng để góp phần khuyến khích, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển theo chiều hướng kế hoạch, chiến lược, phát triển toàn diện của Nhà nước. Nhà nước ưu đãi, khuyến khích đối với các chủ thể đầu tư, kinh doanh vào những ngành, lĩnh vực và những vùng, miền mà Nhà nước có chiến lược ưu tiên phát triển trong từng giai đoạn nhất định.
Thứ tư, Thuế thu nhập doanh nghiệp còn là một trong những công cụ quan trọng của Nhà nước trong việc thực hiện chứng năng điều tiết các hoạt động kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ phát triển kinh tế nhất định. Thuế thu nhập doanh nghiệp là loại thuế có vai trò quan trọng trong hệ thống pháp luật thuế của Việt Nam, song để phát huy một cách có hiệu qủa vai trò của thuế thu nhập doanh nghiệp, chúng ta cần phải xem xét nó dưới nhiều khía cạnh, kể cả những kinh nghiệm xử lý của nước ngoài.
II. NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ ĐỐI TƯỢNG NỘP THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP THEO LUẬT THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP 2008 VÀ MỘT VÀI ĐÁNH GIÁ VỀ NHỮNG QUY ĐỊNH NÀY.
2.1 Những nội dung cơ bản về Luật thuế TNDN 2008 và những quy định về đối tượng nộp thuế theo Luật thuế TNDN năm 2008.
2.1.1 Khái quát cơ bản về Luật thuế TNDN 2008.
Luật thuế TNDN được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 03/6/2008 và bắt đầu có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009, luật này thay thế Luật thuế TNDN 2003. Việc ban hành Luật thuế TNDN 2008 là hoàn toàn cần thiết và phù hợp với những đòi hỏi về pháp lí cũng như thực tế. Điều này được thể hiện thông qua một số khía cạnh như:
Thứ nhất, ngày 21/11/2007 Quốc hội thông qua Luật thuế thu nhập cá nhân (TNCN) (có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2009), trong đó các đối tượng là cá nhân, hộ kinh doanh đang nộp thuế TNDN được chuyển sang thực hiện theo Luật thuế TNCN. Luật Quản lí thuế có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 cũng thống nhất một số nội dung mới về đăng kí, kê khai, nộp thuế, thanh – kiểm tra, xử kí vi phạm về thuế TNDN.
Thứ hai, các quy định về cách xác định thu nhập chịu thuế của Luật thuế TNDN 2003 đã tỏ ra không phù hợp với thực tế.
Thứ ba, sau khi Luật đất đai 2005 đi vào thực tiễn, những quy định về thu thuế bổ sung đối với thu nhập chuyển quyền sử dụng đất trong Luật thuế TNDN 2003 đã không còn phù hợp.
Thứ tư, nhứng quy định về nộp thuế TNDN tại nơi đóng trụ sở chính trong Luật thuế TNDN 2003 còn chưa phù hợp khi mà các địa phương nơi có cơ sở kinh doanh (không phải trụ sở chính) vẫn phải cung cấp nhiều dịch vụ cho cơ sở kinh doanh đó mà lại không có nguồn thu.
Thứ năm, các mức thuế suất ưu đãi trong Luật thuế TNDN 2003 đã không còn phù hợp với điều kiện mới.
Vì những lí do trên mà Luật thuế TNDN 2008 đã được thông qua để thay thế cho Luật thuế TNDN 2003. Việc ban hành Luật thuế TNDN 2008 nhằm thực hiện được các mục tiêu như: tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thận lợi, bình đẳng, công bằng; tạo bước cải cách ưu đãi thuế quan, đảm bảo một môi trường đầu tư hấp dẫn, nâng cao chất lượng đầu tư; đảm bảo nguồn thu cho ngân sách …
