Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và nền kinh tế tri thức đang đặt ra những yêu cầu mới không chỉ cho sự nghiệp giáo dục, đào tạo mà còn đòi hỏi mỗi cá nhân phải có khả năng thích ứng cao, linh hoạt trong tiếp nhận, xử lý thông tin và không ngừng tự bồi dưỡng tri thức để đáp ứng được các nhu cầu ngày càng phát triển của xã hội. Chính vì vậy, việc phát huy vai trò năng động chủ quan, chú trọng bồi dưỡng năng lực tự giáo dục, tự đào tạo của người học đang là một nội dung quan trọng của đổi mới giáo dục đào tạo trong nhà trường hiện nay, đây được xem như một hướng đột phá, một sự quan tâm lớn của xã hội và các trường đại học, cao đẳng trong cả nước. Nhận thức được vấn đề trên, trong các Văn kiện, Nghị quyết gần đây, Đảng ta luôn khẳng định: “đổi mới phương pháp dạy và học, phát huy tư duy sáng tạo và năng lực tự đào tạo của người học, coi trọng thực hành, thực nghiệm, làm chủ kiến thức tránh học vẹt, học chay” [5, 203]. Đây là vấn đề có ý nghĩa bức thiết của giáo dục, nhằm biến quá trình đào tạo của nhà trường thành quá trình tự đào tạo của mỗi cá nhân.
57 trang |
Chia sẻ: hongden | Lượt xem: 1598 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bồi dưỡng kỹ năng tự giáo dục cho học viên đào tạo sỹ quan cấp phân đội trình độ đại học ở Học viện Hậu cần hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và nền kinh tế tri thức đang đặt ra những yêu cầu mới không chỉ cho sự nghiệp giáo dục, đào tạo mà còn đòi hỏi mỗi cá nhân phải có khả năng thích ứng cao, linh hoạt trong tiếp nhận, xử lý thông tin và không ngừng tự bồi dưỡng tri thức để đáp ứng được các nhu cầu ngày càng phát triển của xã hội. Chính vì vậy, việc phát huy vai trò năng động chủ quan, chú trọng bồi dưỡng năng lực tự giáo dục, tự đào tạo của người học đang là một nội dung quan trọng của đổi mới giáo dục đào tạo trong nhà trường hiện nay, đây được xem như một hướng đột phá, một sự quan tâm lớn của xã hội và các trường đại học, cao đẳng trong cả nước. Nhận thức được vấn đề trên, trong các Văn kiện, Nghị quyết gần đây, Đảng ta luôn khẳng định: “đổi mới phương pháp dạy và học, phát huy tư duy sáng tạo và năng lực tự đào tạo của người học, coi trọng thực hành, thực nghiệm, làm chủ kiến thức tránh học vẹt, học chay” [5, 203]. Đây là vấn đề có ý nghĩa bức thiết của giáo dục, nhằm biến quá trình đào tạo của nhà trường thành quá trình tự đào tạo của mỗi cá nhân.
Nằm trong hệ thống các học viện, nhà trường quân đội, HVHC có nhiệm vụ đào tạo cán bộ hậu cần cho toàn quân và đội ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu giảng dạy khoa học hậu cần quân sự. Từ những năm học đầu, học viên đã phải tiếp thu một lượng kiến thức rất lớn về khoa học cơ bản, khoa học quân sự, khoa học xã hội và nhăn văn làm cơ sở theo học các chuyên ngành. Để có thể lĩnh hội tri thức ở bậc đào tạo đại học, hình thành được các phẩm chất nhân cách cần thiết của người cán bộ hậu cần trong tương lai đòi hỏi học viên phải có các KNTGD tương ứng để có thể tự học tập, tự rèn luyện thường xuyên. Khi được bồi dưỡng và rèn luyện KNTGD, học viên sẽ có một hệ thống công cụ hữu ích cho hoạt động nhận thức, làm cho quá trình tiếp thu kiến thức, rèn luyện KN sẽ tốn ít sức lực và có hiệu quả hơn. Từ đó, học viên càng có điều kiện để hợp tác, đào sâu tìm hiểu và vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn. Nhờ có KNTGD mà học viên từ chỗ là đối tượng của giáo dục sẽ trở thành chủ thể của giáo dục, tiếp nhận những tác động của giáo dục một cách chủ động tích cực, sáng tạo và tự làm chủ quá trình hoàn thiện nhân cách của mình.
