Trong những năm gần đây, sản xuất ngô Việt Nam đã thu được những kết quảquan trọng. Theo sốliệu thống kê, năm 2008 diện tích trồng ngô của cả nước đạt khoảng 1096,1 nghìn ha, năng suất đạt 39,6 tạ/ha, sản lượng đạt 4303,2 nghìn tấn (Tạp chí NN & PT NT, Số1, 2008). Diện tích trồng giống lai chiếm trên 90%, So với năm 1990, khi chưa trồng giống lai thì diện tích tăng 3 lần, sản lượng tăng gần 8 lần. Điều này khẳng định, việc chọn tạo các giống ngô lai chúng ta đã đi đúng hướng.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 49 trang
49 trang | 
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1957 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bước đầu nghiên cứu ảnh hưởng của mức độ phân bón đến sự sinh trưởng và năng suất của một số giống ngô nếp lai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Sinh- KTNN 
 Svth: Phạm Văn Ba-k32E 1
PHẦN 1: MỞ ĐẦU 
1.1. Đặt vấn đề. 
Trong những năm gần đây, sản xuất ngô Việt Nam đã thu được những kết 
quả quan trọng. Theo số liệu thống kê, năm 2008 diện tích trồng ngô của 
cả nước đạt khoảng 1096,1 nghìn ha, năng suất đạt 39,6 tạ/ha, sản lượng 
đạt 4303,2 nghìn tấn (Tạp chí NN & PT NT, Số 1, 2008). Diện tích trồng 
giống lai chiếm trên 90%, So với năm 1990, khi chưa trồng giống lai thì 
diện tích tăng 3 lần, sản lượng tăng gần 8 lần. Điều này khẳng định, việc 
chọn tạo các giống ngô lai chúng ta đã đi đúng hướng. 
Đối với các loại ngô thực phẩm, đặc biệt là ngô nếp (Zea mays 
.subsp. Ceratina Kulesh), tuy sản lượng chưa nhiều nhưng nhu cầu sử 
dụng các giống ngô này trong thời gian gần đây đang tăng lên rất nhanh. 
Ở nước ta, ngô nếp ước tính chiếm khoảng 10% diện tích ngô cả nước. 
Chủ yếu là các giống thụ phấn tự do (TPTD), các giống ngô nếp lai được 
sản xuất chưa nhiều. Việc trồng và tiêu thụ ngô nếp chất lượng cao làm 
lương thực, làm quà không chỉ rất phù hợp với tập quán của các dân tộc 
ít người miền núi, đồng bằng mà còn là ở các vùng kinh tế phát triển 
(thành thị). Các giống ngô nếp giúp người sản xuất có thu nhập cao, tận 
dụng thân lá cho chăn nuôi. Trong những năm gần đây thị trường phân 
bón cũng tác động mạnh đến diện tích cũng như thu nhập của người nông 
dân, việc bón phân cho ngô như thế nào để mang lại hiệu quả kinh tế cao 
là điều mà các nhà khoa học và nông dân đều rất quan tâm. Năng suất 
ngô của nước ta chưa cao có phải là do giá phân bón tăng nên nông dân 
không dám đầu tư cho nông nghiệp, do đó ngô thiếu phân nên năng suất 
kém hay do bón không đúng lúc, đúng cách, tỷ lệ không phù hợp. Muốn 
phát huy được hiệu quả phân bón cần phải biết được trên đất có thành 
phần như thế nào, quan hệ giữa phân và nước, giữa phân và đất, phân và 
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Sinh- KTNN 
 Svth: Phạm Văn Ba-k32E 2
giống, giữa phân và chế độ canh tác, mật độ gieo trồng. Trên cơ sở đó 
Chúng tôi tiến hành đề tài “Bước đầu nghiên cứu ảnh hưởng của mức độ 
phân bón đến sự sinh trưởng và năn suất của một số giống ngô nếp lai”. 
1.2. Mục đích, yêu cầu của đề tài. 
1.2.1. Mục đích. 
- Đánh giá được ảnh hưởng của các mức phân bón đến sự sinh trưởng và 
năng suất của một số giống ngô nếp lai mới. 
- Xác định được mức phân bón phù hợp với đặc điểm đất đai và điều kiện 
canh tác của địa phương. 