2.1.2 Những quy định về đối tượng nộp thuế TNDN theo Luật thuế TNDN năm 2008.
Nội dung về đối tượng nộp thuế TNDN được quy định cụ thể tại Điều 2 Luật thuế TNDN của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 3, số 14/2008/QH12 ngày 03/06/2008. Theo đó:
“Người nộp thuế thu nhập doanh nghiệp là tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có thu nhập chịu thuế theo quy định của Luật này (sau đây gọi là doanh nghiệp), bao gồm:
a) Doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam;
b) Doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật nước ngoài (sau đây gọi là doanh nghiệp nước ngoài) có cơ sở thường trú hoặc không có cơ sở thường trú tại Việt Nam;
c) Tổ chức được thành lập theo Luật hợp tác xã;
d) Đơn vị sự nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam;
đ) Tổ chức khác có hoạt động sản xuất, kinh doanh có thu nhập.” (Khoản 1 Điều 2)
Ngoài ra tại khoản 2 và khoản 3 Điều 2 Luật thuế TNDN còn quy định thêm về đối tượng nộp thuế như sau:
“2. Doanh nghiệp có thu nhập chịu thuế quy định tại Điều 3 của Luật này phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp như sau:
a) Doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam nộp thuế đối với thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam và thu nhập chịu thuế phát sinh ngoài Việt Nam;
b) Doanh nghiệp nước ngoài có cơ sở thường trú tại Việt Nam nộp thuế đối với thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam và thu nhập chịu thuế phát sinh ngoài Việt Nam liên quan đến hoạt động của cơ sở thường trú đó;
c) Doanh nghiệp nước ngoài có cơ sở thường trú tại Việt Nam nộp thuế đối với thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam mà khoản thu nhập này không liên quan đến hoạt động của cơ sở thường trú;
d) Doanh nghiệp nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam nộp thuế đối với thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam.
3. Cơ sở thường trú của doanh nghiệp nước ngoài là cơ sở sản xuất, kinh doanh mà thông qua cơ sở này, doanh nghiệp nước ngoài tiến hành một phần hoặc toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam mang lại thu nhập, bao gồm:
a) Chi nhánh, văn phòng điều hành, nhà máy, công xưởng, phương tiện vận tải, hầm mỏ, mỏ dầu, khí hoặc địa điểm khai thác tài nguyên thiên nhiên khác tại Việt Nam;
b) Địa điểm xây dựng, công trình xây dựng, lắp đặt, lắp ráp;
c) Cơ sở cung cấp dịch vụ, bao gồm cả dịch vụ tư vấn thông qua người làm công hay một tổ chức, cá nhân khác;
d) Đại lý cho doanh nghiệp nước ngoài;
đ) Đại diện tại Việt Nam trong trường hợp là đại diện có thẩm quyền ký kết hợp đồng đứng tên doanh nghiệp nước ngoài hoặc đại diện không có thẩm quyền ký kết hợp đồng đứng tên doanh nghiệp nước ngoài nhưng thường xuyên thực hiện việc giao hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ tại Việt Nam.
Luật thuế TNDN năm 2008 cũng quy định về đối tượng nộp thuế với đối tượng chịu thuế là các khoản tiền tài trợ từ nước ngoài, đây là một quy định mới. Điểm a khoản 1 Điều 2 Luật thuế TNDN 2008 được cụ thể hóa tại điểm a khoản 1 Điều 2 Nghị định số 124/2008/NĐ-CP ngày 11/12 / 2008 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Cụ thể: Doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam là “Doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp nhà nước, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật Đầu tư, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Chứng khoán, Luật Dầu khí, Luật Thương mại và quy định tại các văn bản pháp luật khác dưới các hình thức: công ty cổ phần; công ty trách nhiệm hữu hạn; công ty hợp danh; doanh nghiệp tư nhân; công ty Nhà nước; các bên trong hợp đồng hợp tác kinh doanh; các bên trong hợp đồng phân chia sản phẩm dầu khí, xí nghiệp liên doanh dầu khí, công ty điều hành chung”
2.2 Đánh giá các quy định về đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2008.
Luật thuế TNDN tính đến nay đã có hiệu lực thi hành được hơn 2 năm. Sau 2 năm đi vào cuộc sống, những quy định về đối tượng nộp thuế TNDN đã thể hiện được những điểm tích cực của mình, bên cạnh đó thì cũng đã bộ lộ một vài hạn chế nhất định.