Quán triệt Nghị quyết 86 của Đảng uỷ Quân sự Trung ương về công tác giáo dục đào tạo trong tình hình mới. Trong những năm qua, HVHC đã tiến hành đổi mới đồng bộ nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục - đào tạo theo hướng dân chủ hoá, tích cực hoá nhằm hướng tới mục tiêu đào tạo các học viên sỹ quan trở thành những con người hoạt động thực tiễn tự chủ, năng động và sáng tạo. Vai trò tích cực, chủ động trong học tập rèn luyện của học viên đã được đề cao. Tuy nhiên, so với yêu cầu, nhiệm vụ của Học viện và yêu cầu xây dựng ngành hậu cần quân đội trong thời kỳ mới thì chất lượng giáo dục, đào tạo của Học viện còn những vấn đề bất cập, qua khảo sát chất lượng cán bộ hậu cần cấp phân đội bậc đại học mới ra trường cho thấy: “đa phần cán bộ được đào tạo đều có phẩm chất, năng lực và tiềm năng phát triển. Song vẫn có không ít số cán bộ phân đội còn lúng túng trong thực hiện chức trách thực tế, đặc biệt những vấn đề liên quan đến kinh tế thị trường, làm luận chứng kinh tế, kỹ thuật, giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra đối với cán bộ hậu cần[17]. Bên cạnh đó, sự trưởng thành về nhân cách và các phẩm chất nghề nghiệp của học viên còn chậm, khả năng định hướng giá trị còn yếu, kết quả học tập, rèn luyện của học viên còn chưa caoNhững hạn chế đó do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có nguyên nhân cơ bản, học viên chưa có KNTGD hoặc KNTGD, KN thực hành tuy được hình thành nhưng chưa vững chắc và mang tính hệ thống.
Do vậy, để thực hiện thắng lợi mục tiêu, yêu cầu đào tạo của Học viện, xây dựng đội ngũ cán bộ hậu cần vừa hồng vừa chuyên, yêu cầu đặt ra là phải không ngừng đổi mới nội dung, phương pháp và quy trình giáo dục đào tạo, đặc biệt cần chú trọng vào bồi dưỡng các kỹ năng tự học tập, tự rèn luyện và năng lực thực hành nhằm hình thành KNTGD cần thiết cho học viên.
Từ những lý do trên, tác giả lựa chọn: “Bồi dưỡng KNTGD cho học viên đào tạo sỹ quan cấp phân đội trình độ đại học ở Học viện Hậu cần hiện nay” là vấn đề có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan
Đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề TGD, KNTGD nói riêng hay KN tổ chức các hoạt động nói chung, cả trong và ngoài quân đội. Trong đó có một số công trình tiêu biểu như: Lê Đức Phúc (2004), “Nâng cao khả năng tự giáo dục của học sinh” NXB Chính trị Quốc gia; Thái Duy Tuyên (2000), “Tăng cường hoạt động tự giáo dục của học sinh”, tạp chí Giáo dục và thời đại, 32( 294); Nguyễn Học Từ (1998): “Cơ sở sư phạm và giải pháp bồi dưỡng kỹ năng tự giáo dục cho học viên các trường Đại học quân sự” Luận án phó tiến sỹ khoa học quân sự, Hà nội; Nguyễn Thành Vân (2004), “Những biện pháp bồi dưỡng kỹ năng tổ chức hoạt động nhận thức cho giáo viên khoa học xã hội và nhân văn ở các trường Đại học quân sự hiện nay”, Luận án tiến sỹ Giáo dục học, Hà Nội...Các công trình đề tài nói trên là những định hướng, gợi ý quan trọng giúp tác giả trong quá trình nghiên cứu.
