Trong những năm gần đây, cây điều (Anacardium occidental L.) đã và đang trở thành một cây công nghiệp mạnh, có giá trị kinh tế – xã hội cao của nước ta. Hằng năm, doanh thu từ cây điều đem về cho nước ta hàng trăm triệu USD, trở thành nước xuất khẩu nhân điều đứng thứ 2 thế giới, vượt qua Ấn Độ, chỉ đứng sau Brazil [4]. Bên cạnh đó, việc canh tác cây điều còn giúp nước ta giải quyết được những vấn đề xã hội khác như: phủ xanh đất trống đồi trọc, giải quyết việc làm, đem lại thu nhập ổn định cho người nông dân ở những vùng đất khô cằn, bạc màu,
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 84 trang
84 trang | 
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1650 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bước đầu đánh giá mức độ đa dạng di truyền của quần thể điều (Anacardium occidental L.) tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu bằng kỹ thuật RAPD và AFLP, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 
Chƣơng 1 
GIỚI THIỆU 
1.1. Đặt vấn đề 
Trong những năm gần đây, cây điều (Anacardium occidental L.) đã và đang trở 
thành một cây công nghiệp mạnh, có giá trị kinh tế – xã hội cao của nước ta. Hằng 
năm, doanh thu từ cây điều đem về cho nước ta hàng trăm triệu USD, trở thành nước 
xuất khẩu nhân điều đứng thứ 2 thế giới, vượt qua Ấn Độ, chỉ đứng sau Brazil [4]. Bên 
cạnh đó, việc canh tác cây điều còn giúp nước ta giải quyết được những vấn đề xã hội 
khác như: phủ xanh đất trống đồi trọc, giải quyết việc làm, đem lại thu nhập ổn định 
cho người nông dân ở những vùng đất khô cằn, bạc màu,…Nước ta nằm trong vùng 
có khí hậu thuận lợi và có diện tích lớn đất phù hợp cho sự phát triển của cây điều, vì 
vậy chúng ta có tiềm năng lớn để phát triển mạnh cây điều. 
Tuy nhiên tình hình canh tác cây điều của nước ta nói chung và của tỉnh Bà Rịa – 
Vũng Tàu nói riêng không đạt tương xứng như tiềm năng, do đó năng suất bình quân 
còn thấp, không đồng đều và không ổn định cả về chất lượng và sản lượng, bắt nguồn 
từ việc phát triển cây điều một cách tự phát, không được đầu tư nghiên cứu nghiêm 
túc, đặc biệt là những nghiên cứu về các giống điều và kỹ thuật canh tác. Để có thể đề 
ra một chiến lược toàn diện phát triển cây điều, điều qua trọng là cần phải đầu tư cho 
công tác lai tạo, bảo tồn và phổ biến những giống điều có chất lượng vượt trội so với 
những giống hiện có. Muốn vậy trước hết phải đánh giá được mức độ đa dạng di 
truyền của quần thể cây điều hiện có. Xuất phát từ yêu cầu đó, được sự phân công của 
Bộ môn Công Nghệ Sinh Học–Trường Đại học Nông Lâm Tp.HCM, dưới sự hướng 
dẫn của thầy TS. Bùi Minh Trí, chúng tôi thực hiện đề tài: “Bƣớc đầu đánh giá mức 
độ đa dạng di truyền của quần thể điều (Anacardium occidental L.) tại tỉnh Bà 
Rịa – Vũng Tàu bằng kỹ thuật RAPD và AFLP”. 
2 
1.2. Mục tiêu và yêu cầu 
1.2.1. Mục tiêu 
 Thông qua kỹ thuật RAPD đánh giá sơ bộ mức độ đa dạng di truyền và 
nhận diện chỉ thị phân tử của quần thể điều tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. 
 Xây dựng quy trình tiến hành kỹ thuật AFLP trên cây điều, làm cơ sở cho 
việc áp dụng kỹ thuật AFLP vào những nghiên cứu sâu rộng hơn về tính đa dạng di 
truyền và nhận diện chỉ thị phân tử trên cây điều cũng như trên những đối tượng 
nghiên cứu khác sau này. 