Những điểm tích cực:
Ưu điểm nổi trội, dễ thấy nhất của Luật Thuế TNDN năm 2008 so với Luật cũ là không quy định đối tượng nộp thuế là cá nhân. Vì trước đó, Quốc hội đã thông qua Luật Thuế thu nhập cá nhân, trong đó các cá nhân, hộ kinh doanh đang nộp thuế TNDN được chuyển sang nộp thuế theo Luật Thuế thu nhập cá nhân. Do đó, đối tượng nộp thuế TNDN theo Luật Thuế TNDN năm 2008 chỉ bao gồm các tổ chức, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Quy định này đã khắc phục được các hạn chế của Luật thuế TNDN năm 2003 về đối tượng nộp thuế, đó là:
+ Tên gọi của Luật thuế TNDN 2008 đã phù hợp với nội dung của Luật. Trước đây, tên gọi “Luật thuế TNDN năm 2003” không bao hàm được các cá nhân, hộ cá thể kinh doanh (hai đối tượng này cũng thuộc phạm vi điều chỉnh của luật cũ). Đến nay, khi cá nhân, hộ gia đình đã chuyển sang là đối tượng nộp thuế của thuế thu nhập cá nhân, thì tên gọi “Luật thuế TNDN” đã hoàn toàn phù hợp với nội dung của Luật.
+ Việc loại trừ cá nhân hành nghề độc lập và hộ cá thể kinh doanh ra khỏi đối tượng nộp thuế TNDN là phù hợp với thông lệ quốc tế, vì những đối tượng này theo tính chất thì phải là đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân.
+ Quy định này đã đảm bảo công bằng giữa các đối tượng nộp thuế với nhau và giữa các thành viên trong xã hội, khuyến khích lao động sáng tạo, nâng cao năng suất lao động, phù hợp với nguyên tắc đối xử bình đẳng của các tổ chức quốc tế.
+ Ngoài ra, quy định này còn tránh trường hợp một cá nhân vừa có thu nhập từ kinh doanh và vừa có thu nhập từ tiền lương và các khoản thu nhập khác mà bị điều chỉnh bởi hai luật thuế khác nhau, khắc phục được sự phức tạp và không phù hợp với thông lệ quốc tế.
+ Mặt khác, đối tượng nộp thuế TNDN theo Luật thuế TNDN năm 2008 không bao gồm các cá nhân có tài sản cho thuê, tài sản chuyển nhượng. Điều này là hợp lý hơn.
- Điểm tích cực tiếp theo là chính sách thuế TNDN đã thống nhất trong cơ chế ưu đãi thuế đáp ứng được yêu cầu không phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Đây là một chủ trương lớn khi ban hành luật TNDN năm 2008, thể hiện sự rõ ràng, tính minh bạch trong chính sách, tạo tiền đề thuận lợi cho Việt Nam trong quá trình hội nhập. Sự không phân biệt đối xử thể hiện: đảm bảo tính thống nhất về thuế suất; đảm bảo tính thống nhất về lĩnh vực ngành nghề, địa bàn khuyến khích đầu tư… Luật thuế TNDN năm 2008 áp dụng cho mọi thành phần kinh tế (trừ đối tượng là cá nhân) nên góp phần xóa bỏ sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, đặc biệt là thành phần kinh tế trong và ngoài nước, từng bước đảm bảo sự bình đẳng, công bằng xã hội, thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế.
- Những quy định về đối tượng nộp thuế nói riêng và rộng ra tổng hợp những quy định trong Luật thuế TNDN năm 2008 còn tạo môi trường đầu tư và kinh doanh về tổng thể là hấp dẫn, thuận lợi hơn góp phần khuyến khích đầu tư. Đối với các nhà đầu tư trong nước, ưu đãi về thuế suất là hấp dẫn hơn nhiều.
- Trên cơ sở Luật thuế TNDN năm 2008, các cơ quan Nhà nước, tổ chức có liên quan đã ban hành một số hướng dẫn, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các đối tượng nộp thuế trong việc nộp thuế. Ví dụ: Ngày 22 tháng 4 năm 2011, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 52/2011/TT-BTC hướng dẫn thực hiện việc gia hạn thời hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa theo Quyết định số 21/2011/QĐ-TTg ngày 06 tháng 4 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ. Cụ thể như sau:
“Gia hạn thời hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp trong thời gian một năm kể từ ngày hết thời hạn nộp thuế theo quy định của Luật Quản lý thuế đối với số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp năm 2011 của doanh nghiệp nhỏ và vừa, bao gồm cả hợp tác xã (sau đây gọi chung là doanh nghiệp nhỏ và vừa).