Nhìn chung, các công trình khoa học đã đề cập và luận giải nhiều khía cạnh của vấn đề TGD, KNTGD, KN tổ chức các hoạt động cho học sinh, sinh viên trong đó có các học viên ở nhà trường quân sự. Các công trình đã khẳng định vai trò của TGD, KNTGD đối với việc hình thành, phát triển, hoàn thiện nhân cách nói chung, nhân cách của người quân nhân cách mạng nói riêng. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đề cập đến vấn đề bồi dưỡng KNTGD cho học viên đào tạo sỹ quan cấp phân đội trình độ đại học ở HVHC. Đề tài không trùng lặp với các đề tài, công trình đã công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích
Làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về bồi dưỡng KNTGD, trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp bồi dưỡng KNTGD cho học viên đào tạo sỹ quan cấp phân đội, trình độ đại học ở HVHC hiện nay
* Nhiệm vụ
- Luận giải một số vấn đề lý luận về bồi dưỡng KNTGD cho học viên đào tạo sỹ quan cấp phân đội, trình độ đại học
- Đánh giá thực trạng bồi dưỡng KNTGD của học viên đào tạo sỹ quan cấp phân đội, trình độ đại học ở HVHC hiện nay
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản bồi dưỡng KNTGD cho học viên đào tạo sỹ quan cấp phân đội trình độ đại học ở HVHC trong giai đoạn hiện nay
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
KNTGD cho học viên đào tạo sỹ quan cấp phân đội, trình độ đại học ở HV HC
* Phạm vi nghiên cứu
Bồi dưỡng KNTGD của học viên Tiểu đoàn 1 và Tiểu đoàn 2 ở HVHC từ năm 2004 đến 2009
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Lý luận Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm của Đảng về giáo dục; lý luận của khoa học chuyên ngành giáo dục học
- Cơ sở thực tiễn: Kế thừa kết quả các công trình nghiên cứu khoa học có liên quan; Kết quả thực tế bồi dưỡng KNTGD cho học viên đào tạo sỹ quan cấp phân đội, trình độ đại học ở HVHC trong những năm gần đây; báo cáo tổng kết các mặt hoạt động chủ yếu của tiểu đoàn quản lý học viên và số liệu khảo sát của tác giả về bồi dưỡng KNTGD ở các tiểu đoàn quản lý học viên đào tạo sỹ quan hậu cấp phân đội, trình độ đại học của HVHC
- Phương pháp nghiên cứu: Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, đề tài sử dụng các phương pháp phân tích - tổng hợp, điều tra xã hội học và phương pháp tổng kết thực tiễn, phương pháp trao đổi, xin ý kiến chuyên gia...
6. Ý nghĩa nghiên cứu của đề tài
Kết quả nghiên cứu đề tài phục vụ cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức nâng cao hiệu quả bồi dưỡng KNTGD của học viên, đồng thời đề tài có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, giảng dạy.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm mở đầu, 2 chương, 5 tiết, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ BỒI DƯỠNG
KỸ NĂNG TỰ GIÁO DỤC CHO HỌC VIÊN ĐÀO TẠO SỸ QUAN CẤP PHÂN ĐỘI TRÌNH ĐỘ ĐẠI HỌC Ở HỌC VIỆN HẬU CẦN
1.1. Một số vấn đề lý luận về bồi dưỡng kỹ năng tự giáo dục cho học viên đào tạo sỹ quan cấp phân đội, trình độ đại học ở Học viện Hậu cần
1.1.1. Kỹ năng tự giáo dục của học viên đào tạo sỹ quan hậu cần cấp phân đội
Trong lịch sử, vấn đề giáo dục và TGD đã được quan tâm từ rất sớm. Các nhà giáo dục đánh giá rất cao vai trò của TGD, tự tu dưỡng rèn luyện và coi trọng phát huy TTC, chủ động của người học. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân mà vấn đề này còn được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, thậm chí còn mang nặng tính tự phát, chủ quan, đơn giản và phiến diện. Chỉ khi học thuyết Mác- Lênin ra đời với cách xem xét biện chứng, vấn đề TGD được nhìn nhận một cách khoa học, TGD không còn hoàn toàn là hiện tượng thuần tuý chỉ có ở mỗi người mà còn là một hiện tượng xã hội.
Theo đại từ điển tiếng Việt “tự” là từ “biểu thị hoạt động do chủ thể tiến hành hoặc biểu thị ý nghĩa phản thân” [30,236]. Theo đó, TGD của HV đào tạo sỹ quan hậu cần cấp phân đội, trình độ đại học được hiểu là quá trình nỗ lực tự giác cao của học viên nhằm tự tổ chức, tự điều khiển, tự điều chỉnh sự hình thành phát triển và hoàn thiện nhân cách của mình theo mục tiêu yêu cầu đào tạo của Học viện.
TGD là nhân tố quyết định đến sự phát triển hoàn thiện nhân cách của mỗi người nói chung, của học viên đào tạo sỹ quan hậu cần cấp phân đội, trình độ đại học nói riêng. Đây là quá trình chuyển hoá những nhu cầu của xã hội, quân đội vốn tồn tại khách quan thành trạng thái chủ quan, thành nhu cầu động cơ, nội dung, khả năng tự học tập, tự rèn luyện của mỗi học viên thông qua vai trò của nhà giáo dục và hoạt động thực tiễn tích cực của học viên.
Học viên đào tạo sỹ quan hậu cần cấp phân đội trình độ đại học là những thanh niên trẻ, khoẻ, tuổi đời từ 18-22, phần lớn là học sinh phổ thông được tuyển chọn qua con đường tuyển sinh đại học. Đó là những học viên ham hiểu biết, nhạy cảm trước tác động của môi trường, tư duy mau lẹ, linh hoạt, trí nhớ tốt. Đây là những điều kiện thuận lợi để họ có khả năng tiếp thu nhanh tri thức khoa học, nhất là tri thức khoa học hậu cần quân sự, tạo tiền đề cho sự phát triển hoàn thiện phẩm chất nhân cách người cán bộ hậu cần trong điều kiện mới. Tuy nhiên, học viên đào tạo sỹ quan hậu cần cấp phân đội là những người trẻ tuổi, vốn sống kinh nghiệm chưa nhiều, nhất là kinh nghiệm về chính trị xã hội, hậu cần quân sự và KNTGD và rèn luyện bản thân. Cho nên họ thường bộc lộ những hạn chế như nhận thức nhanh nhưng dễ phiến diện, đánh giá thường cảm tính thiếu sâu sắc, phân biệt đúng sai về một số vấn đề trong cuộc sống, rèn luyện, học tập còn hạn chế. Đặc biệt là trong những năm đầu, mục tiêu phân đấu chưa rõ ràng cụ thể, còn lý trí chưa biết bắt đầu từ đâuDo vậy cán bộ lãnh đạo, quản lý và các lực lượng giáo dục cần quan tâm, hướng dẫn, tổ chức hoạt động học tập, rèn luyện một cách cụ thể, nhất là bồi dưỡng KN, kinh nghiệm TGD cho họ hướng vào thực hiện thắng lợi mục tiêu yêu cầu đào tạo của Học viện.
Hiện nay, khi bàn về KN có nhiều quan điểm. Tuỳ theo từng góc độ, các nhà khoa học đưa ra khái niệm KN với nghĩa rộng, hẹp khác nhau. Hà Thế Ngữ đưa ra khái niệm KN với nghĩa coi KN là mặt kỹ thuật của thao tác hành động: “Kỹ năng là phương thức thực hiện hành động - những cái mà con người đã lĩnh hội từ trước” [18,17]. Ở góc nhìn khác, Hà Thị Đức lại nhấn mạnh việc coi KN không đơn thuần là mặt kỹ thuật của hành động mà còn là biểu hiện năng lực của con người: “Kỹ năng là năng lực sử dụng các tri thức và các kỹ xảo của mình một cách sáng tạo trong hoạt động thực tiễn” [27,13]...Nhìn chung, các khái niệm cơ bản đã chỉ ra đặc trưng cốt lõi của KN, đó là khả năng thực hiện có kết quả một hành động hay một loạt hoạt động nào đó bằng cách lựa chọn và vận dụng đúng đắn, sáng tạo kiến thức đã có để giải quyết một nhiệm vụ, thực hiện một công việc tương ứng theo những chuẩn mực xác định.Việc xem xét KN với tư cách là năng lực hành động của cá nhân đặt ra yêu cầu là không chỉ phân tích mặt kỹ thuật của hành động mà còn phải nghiên cứu các nhân tố khác có liên quan đến việc triển khai hành động. Cho nên xem xét KN phải gắn với một hoạt động cụ thể, xem nó như một đặc điểm của hành động. KN trước hết biểu hiện mặt kỹ thuật, mức độ đúng đắn và thành thục của hành động. KN không có mục đích riêng, mục đích của KN cũng là mục đích của hành động. Trong KN, không chỉ là tri thức về phương thức hành động mà còn là tri thức về giá trị của hành động, định hướng cho chủ thể luyện tập để thực hiện những nhiệm vụ tương ứng. Sự hình thành KN phụ thuộc vào cơ chế hình thành hành động. Do vậy cần luyện tập thường xuyên trong thực tiễn để chủ thể có thể nắm được quy luật của hành động và có thể triển khai nó ở các tình huống khác nhau. Xét về mặt kết quả hoàn thành, người được gọi là có KN vừa phải hoạt động có hiệu quả trong các điều kiện quen thuộc vừa phải đạt kết quả tương tự trong các điều kiện hoàn cảnh khác nhau. Dấu hiệu đặc trưng của KN là khả năng thay đổi thao tác hành động trong các điều kiện thay đổi. Có thể nói, tính đúng đắn, sự thành thạo, linh hoạt và mềm dẻo là một tiêu chuẩn quan trọng để xác định sự hình thành và phát triển của KN.
Từ những khái quát trên, dưới góc độ tâm lý - giáo dục học tác giả quan niệm: Kỹ năng tự giáo dục là khả năng vận dụng có kết quả những tri thức về giá trị và phương thức hành động tự giáo dục, được chủ thể lĩnh hội để thực hiện những nhiệm vụ tương ứng đặt ra trong cuộc sống và hoạt động của chủ thể.
Trong quá trình đào tạo, học viên đào tạo sỹ quan hậu cần cấp phân đội, trình độ đại học vừa phải tiếp thu những kiến thức khoa học cơ bản, cơ sở và kiến thức chuyên ngành hậu cần quân sự vừa phải hoạt động phấn đấu rèn luyện để trở thành người sỹ quan hậu cần, người đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhiệm vụ học tập, rèn luyện đặt ra yêu cầu cao không chỉ về sự kiên trì, bền bỉ mà còn đòi hỏi học viên phải có KNTGD, tự rèn luyện để có đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Để có được những KNTGD, người học viên đào tạo sỹ quan hậu cần cấp phân đội một mặt phải tiếp thu sự định hướng, điều khiển, tổ chức thực hiện nhiệm vụ của các lực lượng giáo dục, mặt khác có ý nghĩa quyết định là phải tự xác định kế hoạch, tự tổ chức thực hiện và kiểm tra hoạt động TGD của mình nhằm đạt mục đích đặt ra. Do đó, ở cấp độ khái quát, Kỹ năng tự giáo dục của học viên đào tạo sỹ quan hậu cần cấp phân đội là khả năng vận dụng những kiến thức và kinh nghiệm tự giáo dục để triển khai thực hiện những nhiệm vụ TGD và rèn luyện của bản thân học viên một cách chủ động sáng tạo và có hiệu quả.
KNTGD được hình thành trên nền tảng kiến thức và kinh nghiệm TGD. Giáo dục là điều kiện của TGD. KNTGD đồng nghĩa với năng lực tự nhận thức, tự định hướng tổ chức, tự điểu khiển quá trình TGD và rèn luyện của học viên. Muốn TGD có hiệu quả và chất lượng điều quan trọng là học viên phải có khả năng biến những kiến thức và kinh nghiệm đó thành hoạt động TGD và rèn luyện phù hợp, sáng tạo. Vì vậy, ở cấp độ cụ thể KNTGD được hiểu là một hệ thống những thao tác hành vi định hướng tự tổ chức và tự điều khiển các hoạt động TGD và rèn luyện của cá nhân học viên. Nói cách khác, KNTGD là hệ thống các thao tác tự tổ chức, tự điều khiển các hoạt động học tập và rèn luyện cụ thể của học viên.
Như vậy, KNTGD của học viên bao gồm hai thành tố là tri thức và các thao tác cấu thành. Tri thức về phương thức thực hiện các thao tác, hoạt động cấu thành KNTGD.Ví như việc nắm mục đích, bản chất, vai trò cách thức, phương pháp thực hiệnCác thao tác tương ứng cùng với những phương thức thực hiện thao tác. Đây là khả năng triển khai hoạt động trong thực tiễn trên cơ sở vận dụng tri thức kinh nghiệm đã thu được. Giữa hai thành tố trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó tri thức về phương thức thực hiện các thao tác, hoạt động là cơ sở tiền đề để hình thành nên một thao tác, phương thức thực hiện. Vốn tri thức càng sâu sắc, kinh nghiệm thực tiễn càng phong phú thì việc hình thành KNTGD càng diễn ra nhanh chóng và vững chắc. Ngược lại các thao tác hoạt động được hình thành làm cho trình độ am hiểu tri thức, sự vận dụng các tri thức kinh nghiệm đã có trong hoạt động càng thêm sâu sắc đầy đủ. Sự quan hệ chặt chẽ này tạo nên kết quả của hành động.
Xuất phát từ logic của quá trình giáo dục, từ đặc điểm đối tượng và môi trường hoạt động đặc thù. Trong quá trình đào tạo tại Học viện, KNTGD của học viên đào tạo sỹ quan hậu cần cấp phân đội được xác định bao gồm các nhóm KN cơ bản sau:
* Nhóm KN định hướng mục đích TGD. KN định hướng mục đích TGD của học viên đào tạo sỹ quan hậu cần cấp phân đội bao gồm các thao tác: Tự nghiên cứu, quán triệt mục tiêu yêu cầu đào tạo của Học viện, tự lựa chọn các chuẩn mực giá trị phù hợp và tự xác định mục đích TGD, rèn luyện và phấn đấu của cá nhân
* Nhóm KN tự tổ chức hoạt động TGD
Trước hết, KN tự tổ chức hoạt động TGD của học viên đào tạo sỹ quan hậu cần cấp phân đội bắt đầu từ việc tự thiết kế và kế hoạch hoá hoạt động, trong đó chú trọng các thao tác: Tự tìm hiểu nắm nội dung chương trình hoạt động của đại đội, tiểu đoàn, tự đề ra những chỉ tiêu cá nhân phù hợp, tự xác định tiến độ thực hiện theo quỹ thời gian cho phép và tự lập kế hoạch TGD và rèn luyện cá nhân.
Thứ hai, để thực hiện KN tự thi công thực hiện kế hoạch đòi hỏi học viên đào tạo sỹ quan hậu cần cấp phân đội phải tự thi công từng nội dung hoạt động theo kế hoạch đã đề ra; tự lựa chọn và vận dụng các phương pháp, hình thức TGD, rèn luyện một cách phù hợp và tự điều chỉnh bổ sung nội dung kế hoạch theo những yêu cầu mới.
Thứ ba, để rút kinh nghiệm trong hoạt động TGD đòi hỏi người học viên phải có các KN kết thúc kế hoạch, ở nhóm KN này người học viên phải biết tự đánh giá và rút kinh nghiệm thực hiện kế hoạch và dự kiến nội dung chỉ tiêu cho kế hoạch TGD tiếp theo.
* Nhóm KN chuyên biệt, tiến hành các hoạt động TGD rèn luyện, để thực hiện nhóm KN này đòi hỏi học viên phải thực hiện các thao tác: Tự quan sát thái độ hành vi của bản thân; Tự thuyết phục; Tự phê bình; Tự ám thịmột cách thường xuyên trong suốt quá trình TGD.
Trong quá trình đào tạo, các lực lượng giáo dục trong nhà trường cần giúp học viên nhận thức rõ vai trò của các KNTGD kể trên, đồng thời có kế hoạch tổ chức, rèn luyện để hình thành các KN đó, vận dụng có hiệu quả vào trong quá trình học tập, rèn luyện tại trường.
1.1.2. Những nhân tố tác động đến sự hình thành kỹ năng tự giáo dục của học viên
Để làm cơ sở cho công tác bồi dưỡng, cần chỉ ra các yếu tố đã và đang tác động đến việc hình thành KNTGD của học viên. Sự hình thành và phát triển KNTGD của học viên chịu tác động bởi các nhân tố sau:
* Những biến đổi trong đời sống kinh tế, chính trị xã hội của đất nước và nhiệm vụ của cách mạng, quân đội, ngành hầu cần tác động đến công tác bồi dưỡng kỹ năng tự giáo dục cho học viên
Đường lối đổi mới, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta trong những năm qua đã thu được những kết quả đáng khích lệ: Kinh tế phát triển, chính trị ổn định, quốc phòng an ninh được giữ vững, đời sống nhân dân không ngừng được nâng lên, nhất là đời sống của cán bộ chiến sỹ trong quân đội được quan tâm và có nhiều cải thiện. Những thuận lợi đó đã tác động đến nhận thức, tư tưởng và tình cảm của cán bộ, giáo viên, học viên HVHC. Tuy nhiên, tì̀nh hình đó cũng đòi hỏi mỗi người học viên, cán bộ, giáo viên phải không ngừng phấn đấu vươn lên để tự khẳng định mình, phải có khả năng tự học, tự tu dưỡng rèn luyện phấn đấu vươn lên đáp ứng tốt yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn giáo dục đào tạo đặt ra; đồng thời không để các tác động của mặt trái kinh tế thị trường, các tệ nạn xã hội, sự cám dỗ của ma lực đồng tiền và lối sống hưởng thụ, dẫn đến suy thoái về phẩm chất đạo đức lối sống. Đây là yếu tố trực tiếp tác động làm hạn chế công tác bồi dưỡng KNTGD cho học viên trong điều kiện hiện nay
Yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và xây dựng quân đội, ngành hậu cần, mô hình nhân cách cán bộ hậu cần trong giai đoạn hiện nay đặt