1.2.2. Yêu cầu 
 Thu thập được mẫu lá của những cây điều có những đặc điểm nổi bật và 
điển hình dựa trên kiểu hình như: khả năng chịu hạn tốt hay không tốt, năng suất và 
chất lượng hạt cao hay thấp, có tính đề kháng với sâu bệnh cao hay thấp, ra hoa sớm 
hay muộn,… 
 Ly trích DNA có chất lượng tốt từ các mẫu lá thu được (được bảo quản 
lạnh) làm nguyên liệu cho kỹ thuật RAPD và AFLP. 
 Thực hiện thành công kỹ thuật RAPD từ đó đánh giá sơ bộ mức độ đa dạng 
di truyền quần thể điều tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, đồng thời nhận diện một số đoạn 
DNA có thể được sử dụng như những chỉ thị phân tử liên quan đến những tính trạng 
đáng quan tâm. 
 Thực hiện kỹ thuật AFLP trên một số mẫu DNA có chất lượng tốt, từ đó 
lựa chọn ra một vài tổ hợp primer nhân bản chọn lọc thích hợp cho việc áp dụng kỹ 
thuật AFLP trên cây điều. 
1.3. Hạn chế của đề tài 
 Những nghiên cứu phân loại giống điều tại Việt Nam chưa được thiết lập, 
đồng thời khó có khả năng nhận diện giống trong thực tế tại vườn nông hộ nên chỉ 
thực hiện lấy mẫu những cây điều có đặc điểm nổi bật và điển hình, không dựa trên 
đặc điểm phân loại giống. 
 Không có đủ điều kiện để thu thập lượng mẫu lớn. 
3 
 Không có đủ điều kiện để thực hiện phản ứng PCR – RAPD với nhiều 
primer và tìm ra quy trình PCR – RAPD tối ưu. 
 Không có điều kiện để tiến hành kỹ thuật AFLP trên nhiều mẫu và với 
nhiều tổ hợp primer do chi phí thực hiện quá cao. 
4 
Chƣơng 2 
TỔNG QUAN TÀI LIỆU 
2.1. Giới thiệu chung về cây điều 
2.1.1. Nguồn gốc cây điều 
Cây điều có tên khoa học là Anacardium occidentale L. 
Cây điều có nguồn gốc ở Brazil. Người Bồ Đào Nha là những người đầu tiên 
mang cây điều từ Brazil sang trồng ở châu Á và châu Phi trong công cuộc mở rộng 
thuộc địa của họ. Điều kiện tự nhiên ở châu Á phù hợp cho sự phát triển của cây điều. 
Ngày nay cây điều trải rộng trong ranh giới vĩ tuyến 25o Bắc và 25o Nam. Trước 
kia, cây điều được trồng chủ yếu để che phủ đất, chống xói mòn,…Mãi đến tận đầu thế 
kỷ 20 nhân điều mới thực sự trở thành nông sản có giá trị trên toàn thế giới [2][3]. 
2.1.2. Đặc điểm thực vật học của cây điều 
Cây điều là loài cây thân mộc vùng nhiệt đới, sống lâu năm (đến khoảng 30 – 40 
năm hay cao hơn), chịu hạn tốt, có thể sinh trưởng và phát triển ở những vùng đất khô 
cằn, bạc màu mà những cây lương thực khác khó có thể sống nổi. 
2.1.2.1. Thân và cành cây 
Thân thường cao khoảng 6 – 8 m, những nơi đất tốt có thể đến 10 – 12 m, 
đường kính vòng thân có thể đạt 40 – 50 cm. Chiều cao thân cây có liên hệ mật thiết 
với mật độ trồng. Nếu trồng với mật độ dày, thân cây tăng trưởng chiều cao mạnh 
nhưng cành nhánh nhỏ và ngắn, lá thưa thớt, không thể cho nhiều hoa và trái. Thông 
thường khoảng cách trồng phổ biến khoảng 8 – 10 m. 
Tán cây điều rộng, trung bình khoảng 10 m, có khi đạt 20 m [2]. 
2.1.2.2. Hệ rễ 
Cây điều có rễ cọc và rễ ngang. Ở những vùng đất khô, mạch nước ngầm thấp, 
rễ cọc đâm xuống sâu để hút nước, do đó cây điều có khả năng chịu hạn cao và vững 
5 
chắc. Rễ cọc cây điều trên 5 tuổi có thể sâu khoảng 5 m. Hệ thống rễ ngang mọc cách 
mặt đất khoảng 12 cm. 
2.1.2.3. Lá 
Lá cây điều thuộc loại lá đơn, nguyên. Lá thường có dạng thuôn hay hình 
trứng, đuôi lá thường hơi tròn. Lá non có màu xanh hay đỏ tía tùy giống, khi già có 
màu xanh thẫm. Theo Rao và Hassan (1957), thời gian trung bình từ khi ra lá non đến 
lá trưởng thành khoảng 20 ngày [3]. 
2.1.2.4. Hoa và quả điều 
Hoa điều nhỏ, đài hợp, có năm cánh rời. Khi mới nở cánh hoa có màu trắng 
hay vàng có sọc đỏ, sau đó chuyển thành màu hồng sẫm. Hoa điều có hai loại: hoa đực 
và hoa lưỡng tính. Hoa đực gồm toàn nhị đực, hoa lưỡng tính có khoảng 8 – 12 nhị 
đực và có một nhụy cái ở chính giữa. Nhụy cái gồm một bầu noãn nằm dưới một vòi 
dài (dài và mập hơn nhị đực). Theo Copeland (1961), trong bầu noãn chứa một noãn 
duy nhất, nếu được thụ tinh sẽ phát triển thành hạt điều [2]. 
Hoa điều mọc thành từng chùm có từ vài chục đến 1 – 2 trăm hoa, gồm cả hoa 
đực và hoa lưỡng tính, trong đó hoa đực chiếm tỉ lệ cao, còn hoa lưỡng tính dao động 
từ 0 – 30 % tổng số hoa trong chùm. Số hoa lưỡng tính đậu quả tới chín cho thu hoạch 
khoảng 10 %. Những chùm hoa của đầu và cuối vụ thường nhiều hoa đực, những 
chùm hoa chính vụ có tỉ lệ hoa lưỡng tính cao. Tỉ lệ hoa lưỡng tính còn tùy thuộc vào 
từng cây khác nhau trong vườn. Bình quân tỉ lệ hoa lưỡng tính trong chùm khoảng 
12 – 15 % [3]. 
Mùa hoa điều nở là mùa khô. Hoa điều thường nở từ tháng 11 kéo dài đến tận 
tháng 3 năm sau, tuy nhiên hoa nở rộ ở tháng 1 – tháng 2. Sự nở hoa có liên hệ mật 
thiết với nhiệt độ môi trường. Có sự chênh lệch về thời điểm nở hoa, ngay cả với 
những hoa cùng chùm. Hoa điều nở từ sáng sớm tới trưa, sau đó bắt đầu héo. Sau khi 
thụ phấn xong, quá trình thụ tinh bắt đầu: hạt phấn nảy nầm trên đầu núm nhụy cái đưa 
các tinh tử xuyên qua vòi nhụy vào bầu noãn để thụ tinh cho tế bào trứng. Thụ tinh 
xong bắt đầu quá trình hình thành và phát triển của hạt điều. Quả điều thật là phần mà 
ta hay gọi là hạt, phần gọi là quả thực ra do phần cuống phình to ra, gọi là quả giả. Hạt 
điều bao giờ cũng phát triển trước và nhanh hơn quả giả ở gần cuống. Khi hạt điều 
6 
tăng trưởng đến kích thước tối đa, có sự hình thành đầy đủ các bộ phận, bước vào giai 
đoạn chín lúc bấy giờ quả giả mới tăng trưởng mạnh [2]. 
Hạt điều có hình dạng giống quả thận, khi non có màu xanh, khi chín khô 
chuyển qua màu nâu xám hoặc xám hồng. Hạt điều ở nước ta thường dài 2,6 – 3,1 cm, 
dày 1,2 – 1,7 cm, nặng khoảng 3 – 7 g. Cấu tạo hạt điều gồm 3 phần rõ rệt: 
 Phần vỏ cứng: chiếm khoảng 60 % – 70 % trọng lượng hạt điều, trong đó 
phần dầu vỏ hạt chiếm 20 % – 22 % trọng lượng hạt. 
 Phần giữa: là lớp vỏ lụa, lúc còn non đóng vai trò cung cấp chất dinh 
dưỡng nuôi hạt, khi chín teo lại, chiếm khoảng 5 % trọng lượng hạt. 
 Phần trong cùng: là nhân hạt điều, chính là phôi hạt có đầy đủ chồi mầm, 
thân mầm và rễ mầm. Bộ phận có kích thước lớn của phôi là hai lá mầm có chứa nhiều 
chất dinh dưỡng để nuôi cây mầm khi mới mọc [3]. 
 Sau khi thụ tinh xong không phải bất cứ hoa điều lưỡng tính nào cũng đều 
phát triển thành quả giả và hạt cho đến khi chín. Có nhiều khi hạt và quả giả chưa kịp 
chín đã rụng, gọi là hiện tượng rụng trái non. Tỉ lệ rụng trái non phụ thuộc vào từng 
cây, từng vụ, do nhiều nguyên nhân khác nhau như: di truyền, thời tiết bất thường, sâu 
bệnh, đất quá khô hoặc úng lầy, thiếu hụt chất dinh dưỡng nghiêm trọng. 
Sau khi trồng khoảng 2 – 3 năm, cây điều bắt đầu ra hoa kết trái. Năng suất 
giữa các cây trong cùng một vườn, giữa các năm, giữa các vườn điều với nhau thường 
khác nhau, phụ thuộc chủ yếu vào giống, kỹ thuật trồng và thời tiết. Năng suất hạt điều 
trung bình của nước ta khoảng 1,1 tấn/ha [4]. 
2.1.3. Đặc điểm sinh thái của cây điều 
2.1.3.1. Khí hậu 
Các yếu tố thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của cây điều : 
 Chế đô mưa: Theo Ohler (1979), lượng mưa thích hợp giới hạn từ 1.000 – 
2.000 mm/năm, có một mùa mưa tập trung, không đến sớm, sau đó là một mùa khô 
kéo dài 4 – 6 tháng [2]. 
7 
 Chế độ nhiệt: Thích hợp từ 20oC – 37oC, cực thuận ở 27oC [9]. Một điều 
ảnh hưởng rõ rệt đến năng suất hạt điều là do sương muối. Khi có nhiều sương muối 
trùng với thời kỳ kết hạt non của cây, nhiều hạt non sẽ bị thối đen, năng suất giảm. Cây 
điều nước ta thường bị ảnh hưởng nhiều bởi sương muối. 
 Chế độ ánh sáng: Cây điều là cây ưa sáng hoàn toàn, thích hợp ở những 
vùng mà độ dài ngày và đêm bằng nhau và bầu trời quang đãng. Số giờ nắng khoảng 
2000 h/năm [3]. 
 Độ ẩm tương đối: Độ ẩm không khí thích hợp từ 65 % – 80 %. 
2.1.3.2. Đất đai 
Cây điều có thể mọc trên nhiều loại đất khác nhau (đất đỏ, đất cát, đất xám 
phù sa cổ, đất sỏi đá,…), tuy nhiên muốn đạt năng suất cao đòi hỏi phải có tầng đất 
mặt sâu, thành phần cơ giới nhẹ, thoát nước tốt, pH đất từ 4,5 – 6,5. Vườn trồng phải 
được nhổ cỏ thường xuyên để cây phát triển tốt. 
2.1.3.3. Mật độ trồng 
Thông thường mật độ trồng thích hợp là 10 m x 10 m, ở mật độ này cây điều 
phát triển tốt chiều cao và tán [3]. 
2.1.4. Giống điều và các phƣơng pháp nhân giống 
Giống như các loại cây trồng từ hạt khác, cây điều có khả năng xảy ra thụ phấn 
chéo cao và phát tán rộng, vì vậy quần thể cây điều có tính đa dạng di truyền cao. 
Trong thực tế, ở Việt Nam có những giống điều chủ yếu như: PN1, MH4/5, 
MH5/4, BO1 (là giống điều ghép cao sản). Bên cạnh đó còn những giống điều khác 
chưa phân loại được [3]. Theo như kinh nghiệm của các nông dân, có 2 giống điều chủ 
yếu là: điều Ấn Độ có tán rộng, đọt non màu đỏ và cho năng suất rất cao song hay bị 
sâu hại trong khi điều Việt Nam có tán hẹp và đọt non màu xanh, năng suất không cao 
bằng điều Ấn Độ song khả năng chống chịu sâu hại cao. 
2.1.4.1 . Đặc điểm thực vật học của các giống điều 
 Về hình dạng cây: Có cây thân cao và cây thân lùn. Giữa 2 dạng chính này 
còn có nhiều dạng trung gian phong phú. 
8 
 Về màu sắc lá: Có giống có lá non màu nõn chuối và lá già màu xanh nhạt, 
có giống có lá non từ màu hồng đến đỏ tía và lá già màu xanh đậm. 
 Về hoa: Có giống hoa nở muộn, nở sớm chênh nhau 10 – 15 ngày, số lượng 
hoa trong mỗi chùm cũng khác nhau (có giống mỗi chùm chỉ có vài chục hoa, có giống 
lại có vài trăm hoa trên một chùm), tỉ lệ hoa đực/hoa lưỡng tính bình quân trong một 
chùm cũng thay đổi tùy giống (có giống có tỉ lệ hoa lưỡng tính thấp chỉ khoảng 5 % 
hay cũng có giống cao đến khoảng 30 %). Tỉ lệ hoa lưỡng tính sau khi nở và đậu thành 
trái cũng khác nhau, có khi nhiều khoảng 6 – 10 trái, ít chỉ 1 – 3 trái. 
 Về quả giả: Khác biệt ở màu sắc, hình dạng, kích cỡ, mùi vị quả giữa các 
giống. Có giống quả màu đỏ, màu hồng, màu vàng, đỏ sọc xanh. Có giống quả tròn, 
quả dài, quả to hay nhỏ. Có giống quả ngọt khi chín, có giống quả nhạt, khi ăn khé cổ 
do có nhiều tananh trong nước quả. 
 Về hạt và năng suất hạt: Khác biệt về hạt ở các đặc điểm như hình dạng, 
kích thước, trọng lượng, tỉ lệ nhân. Có giống hạt tròn mẩy, có giống hạt lép. Có giống 
hạt to và nặng, khi chín trọng lượng khô đạt đến 8 g/hạt (khoảng 127 – 132 hạt/kg), có 
giống hạt nhỏ, chỉ đạt 3,5 g/hạt (gần 300 hạt/kg). Có giống tỉ lệ nhân đạt 20 % trọng 
lượng hạt, cũng có giống đạt 30 % trọng lượng hạt. 
2.1.4.2. Phƣơng pháp nhân giống cây điều 
Các phương pháp nhân giống điều chủ yếu là chiết, ghép, gieo hạt, tuy nhiên 
trong thực tế nông dân thường dùng phương pháp chọn cây điều mẹ tốt để lấy hạt làm 
giống. Ngoài ra, hiện nay nông dân thường mua cây giống cao sản từ những công ty 
giống. 
2.1.5. Sản xuất điều trên thế giới 
Từ một cây mọc hoang dại ở vùng Đông Bắc Brazil, ngày nay cây điều được 
trồng ở nhiều nơi trên thế giới, chủ yếu ở những nước có nền nông nghiệp khá phát 
triển hay những nước đang phát triển. Hiện nay có khoảng 50 nước trồng điều trên 
toàn thế giới. Những nước sản xuất điều chủ yếu: Ấn Độ, Brazil, Việt Nam, Guinea-
Bissau, Ivory Coast, Benin, Nigeria, Mozambique, Tanzania,… 
9 
Bảng2.1. Sản xuất nhân hạt điều của thế giới niên vụ 1997 và 2000 – 2001. 
ĐVT: tấn 
Nƣớc/khu vực 1997 2000 – 2001 
Ấn Độ 
Brazil 
Việt Nam 
Tanzania 
Nigieria 
Mozambique 
Indonesia 
Guinea-Bissau 
Benin 
Các nuớc châu Phi nói tiếng Pháp 
Các nước khác 
350.000 
180.000 
110.000 
80.000 
40.000 
30.000 
30.000 
- 
- 
- 
80.000 
425.000 
200.000 
140.000 
150.000 
30.000 
20.000 
30.000 
45.000 
20.000 
70.000 
70.000 
Cộng 900.000 1.200.000 
Nguồn:[4]. 
Ngoài nhân điều là sản phẩm chính có giá trị kinh tế cao còn có dầu hạt điều 
(CNSL – Cashew nut shell liquid) – một sản phẩm tạo ra trong quá trình chế biến hạt 
điều lấy nhân xuất khẩu, chiếm khoảng 18 – 23 % trọng lượng hạt điều, có thành phần 
chính là acid anacardic và cardol. CNSL là một sản phẩm nguyên liệu đa năng, dùng 
cho công nghiệp hóa chất, chế tạo bố thắng, lớp phủ cho các bộ ly hợp, chế tạo các loại 
sơn,vecni, các loại nhựa,…Những nước sản xuất CNSL chủ yếu là Brazil, Ấn Độ, 
Mozambique, Tanzania,… Ngoài ra trái điều còn dùng làm nguyên liệu trong công 
nghiệp chế biến nước giải khát khá phát triển ở một số nước (Brazil, Ấn Độ,…). Gỗ 
điều dùng trong các ngành đồ gỗ mỹ nghệ và nội thất gia đình. Bên cạnh đó, cây điều 
còn có một số tác dụng chữa bệnh được một số nước sử dụng như: giảm đau, lợi tiểu, 
điều trị hen suyễn (Brazil), thuốc sát trùng (Peru),…[3]. 
10 
2.1.6. Sản xuất điều ở Việt Nam 
Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, có khí hậu thuận lợi cho cây điều 
phát triển. Cây điều có thể đã được đưa vào nước ta từ thế kỷ 18 hay sớm hơn 
(Johnson, 1973) [2], nhưng mãi đến đầu những năm 1975, cây điều mới được trồng 
phổ biến để phủ xanh đất trống đồi trọc do bom đạn chiến tranh. Cho đến cuối thập kỷ 
80 của thế kỷ 20 chúng ta mới bắt đầu xuất khẩu nhân điều [3]. Kể từ mốc thời gian đó 
đến nay, phát triển cây điều không phải lúc nào cũng thuận lợi, có những lúc người 
nông dân trồng điều đã phải chặt bỏ hết cả vườn điều để trồng tiêu, cà phê,… do giá 
điều quá thấp và mất mùa liên tục. Tuy nhiên hiện nay ngành trồng điều đã và đang 
phát triển mạnh, đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Năm 2004, cả nước có hơn 
400.000 ha diện tích trồng điều, là năm cho sản lượng cao nhất của ngành điều từ 
trước đến nay, đã xuất khẩu được 107.000 tấn nhân điều, tăng 25 % so với năm 2003, 
giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 425 triệu USD, tăng 40 % so với năm 2003, trong đó 
thị trường Mỹ chiếm 41 %, Trung Quốc 20 %, Úc 10 %, còn lại là các thị trường khác. 
Năm 2004, Việt Nam chính thức trở thành nước xuất khẩu hạt điều đứng hàng thứ 2 
thế giới, vượt qua Ấn Độ, chỉ đứng sau Brazil. Năm 2005, chỉ tiêu của ngành điều là 
sản xuất chế biến khoảng 450.000 tấn điều thô, xuất khẩu 110.000 tấn nhân điều, giá 
trị kim ngạch xuất khẩu đạt từ 430 – 450 triệu USD, phấn đấu hoàn thành kế hoạch 
trồng mới 50.000 ha điều cao sản và đến năm 2010, toàn bộ diện tích điều trên cả nước 
sẽ được thay bằng giống cao sản [4]. 
11 
Bảng2.2. Tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu nhân điều của Việt Nam. 
Năm 
Hạt điều thô (tấn) Xuất khẩu (tấn) Giá trị kim 
ngạch 
(triệu USD) 
Sản xuất 
trong nước 
Nhập khẩu 
Hạt điều 
thô 
Nhân 
điều 
1986 
1987 
1988 
1989 
1990 
1991 
1992 
1993 
1994 
1995 
1996 
1997 
1998 
1999 
2000 
2001 
2002 
1530 
1449 
468 
12.000 
28.000 
31.000 
47.000 
60.000 
90.000 
100.000 
110.000 
140.000 
100.000 
70.000 
135.000 
140.000 
- 
10.000 
20.000 
25.000 
40.000 
- 
- 
- 
300 
11.000 
27.000 
30.000 
40.000 
30.000 
50.000 
- 
- 
33,6 
261 
286 
360 
1.400 
6.000 
9.526 
18.257 
23.791 
33.000 
26.000 
16.000 
30.000 
38.000 
63.000 
14 
23 
29 
49 
75 
90 
110 
133 
117 
100 
150 
135 
214 
12 
Bảng2.3. Thị phần xuất khẩu nhân điều của Việt Nam 3 năm 2000, 2001 và 2002. 
STT Quốc gia và khu vực 2000 (%) 2001 (%) 2002 (%) 
1 
2 
3 
4 
5 
6 
7 
8 
9 
10 
11 
12 
Hoa Kỳ 
Trung Quốc 
Úc 
Anh 
Hà Lan 
Nhật 
Canada 
Hồng Kông 
Đức 
New Zealand 
Đài Loan 
Các nước khác 
18 
32 
17 
8 
8 
3 
3 
3 
2 
1 
1 
1 
24 
28 
18 
7 
10 
2,5 
.2,5 
4 
1 
1 
1 
5 
33,7 
20,3 
10,8 
5,3 
10,9 
2,2 
2,3 
4,8 
1 
1 
1,1 
6,6 
Nguồn: [4]. 
13 
Bảng2.4. Tình hình phát triển sản xuất điều tại Việt Nam dự kiến đến năm 2010. 
ĐVT: ha 
 1997 2005 2010 
Toàn quốc 250.000 340.000 500.000 
Duyên hải Nam Trung Bộ 
Quảng Nam 
Quảng Ngãi 
Bình Định 
Phú Yên 
Khánh Hòa 
Ninh Thuận 
Bình Thuận 
61.000 
4.000 
3.000 
15.000 
8.000 
7.000 
3.000 
21.000 
100.000 
10.000 
10.000 
15.000 
15.000 
15.000 
10.000 
25.000 
180.000 
25.000 
25.000 
25.000 
20.000 
25.000 
20.000 
40.000 
Tây Nguyên 
Kon tum 
Gia Lai 
Đắc Lắc 
Lâm Đồng 
27.000 
500 
10.500 
10.000 
6.000 
60.000 
16.000 
17.000 
15.000 
12.000 
120.000 
25.000 
35.000 
30.000 
30.000 
Đông Nam Bộ 
Đồng Nai 
Bà Rịa – Vũng Tàu 
Bình Dương 
Bình Phước 
Tây Ninh 
Tp. Hồ Chí Minh 
149.000 
35.000 
20.000 
32.000 
50.000 
10.000 
2.000 
170.000 
40.000 
25.000 
28.000 
65.000 
10.000 
2.000 
190.000 
40.000 
30.000 
28.000 
65.000 
25.000 
2.000 
Đồng bằng sông Cửu Long 13.000 10.000 10.000 
Nguồn: [4]. 
Năm 
Vùng/Tỉnh 
14 
2.1.7. Tình hình canh tác cây điều của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu 
Bà Rịa – Vũng Tàu là tỉnh mới thành lập năm 1991, thế mạnh là công nghiệp dầu 
khí và du lịch, ngoài ra còn phát triển mạnh cây công nghiệp như cao su, cà phê, tiêu, 
điều, đem lại nguồn thu nhập khá cao, chủ yếu là cho các huyện của tỉnh. Cũng như 
các địa phương khác, cây điều được trồng ở tỉnh chủ yếu là trồng từ hạt, có độ tuổi 
trung bình cao. Trong những năm gần đây đang phát triển mạnh cây điều cao sản cho 
năng suất cao và ổn định hơn so với các giống điều địa phương. Đất nông nghiệp của 
tỉnh khá màu mỡ, có diện tích đất đỏ bazan lớn, cùng với điều kiện khí hậu khá ổn 
định, nhiệt độ trung bình trong năm là 24oC – 28oC, có mùa khô và mùa mưa phân 
biệt, hệ thống thủy lợi phát triển và rộng khắp,…là những điều kiện thuận lợi cho phát 
triển cây điều. 
Bảng2.5. Sản lượng điều tại tỉnh BR – VT phân theo đơn vị hành chính. 
 ĐVT: tấn 
 1996 2000 2001 2002 2003 
Tổng số 
TP. Vũng Tàu 
TX. Bà Rịa 
H. Tân Thành 
H. Châu Đức 
H. Xuyên Mộc 
H. Long Đất 
H. Côn Đảo 
6.257 
153 
109 
1.630 
1.387 
2.589 
384 
6 
5.102 
48 
73 
413 
742 
3.575 
250 
1 
6.010 
48 
71 
812 
1.272 
3.575 
231 
1 
7.316 
24 
72 
1.462 
1.447 
4.009 
301 
1 
10.417 
28 
143 
1.462 
2.206 
6.138 
440 
1 
(Nguồn: Sở Nông Nghiệp – Phát Tr