1.2.2. Yêu Cầu. 
- Đánh giá giá một số đặc điểm, sinh trưởng, phát triển, các yếu tố cấu 
thành năng suất, năng suất của một số giống ngô nếp lai. 
- Đánh giá khả năng chống chịu của các giống theo phương pháp chuẩn. 
1.3. Ý nghĩa khoa học, ý nghĩa thực tiễn. 
1.3.1. Ý nghĩa khoa học. 
 Theo dõi đánh giá sự ảnh hưởng của các mức phân bón đến sự sinh 
trưởng, phát triển của các giống ngô nếp, là một khâu quan trọng trong việc đề 
ra những yêu cầu kỹ thuật đối với những giống ngô nếp lai mới. 
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn. 
 Thông qua đánh giá một số đặc tính sinh trưởng, phát triển của giống ngô 
nếp lai mới có thể xác định được mức phân bón phù hợp, giống có đặc tính tốt, 
năng suất cao để giới thiệu cho sản xuất. 
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Sinh- KTNN 
 Svth: Phạm Văn Ba-k32E 3
PHẦN 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 
2.1. Tình hình nghiên cứu và sản xuất ngô trên thế giới và Việt Nam. 
 Trong nhiều thập kỷ qua các nhà khoa học trên thế giới đã thành 
công trong nghiên cứu, khai thác tiềm năng của cây ngô. Chính vì vậy ngô 
phát triển không ngừng về năng suất, diện tích và sản lượng. Theo thống 
kê năm 2007 ta có bảng 2.1 thể hiện diện tích, năng suất, sản lượng ngô, 
lúa mì, lúa nước thế giới giai đoạn 1961-2007 
Bảng 2.1. Diện tích, năng suất, sản lượng ngô, lúa mì, lúa nước thế giới giai 
đoạn 1961-2007 
NGÔ LÚA MÌ LÚA NƯỚC 
Năm D. tích 
N. suất 
S. Lượng 
D. tích N. suất 
S. Lượng 
D. tích N. suất 
S. Lượng 
1961 104,8 2,0 204,2 200,9 1,1 219,2 115,3 1,9 215,3 
2004/05 145,0 4,9 714,8 217,2 2,9 625,1 150,6 4,0 595,8 
2005/06 145,6 4,8 696,3 218,5 2,8 621,5 152,6 4,1 622,1 
2006/07 148,6 4,7 704,2 212,3 2,8 593,2 153,0 4,1 622,2 
2007/08 157,0 4,9 766,2 217,2 2,8 603,6 153,7 4,1 626,7 
 (Diện tích: Triệu ha, Năng suất: Tấn/ha, Sản lượng: Triệu tấn) 
Vào năm 1961, năng suất ngô trung bình của thế giới chưa đến 20 tạ/ha, năm 
2004 đã đạt 49,9 tạ/ha. Năm 2007, diện tích ngô đã vượt qua lúa nước (153,7 triệu 
ha) với 157 triệu ha, năng suất 4,9 tấn/ha và sản lượng đạt kỷ lục với 766,2 triệu tấn 
(FAOSTAT, USDA 2008). Điều này đã chứng minh ngô là cây trồng có tốc độ 
tăng trưởng về năng suất cao nhất trong các cây lương thực chủ yếu đồng thời thể 
hiện vị trí quan trọng của cây ngô trong nền kinh tế thế giới. 
Có được kết quả như vậy trước hết là nhờ việc ứng dụng rộng rãi 
thuyết ưu thế lai trong chọn tạo giống cây trồng, mà cây ngô được đánh giá 
là cây trồng thành công nhất trong việc ứng dụng ưu thế lai trong Nông 
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Sinh- KTNN 
 Svth: Phạm Văn Ba-k32E 4
Nghiệp. Tiếp đó là không ngừng cải thiện các biện pháp kỹ thuật canh tác 
như: tăng mật độ, làm đất tối thiểu, bón phân hợp lý... điều này cũng góp 
một phần trong việc tăng năng suất cây ngô. 
Đặc biệt thời gian gần đây, cùng với việc ứng dụng thành công hiện tượng ưu 
thế lai vào chọn tạo giống theo phương pháp truyền thống thì việc ứng dụng công 
nghệ sinh học trong chọn tạo giống cây trồng cũng được triển khai và đạt được những 
kết quả quan trọng như: sử dụng chỉ thị phân tử phân tích đa dạng di truyền phân 
nhóm ưu thế lai, tạo giống chịu hạn, chuyển gen chống chịu vào các dòng thuần có 
khả năng kết hợp cao.... Đó là cơ sở tạo ra những giống tốt góp phần tăng nhanh năng 
suất ngô trên thế giới. 
Việc ứng dụng công nghệ gen được phát triển mạnh từ đầu những năm 
90 và hiện nay vẫn đang tăng mạnh. Năm 2004 có 81 triệu ha cây trồng biến 
đổi gen, trong đó ngô kháng sâu đục thân và kháng thuốc trừ cỏ có 19,3 triệu 
ha (chiếm 24%). Diện tích trồng ngô chuyển gen lớn nhất ở nước Mỹ, năm 
2005 diện tích được trồng bằng giống được tạo ra bằng công nghệ sinh học 
chiếm 52%, năng suất ngô nước Mỹ đạt hơn 10 tấn/ha trên diện tích 30 triệu 
ha. Năm 2007, diện tích trồng ngô chuyển gen trên thế giới đã đạt 35,5 triệu 
ha, riêng ở Mỹ đã lên đến 29 triệu ha, chiếm 77% trong tổng số hơn 37,9 triệu 
ha ngô của nước này (GMO.COMPAS,2007). 
Có thể nói, nghiên cứu và sử dụng ngô lai thì Mỹ là một trong những nước 
thành công nhất. Các nhà di truyền cải lương giống đã sớm thành công trong việc 
chọn lọc và lai tạo giống ngô. Theo E.Rinke (1979), việc sử dụng giống ngô lai ở Mỹ 
bắt đầu từ năm 1930, đến năm 1957 chủ yếu sử dụng giống lai ba và lai kép sau đó 
giống lai đơn cải tiến và lai đơn được tạo ra và sử dụng chiếm 80-85% tổng số giống 
lai, trong đó hơn 90% lai đơn. 
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Sinh- KTNN 
 Svth: Phạm Văn Ba-k32E 5
Bảng 2.2. Diện tích, năng suất và sản lượng ngô một số nước trên thế giới giai 
đoạn 2006 -2008 
Diện tích (triệu ha) Năng suất (tấn/ha) Sản lượng(triệu Nước 
2006/2007 2007/2008 2006/2007 2007/2008 2006/2007 2007/2008 
Thế giới 148,64 156,96 4,74 4,88 704,17 766,23 
Mỹ 28,59 35,02 9,36 9,48 267,60 332,09 
Trung Quốc 26,97 28,0 5,39 5,18 145.48 145,0 
Brazil 14,0 14, 3,64 3,57 51,00 50,0 
Ấn Độ 8,3 8,6 1,8 1,9 14,98 16,3 
Indonesia 3,3 3,4 2,03 2,06 6,7 7,0 
Philippin 2,64 2,65 2,36 2,3 6,23 6,1 
Việt Nam 1,15 1,2 3,75 3,8 4,31 4,56 
Thái Lan 1,0 1,0 3,8 3,85 3,8 3,85 
(Nguồn: FAOSTAT, USDA) 
(Diện tích: Triệu ha,Năng suất: Tấn/ha,Sản lượng: Triệu tấn) 
0
100
200
300
400
500
600
700
800
900
19
61
19
65
19
70
19
75
19
80
19
85
19
90
19
95
20
00
20
05
20
07
Năm
Sả
n 
lư
ợn
g 
- D
iệ
n 
tíc
h
0
10
20
30
40
50
60
N
ăn
g 
su
ất
DT
(1000ha)
SL
(1000tấn)
NS
(tạ/Ha)
Hình 2.1: Tình hình sản xuất ngô thế giới giai đoạn 1961-2007 
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Sinh- KTNN 
 Svth: Phạm Văn Ba-k32E 6
Trung Quốc là nước có diện tích ngô đứng thứ 2 thế giới và là quốc gia 
sản xuất ngô lai số một Châu Á, với diện tích năm 2007 là 26,97 triệu ha trong 
đó hơn 90% diện tích trồng bằng giống ngô lai. Năng suất ngô bình quân của 
Trung Quốc đã tăng từ 5,09 tấn/ha, năm 2006/2007 lên 5,18 tấn/ha năm 
2007/2008. Ở khu vực Đông Nam Á, Thái Lan là một trong những nước đầu tư 
đáng kể cho chương trình sản xuất ngô khá sớm, song gần đây đã chững lại. 
Nghiên cứu và sử dụng giống ngô lai ở một số nước đang phát triển bắt 
đầu từ những năm 1960 như Achentina, Braxin, Colombia, Mehico, Ấn 
Độ…Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế xã hội và yếu tố môi trường, diện tích đất 
canh tác phần lớn dựa vào nước trời, đất đai nghèo dinh dưỡng, xói mòn thường 
xuyên, sâu bệnh…nên phát triển ngô ở đây còn chậm. Mặc dù, diện tích ngô của 
những nước này chiếm 68% diện tích ngô toàn cầu nhưng chỉ đạt 46% tổng sản 
lượng ngô thế giới (CIMMYT, 2001), (Lê Quý Kha, 2006). 
Công tác nghiên cứu lai tạo giống ngô hiện nay đang có bước chuyển biến 
mới, đó là ứng dụng công nghệ sinh học trong chọn tạo dòng thuần. Trong 
những năm gần đây việc nghiên cưú tạo ra những dòng đơn bội kép (Double 
Halploid – DH), dòng thuần về mặt di truyền (Chomozygous lines) bằng nuôi cấy 
invitro đã giúp cho công việc tạo ra các dòng thuần một cách nhanh chóng, tiết 
kiệm được hơn nửa thời gian so với việc tạo dòng bằng phương pháp thông 
thường (Ngô Hữu Tình và cs, 1999)[10]. 
Theo Ngô Hữu Tình thì 21% sản lượng ngô thế giới được dùng làm lương 
thực, 71% được dùng làm thức ăn chăn nuôi. Ở các nước phát triển phần lớn sản 
lượng ngô được dùng cho chăn nuôi: Thái Lan 96%, Bồ Đào Nha 91%, Mỹ 
76%, Trung Quốc 76%... 
Trong những năm gần đây ngành công nghiệp chế biến nhiên liệu ethanol 
đang phát triển rất mạnh và ngô được coi là nguồn nguyên liệu quan trọng để 
sản xuất ethanol đang có xu hướng tăng. Theo Bộ Nông nghiệp Mỹ năm 2005-
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Sinh- KTNN 
 Svth: Phạm Văn Ba-k32E 7
2006 dùng 40,6 triệu tấn, năm 2006-2007 sử dụng 50,4 triệu tấn, dự tính năm 
2007-2008 sử dụng 81,3 triệu tấn và dự báo đến năm 2012 sẽ dùng khoảng 
190,2 triệu tấn cho việc chế biến ethanol (FASTAT, 2008). Như vậy nhu cầu 
tiêu thụ ngô trên thế giới đang tăng với tốc độ khá cao, điều này sẽ ảnh hưởng 
không nhỏ đến lượng ngô xuất khẩu và nhu cầu lương thực của thế giới. 
2.1.2. Tình hình nghiên cứu và sản xuất ngô ở Việt Nam. 
Cây ngô được đưa vào Việt Nam từ cuối thế kỷ 17 (Ngô Hữu Tình và cs, 
1999) và đã trở thành cây lương thực quan trọng thứ 2 sau lúa nước. Song với kỹ 
thuật canh tác lạc hậu và chủ yếu trồng các giống ngô địa phương, năng suất thấp 
nên đến những năm 1980 vẫn chỉ đạt khoảng 1 tấn/ha. 
Từ giữa những năm 1980 thông qua sự hợp tác với Trung tâm cải lương Lúa 
Mỳ Quốc tế (CIMMYT) nhiều giống ngô cải tiến đã được trồng ở nước ta như 
VM1, HSB1, TH2A …đã đưa năng suất trung bình của nước ta lên 1,5tạ/ha vào 
đầu những năm 1990. Ngành sản xuất ngô nước ta thực sự có những bước đột phá 
khi chương trình phát triển giống lai thành công. Sau những thành công trong việc 
chọn tạo các giống lai không quy ước như LS-3, LS-5, LS-6, LS-7…Các giống này 
có năng suất 3-7 tấn/ha đã được mở rộng nhanh chóng trên phạm vi toàn quốc. 
 Tiếp đến là những thành công trong công tác nghiên cứu giống lai quy ước, 
trong một thời gian ngắn các nhà nghiên cứu ngô Việt nam đã tạo ra hàng loạt các 
giống tốt cho năng suất cao từ 7-10 tấn/ha như: LVN10. LVN4, LVN17, LVN25, 
LVN99…Các giống này không thua kém các giống của công ty giống nước ngoài 
về cả năng suất và chất lượng. 
 Theo ước tính năm 1991 diện tích trồng giống ngô lai chưa đến 1% trên hơn 
400 nghìn ha trồng ngô, đến năm 2007 giống lai đã chiếm khoảng 95% trong số hơn 
1 triệu ha. Năm 1994 sản lượng ngô Việt nam vượt ngưỡng 1 triệu tấn, năm 2000 
vượt ngưỡng 2 triệu tấn, năm 2007 có diện tích, năng suất và sản lượng cao nhất từ 
trước tới nay: Diện tích 1072.800, năng suất 39.6 tạ/ha, sản lượng vượt ngưỡng 
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Sinh- KTNN 
 Svth: Phạm Văn Ba-k32E 8
4 triệu tấn. Đây là một tốc độ nhanh trong lịch sử phát triển ngô lai và Châu Á góp 
phần đưa nghề trồng ngô của nước ta đứng trong hàng ngũ những nước tiên tiến về 
sản suất ngô lai ở Châu Á (bảng 2.3, hình 2.2). 
Bảng 2.3. Tình hình sản xuất ngô Việt Nam giai đoạn 1961 – 2007 
Năm 1961 1975 1990 1994 2000 2005 2007 
Diện tích (1000 ha) 229,20 267,0 432,0 534,6 730,2 1052,6 1072,8
Sản lượng (1000 tấn) 260,10 280,60 671,0 1143,9 2005,9 3787,1 4250,9
Năng suất (tạ/ha) 11,4 10,5 15,5 21,4 25,1 36,0 39,6 
 Nguồn: Tổng cục thống kê (đến 2005), Bộ NN&PTNT (2007) 
0
500
1000
1500
2000
2500
3000
3500
4000
4500
19
61
19
65
19
70
19
75
19
80
19
85
19
90
19
95
20
00
20
05
20
07
Năm
D
T 
- S
ản
 lư
ợn
g
0.0
5.0
10.0
15.0
20.0
25.0
30.0
35.0
40.0
45.0
N
ăn
g 
su
ất
Diện tích
(1000ha)
Sản lượng
(1000 tấn)
Năng suất
(tạ/ha)
Hình 2.2. Tình hình sản xuất ngô Việt Nam giai đoại 1961-2007 
Năm 1961, năng suất ngô nước ta bằng 58% trung bình thế giới (11,2 / 19,4 
tạ/ha). Nhưng 20 năm sau đó, trong khi năng suất ngô thế giới tăng liên tục thì năng 
suất của ta lại giảm, và vào năm 1979 chỉ còn bằng 29% so với trung bình thế giới 
(9,9/33,9 tạ/ha). 
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Sinh- KTNN 
 Svth: Phạm Văn Ba-k32E 9
Tuy nhiên, từ năm 1980 đến nay, năng suất ngô nước ta tăng nhanh liên tục với 
tốc độ cao hơn trung bình thế giới. Năm 1980, bằng 34% so với trung bình thế giới 
(11/32 tạ/ha); năm 1990 bằng 42% (15,5/37 tạ/ha); năm 2000 bằng 60% (25/42 tạ/ha); 
năm 2005 bằng 73% (36/49 tạ/ha) và năm 2007 đã đạt 81,0% (39,6/49 tạ/ha) 
Hiện nay thị phần giống ngô lai của Việt Nam chiếm khoảng 60%, chủ yếu là 
giống ngô lai đơn, áp dụng vào sản xuất ở tất cả các vùng sinh thái trong cả nước. Các 
giống dài ngày như: LVN10, HQ2000, LVN98,…Các giống trung ngày: LVN4, LVN12, 
LVN17, VN8960,…Các giống ngắn ngày: LVN9, LVN20, LVN24, LVN25, LVN99, 
VN98-1, LVN145, LVN885, LVN23 (ngô rau)…(Nguyễn Thị Nhài, 2005) [7]. 
Công nghệ sinh học là một ngành mới được áp dụng ở Việt Nam nhưng bước 
đầu đã đạt được những thành công. Từ năm 1995, Viện Di Truyền nông nghiệp đã 
có các nghiên cứu về đơn bội ngô, tiếp đó kỹ thuật nuôi cấy bao phấn ở Viên Nghiên 
cứu Ngô đã ngày càng hoàn thiện và chọn ra hơn 10 dòng đơn bội kép bước đầu 
đánh giá là rất triển vọng. Phương pháp này cho kết quả ổn định và có hiệu quả. 
Phần lớn các dòng thuần ở Viện Nghiên Cứu Ngô đã được phân nhóm ưu thế lai 
giúp định hướng chọn tạo giống lai có hiệu quả nhanh. 
Những kết quả trên đã đóng góp rất lớn trong việc tăng năng suất và sản lượng 
ngô Việt Nam trong 20 năm qua. Tuy vậy sản xuất ngô nước ta vẫn còn nhiều vấn đề 
đặt ra: Năng suất ngô của nước ta vẫn thấp so với trung bình của thế giới (khoảng 
81%); Năng suất thực tế thấp hơn nhiều so với năng suất tiềm năng; Giá thành sản 
xuất ngô ở nhiều vùng vẫn còn cao (xấp xỉ 300USD/tấn ngô vàng, trong khi tại Mỹ 
150,6USD/tấn); Bộ giống ngắn ngày, chống chịu tốt chưa nhiều, các giống ngô đường 
và nếp lai chưa có; Công nghệ bảo quản và chế biến ngô chưa phát triển…; Đặc biệt 
sản lượng ngô chưa đáp ứng đủ nhu cầu trong nước đang tăng rất nhanh (năm 2006 
nhập 564.488 tấn, năm 2007 nhập 612.832 tấn ngô) (Tổng cục thống kê) [15]. 
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Sinh- KTNN 
 Svth: Phạm Văn Ba-k32E 10
Như vậy để sản xuất ngô Việt Nam theo kịp các nước tiên tiến và đạt năng 
suất trung bình của thế giới, việc quan trọng nhất là tăng cường thu thập các nguồn 
nguyên liệu phù hợp, chọn tạo các giống chống chịu phục vụ cho các vùng khó 
khăn, chọn tạo các giống ngô thực phẩm có năng suất và chất lượng cao, kết hợp 
chọn tạo giống bằng các phương pháp hiện đại với truyền thống, đẩy mạnh nghiên 
cứu các biện pháp kỹ thuật canh tác để phất huy tối đa tiềm năng của giống và bảo 
vệ môi trường sinh thái. 
2.2. Nguồn gốc phân loại và đặc tính cây ngô nếp. 
Những nghiên cứu gần đây đã có những phát hiện về nguồn gốc cây ngô 
như Rong-lin wang, Adrian Stec, Jody Hey, Lewis Lukens & John Doebly,1999 
cho rằng ngô được thuần hóa từ loài cỏ mexican hoang dại teosinte (Zea mays 
ssp. Parviglumis hoặc ssp mexicana). Những bằng chứng khảo cổ học chứng 
minh rằng thời gian thuần hóa ngô vào khoảng 5000 đến 10.000 năm trước đây, 
mặc dù nguồn gốc gần đây của ngô từ teosinte, những cây này khác biệt sâu sắc 
về hình thái. Một điểm khác biệt chủ yếu là teosinte điển hình có nhánh cờ dài 
trên đỉnh bông cờ trong khi ngô có nhánh đỉnh cờ ngắn bằng bắp. Phân tích di 
truyền nhận thấy rằng teosinte branched 1(tb1) như là một gen tương hợp rộng 
điều khiển sự khác biệt này. 
Porcher Michel H và công sự cho biết ngô nếp đã được phát hiện ở Trung 
Quốc từ năm 1909. Cây này biểu hiện những tính trạng khác thường các nhà tạo 
giống ở Mỹ một thời gian dài sử dụng các tính trạng này là chỉ thị những gen ẩn 
trong các chương trình chọn tạo giống ngô. Năm 1922 các nhà nghiên cứu đã 
phát hiện nội nhũ của ngô nếp chỉ chứa amylopectin và không có amylose ngược 
lại trong ngô thường có chứa cả hai. Đến tận đại chiến thế giới thứ II nguồn 
amylopectin chính là từ sắn nhưng khi người Nhật cung cấp các dòng ngô nếp 
thì amylopectin được sử dụng chủ yếu từ ngô nếp. 
Có giả thuyết cho rằng ngô nếp có nguồn gốc ở Đông Nam Á mà Trung 
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Sinh- KTNN 
 Svth: Phạm Văn Ba-k32E 11
Quốc, Miến Điện, Philipin là quê hương đầu tiên của nó. Nhưng sau đó người ta thấy 
rằng đó là kết quả của một đột biến thông thường của các giống ngô răng ngựa biểu 
hiện gen Wx xảy ra đột biến trong điều kiện trồng trọt không bình thường tạo thành 
gen lặn wx, chúng có thể xuất hiện ở các vùng khác nhau trên trái đất (Grebense 
1954, dẫn theo Nguyễn Thị Lâm, 1997) [7]. 
Ngô là cây lương thực (Zea mays ssp.) được sử dụng nhiều hình thức với 
một số nhóm chính quan trong là: 
- Ngô bột - Zea mays subsp. Amylacea sturt 
- Ngô nổ Zea mays subsp. Everta sturt 
- Ngô răng ngựa - Zea mays subsp. Indentata sturt 
- Ngô đá - Zea mays subsp Indurata sturt 
- Ngô đường- Zea mays subsp. Saccharata sturt 
- Ngô nếp - Zea mays ceratina Kuleshov 
- Ngô vỏ - Zea mays var. tunicata Larranxaga ex A. St. Hil 
Ngô nếp (Zea mays subsp.Ceratina Kulesh) là một trong những loài phụ 
chính của loài Zea mays Ngô nếp là một dạng của ngô tẻ do biến đổi tinh bột mà 
thành. Tinh bột của ngô nếp chứa gần như 100% amilopectin, ngô thường chỉ chứa 
75% amilopectin và 25% amiloza. Amilopectin là dạng tinh bột có cấu trúc phân tử 
gluco phân nhánh dựa trên liên kết α.1-4 và α.1-6, ngược lại amiloza có cấu trúc 
phân tử gluco không phân nhánh. Khi cho tinh bột ngô nếp vào dung dịch 
Iotuakali (KI) thì nó chuyển sang màu cà phê đỏ, còn tinh bột của của ngô 
thường thì chuyển sang màu xanh tím. 
Đặc tính của ngô nếp được quy định bởi gen đơn lặn wx, trên vị trí của 
nhiễm sắc thể số 9 mã hóa tổng hợp tinh bột của hạt, gen này lấn át gen khác để 
tạo tinh bột dạng nhỏ. Do vậy, hạt ngô nếp cũng giàu lyzin, triptophan và 
protein. Chúng ta có thể sử dụng dung dịch KI nhuộm hạt phấn để xác định hiệu 
quả của việc chuyển gen wx vào ngô thường. 
Khóa luận tốt nghiệp Khoa Sinh- KTNN 
 Svth: Phạm Văn Ba-k32E 12
Theo Jame L.Brewbaker (Brewbaker, 1998), quá trình chọn lọc tự nhiên đã xảy 
ra những đột biến .Trong đó có đột biến 2 là waxy 1 (tinh bột của hạt có cấu tạo bởi 
amilopectin) ở Châu Á, từ đột biến này chọn lọc ra được những giống có vỏ mềm. 
Tuy vậy, việc trồng ngô nếp không đơn giản như trồng ngô tẻ. Trong những 
năm gần đây khi nghiên cứu về đặc điểm nông học và kỹ thuật canh tác của ngô nếp 
Trường Đại học Pennsylvania State University nghiên cứu kỹ thuật trồng ngô 
nếp cho rằng: trồng ngô có tinh bột hoàn toàn là không dễ dàng vì gen sáp là lặn, 
như vậy ngô nếp phải cách ly với ngô thường ít nhất 200m. Nếu trồng lẫn một 
số cây ngô thường trên khu ruộng hoặc khu sản xuất có thể làm thay đổi ngay cả 
có cách ly tốt và trong chọn lọc hạt gieo cũn