Doanh nghiệp nhỏ và vừa được gia hạn nộp thuế quy định tại khoản này là doanh nghiệp đáp ứng tiêu chí về vốn hoặc lao động theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Số vốn làm căn cứ xác định doanh nghiệp được gia hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2011 là số vốn được thể hiện trong Bảng cân đối kế toán lập ngày 31/12/2010 của doanh nghiệp. Trường hợp doanh nghiệp nhỏ và vừa thành lập mới từ ngày 01/01/2011 thì số vốn làm căn cứ xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa được gia hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2011 là số vốn điều lệ ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy chứng nhận đầu tư lần đầu.
[…]”
- Luật thuế TNDN năm 2008 ra đời được đánh giá là phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế, tạo điều kiện cho Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới. Các quy định trong Luật, bao gồm cả các quy định về đối tượng nộp thuế đã nâng cao hơn nữa quyền tự quyết, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài chủ động hơn trong việc sử dụng thu nhập từ hoạt động kinh doanh do đầu tư vào Việt Nam mang lại; đồng thời phù hợp với thông lệ quốc tế và các nước trong khu vực, đặc biệt là phù hợp với cam kết của Việt Nam với IFM.
- Các quy định mới về đối tượng nộp thuế TNDN theo Luật thuế TNDN năm 2008 đã góp phần tích cực vào việc thúc đẩy các doanh nghiệp đổi mới và áp dụng công nghệ tiên tiến và hiện đại trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao, hoạt động có lãi được thực hiện khấu hao nhanh. Phải nói rằng đây là điểm tiến bộ, hợp lý và đáp ứng được nguyện vọng của các doanh nghiệp. Trong điều kiện khoa học công nghệ phát triển như vũ bão, máy móc, thiết bị rất nhanh chóng bị lạc hậu, việc cho phép các doanh nghiệp kê khai thuế theo phương pháp khấu hao nhanh có tác động làm tăng tốc độ tái đầu tư vào công nghệ từ đó phát triển khả năng cạnh tranh và khả năng tái sản xuất mở rộng của doanh nghiệp. Đây là một biện pháp khuyến khích các doanh nghiệp tăng đầu tư vào kỹ thuật, công nghệ hiện đại, tạo điều kiện tăng lợi nhuận và nuôi dưỡng nguồn thu.
Điểm hạn chế:
Bên cạnh những điểm tác động tích cực của các quy định pháp luật về đối tượng nộp thuế theo Luật thuế TNDN năm 2008, Luật thuế này nói chung và các quy định về đối tượng nộp thuế TNDN nói riêng vẫn còn thể hiện một số điểm hạn chế cần khắc phục như: những ưu đãi về miễn, giảm thuế vẫn còn kém hấp dẫn, chưa rõ ràng và thiếu tính đồng bộ; danh mục ngành nghề, lĩnh vực, địa bàn khuyến khích đầu tư vẫn còn hạn hẹp; luật thuế mới chưa tính đến đặc thù trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài…
Do mới đi vào thực tế được chưa lâu nên các quy định về đối tượng nộp thuế trong Luật thuế TNDN nói chung vẫn chưa bộc lộ hết những điểm hạn chế, hầu hết những tồn tại của bộ luật chỉ tập trung vào những quy định về thuế suất hay các khoản chi được và không được khấu trừ.... Nhưng do Luật này điều chỉnh về một vấn đề luôn luôn thay đổi từng ngày nên cũng với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội thì chắc chắn những quy định về đối tượng nộp thuế sẽ còn cần những thay đổi để đáp ứng được yêu cầu của thực tế.
KẾT LUẬN
Luật thuế TNDN năm 2008 mới ra đời đã đáp ứng được yêu cầu của đông đảo các doanh nghiệp là tạo ra một mặt bằng pháp lý chung về thuế TNDN cho mọi thành phần kinh tế (trừ cá nhân, hộ kinh doanh cá thể), không phân biệt giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệ