Là một trong những quốc gia đang phát triển với hàng loạt những ưu tiên cho phát triển kinh tế, Việt Nam không tránh khỏi những mâu thuẫn mà các quốc gia khác thường gặp phải, đó là những vấn đề môi trường nảy sinh khi các chỉ số kinh tế tăng vọt. Cùng với sự phát triển về kinh tế đó là vấn đề sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên không hợp lý gây ô nhiễm môi trường. Hiện nay, ở Việt Nam hầu như tất cả các thành phố có hoạt động công nghiệp phát triển đều đang trong tình trạng ô nhiễm trầm trọng. Trước tình trạng đáng báo động đó thì việc tìm giải pháp, hướng đi phù hợp và mang lại hiệu quả cho công tác bảo vệ môi trường là thực sự cần thiết.
Một trong những hình thức quản lý môi trường thu được hiệu quả cao là quản lý môi trường dựa vào cộng đồng (Community – Based Environment Manager – CBEM). Mô hình này là một phương tiện cho người dân trong cộng đồng tham gia vào quá trình ra quyết định. Quá trình này đưa ra một giới hạn đầy đủ về các bên tham gia, từ đó phá vỡ những rào cản giữa các bên liên quan và đưa ra những mục tiêu rõ ràng, tạo cơ hội cho cộng đồng tham gia vào quá trình quản lý và xác lập khả năng tự trị. Do đó, đây là một cơ chế quan trọng cho sự tham gia từ đó tạo hiệu quả cao trong việc xây dựng năng lực quản lý của chính quyền địa phương.
Hiện nay, mô hình quản lý này đã và đang được áp dụng ở nhiều vùng khác nhau trên thế giới. Các mô hình này qua thực tế đã thể hiện nhiều ưu điểm mà công tác quản lý nhà nước không đạt được. Mô hình quản lý môi trường dựa vào cộng đồng được áp dụng vào nhiều lĩnh vực khác nhau, như các mô hình quản lý bảo tồn, mô hình thu gom rác tại các phường, xã.
Ở Việt Nam, mô hình người dân tham gia vào hoạt động quản lý môi trường không phải là hiếm thấy nhưng mô hình quản lý môi trường dựa vào cộng đồng theo đúng nghĩa của nó thì không nhiều. Cần thiết có sự nghiên cứu, tìm hiểu những hình thức mà người dân tham gia vào quản lý môi trường ở nước ta và thực trạng áp dụng hình thức quản lý này.
Mô hình quản lý môi trường dựa vào cộng đồng nhằm bảo vệ loài Voọc đầu trắng ở Vườn quốc gia Cát Bà là một mô hình tiêu biểu, điển hình cho hình thức quản lý này. Mô hình này đang được áp dụng ở Vườn quốc gia Cát Bà và đang tỏ ra là rất hiệu quả và có nhiều ưu việt, xứng đáng được nghiên cứu xem xét để các vùng khác học tập kinh nghiệm, và quảng bá rộng dãi.
Vì vậy trong khuôn khổ của luận văn em quyết định lựa chọn đề tài “Bước đầu nghiên cứu mô hình quản lý bảo tồn loài Voọc dựa vào cộng đồng ở Vườn quốc gia Cát Bà”
82 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1380 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bước đầu nghiên cứu mô hình quản lý bảo tồn loài Voọc dựa vào cộng đồng ở Vườn quốc gia Cát Bà, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Là một trong những quốc gia đang phát triển với hàng loạt những ưu tiên cho phát triển kinh tế, Việt Nam không tránh khỏi những mâu thuẫn mà các quốc gia khác thường gặp phải, đó là những vấn đề môi trường nảy sinh khi các chỉ số kinh tế tăng vọt. Cùng với sự phát triển về kinh tế đó là vấn đề sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên không hợp lý gây ô nhiễm môi trường. Hiện nay, ở Việt Nam hầu như tất cả các thành phố có hoạt động công nghiệp phát triển đều đang trong tình trạng ô nhiễm trầm trọng. Trước tình trạng đáng báo động đó thì việc tìm giải pháp, hướng đi phù hợp và mang lại hiệu quả cho công tác bảo vệ môi trường là thực sự cần thiết.
Một trong những hình thức quản lý môi trường thu được hiệu quả cao là quản lý môi trường dựa vào cộng đồng (Community – Based Environment Manager – CBEM). Mô hình này là một phương tiện cho người dân trong cộng đồng tham gia vào quá trình ra quyết định. Quá trình này đưa ra một giới hạn đầy đủ về các bên tham gia, từ đó phá vỡ những rào cản giữa các bên liên quan và đưa ra những mục tiêu rõ ràng, tạo cơ hội cho cộng đồng tham gia vào quá trình quản lý và xác lập khả năng tự trị. Do đó, đây là một cơ chế quan trọng cho sự tham gia từ đó tạo hiệu quả cao trong việc xây dựng năng lực quản lý của chính quyền địa phương.
Hiện nay, mô hình quản lý này đã và đang được áp dụng ở nhiều vùng khác nhau trên thế giới. Các mô hình này qua thực tế đã thể hiện nhiều ưu điểm mà công tác quản lý nhà nước không đạt được. Mô hình quản lý môi trường dựa vào cộng đồng được áp dụng vào nhiều lĩnh vực khác nhau, như các mô hình quản lý bảo tồn, mô hình thu gom rác tại các phường, xã...
Ở Việt Nam, mô hình người dân tham gia vào hoạt động quản lý môi trường không phải là hiếm thấy nhưng mô hình quản lý môi trường dựa vào cộng đồng theo đúng nghĩa của nó thì không nhiều. Cần thiết có sự nghiên cứu, tìm hiểu những hình thức mà người dân tham gia vào quản lý môi trường ở nước ta và thực trạng áp dụng hình thức quản lý này.
Mô hình quản lý môi trường dựa vào cộng đồng nhằm bảo vệ loài Voọc đầu trắng ở Vườn quốc gia Cát Bà là một mô hình tiêu biểu, điển hình cho hình thức quản lý này. Mô hình này đang được áp dụng ở Vườn quốc gia Cát Bà và đang tỏ ra là rất hiệu quả và có nhiều ưu việt, xứng đáng được nghiên cứu xem xét để các vùng khác học tập kinh nghiệm, và quảng bá rộng dãi.
Vì vậy trong khuôn khổ của luận văn em quyết định lựa chọn đề tài “Bước đầu nghiên cứu mô hình quản lý bảo tồn loài Voọc dựa vào cộng đồng ở Vườn quốc gia Cát Bà”
2. Mục tiêu nghiên cứu.
Trên cơ sở nghiên cứu đề tài này nhằm hướng tới các mục tiêu sau:
- Đưa ra cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quản lý dựa vào cộng đồng
- Nghiên cứu và phân tích, mô hình quản lý bảo tồn loài Voọc đầu trắng dựa vào người dân ở Vườn quốc gia Cát Bà.
- Đánh giá những thành tựu, những tồn tại, khó khăn thuận lợi mà mô hình gặp phải và đề xuất một số kiến nghị giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của mô hình.
3. ` Phương pháp nghiên cứu.
-Tổng hợp tài liệu, số liệu, phân tích , đánh giá.
- Khảo sát thực địa.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
- Về không gian địa điểm nghiên cứu: Vườn quốc gia Cát Bà bao gồm cả vùng lõi và vùng đệm, thời điểm nghiên cứu là năm 2006.
5. Nội dung nghiên cứu.
Chương I: Cơ sở lý luận về quản lý môi trường dựa vào cộng đồng và thực trạng quản lý môi trường dựa vào cộng đồng ở Việt Nam.
Chương II: Nghiên cứu mô hình quản lý dựa vào cộng đồng nhằm bảo tồn loài Voọc đầu trắng ở Vườn quốc gia Cát Bà.
Chương III: Đánh giá hiệu quả hoạt động của mô hình, những thuận lợi, khó khăn và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động.
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG VÀ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ
MÔI TRƯỜNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG Ở VIỆT NAM.
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG.
1.1.1 Một số khái niệm.
* Khái niệm về tài nguyên sở hữu chung
Tài nguyên sở hữu chung là tài nguyên được quản lý và sử dụng bởi một nhóm người (không phải một người). Để quản lý tài nguyên này thì nhóm người quản lý phải đặt ra các luật lệ và giám sát thực hiện các luật lệ này.
Đối với tài nguyên sở hữu chung vấn đề luật lệ là rất quan trọng. Bởi vì khi dân số phát triển hay các yếu tố về luật bị phá vỡ thì hệ thống khác sẽ không vận hành hiệu quả nữa và chuyển sang một dạng tài nguyên khác được gọi là tài nguyên tự do tiếp cận. Khi đó việc sử dụng tài nguyên này không bị loại trừ và có tính cạnh tranh là cho việc khai thác tài nguyên không bị ràng buộc, mạnh ai người ấy khai thác, khai thác cho tới khi không thể khai thác được nữa thì thôi.
* Khái niệm cộng đồng.
Có nhiều khái niệm khác nhau về cộng đồng thông thường, cộng đồng được hiểu là tập hợp những người có chung lịch sử hình thành, có chung địa bàn sinh sống, có cùng luật lệ và quy định hay tập hợp những người có cùng những đặc điểm tương tự về kinh tế- xã hội và văn hoá.
Cũng có khái niệm khác, cộng đồng là một nhóm người có chung sở thích và lợi ích, có chung địa bàn sinh sống, có chung ngôn ngữ (hoặc loại ngôn ngữ) và có những đặc điểm tương đồng.
Tuỳ theo lịch sử hình thành hay đặc điểm của cộng đồng, có các loại cộng đồng sau:
- Cộng đồng người địa phương, là những người có quan hệ gần gũi với nhau, thường xuyên gặp mặt ở địa bàn sinh sống.
- Cộng đồng những người có chung quan tâm đặc điểm, tính chất (cộng đồng các nhà nghiên cứu khoa học, cộng đồng doanh nhân...)
- Cộng đồng những người có chung những quan tâm đặc điểm, tính chất, màu da (cộng đồng người dân tộc thiểu số, cộng đồng người da màu...)
- Cộng đồng có quan niệm chung về các vấn đề quan hệ xã hội, có chung mục tiêu, quan điểm chung về giá trị, cùng tham gia vào quá trình ra quyết định (cộng đồng ASEAN, các nước Pháp ngữ...)
* Khái niệm sự tham gia của cộng đồng.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về sự tham gia của cộng đồng. Nhưng theo tổ chức phát triển quốc tế Canada quan niệm :
Tham gia cộng đồng là thu hút các nhóm đối tượng mục tiêu vào các khâu của chu trình dự án từ thiết kế, thực hiện và đánh giá dự án với mục tiêu nhằm xây dựng năng lực của người nghèo để duy trì được cơ sở hạ tầng và kết quả mà dự án đã tạo ra được trong quá trình thực hiện, và tiếp tục phát triển sau khi tổ chức hay cơ quan tài trợ rút khơi dự án . Cách tiếp cận này đựơc sử dụng khá phổ biến trong các lĩnh vực, các dự án trên thế giới.
Trước những năm 80, các hoạt động, chương trình có mục tiêu phục vụ cộng đồng đều được đề xuất, xây dựng và tổ chức thực hiện từ cơ quan trung ương. Thời kì này người ta mới khuyến khích sự tham gia của các ngành vào các chương trình, hành động. Sự hiện diện của cộng đồng là rất ít. Vì thề tính bền vững của chương trình hay hoạt động không được đảm bảo. Cách tiếp cận sự tham gia của cộng đồng được phát triển mạnh mẽ vào những năm 80-90 của thế kỷ 20, đặc biệt là áp dụng cho các chương trình của tổ chức Phi chính phủ, chương trình thí điểm liên quan nhiều đến cộng đồng như phát triển đô thị và nông thôn, xoá đói, giảm nghèo, phát triển nông nghiệp và nông thôn, chương trình bảo vệ môi trường...Cách tiếp cận phát triển định hướng vào cộng đồng hay còn gọi là phát triển dựa trên cộng đồng được áp dụng phổ biến từ năm 2000. Các chương trình, dự án phát triển định hướng cộng đồng có đặc điểm là trao cho cộng đồng quyền kiểm soát quá trình ra quyết định và đóng góp nguồn lực vào việc lập kế hoạch, thiết kế, thực hiện, vận hành, bảo trì những cơ sở hạ tầng.
* Khái niệm về quản lý môi trường dựa vào cộng đồng(CBEM).
Quản lý cộng đồng là phương thức bảo vệ môi trường trên cơ sở một vấn đề môi trường cụ thể ở địa phương, thông qua việc tập hợp các cá nhân và tổ chức cần thiết để giải quyết vấn đề đó. Phương pháp này sử dụng các công cụ sẵn có để tập trung cải tạo hoặc bảo vệ một tài nguyên nào đó hay tạo ra lợi ích về môi trường như dự án tái tạo năng lượng, phục hồi lưu vực... Và đồng quản lý tài nguyên đó thông qua sự hợp tác giữa các đối tác chính quyền, doanh nghiệp, các tổ chức phi chính phủ và cộng đồng dân cư.
Phương pháp quản lý môi trường dựa vào cộng đồng là lấy cộng đồng làm trọng tâm trong việc quản lý môi trường. Đưa cộng đồng tham gia trực tiếp vào hệ thống quản lý môi trường, họ trực tiếp tham gia trong nhiều công đoạn của quá trình quản lý, từ khâu bàn bạc ban đầu tới việc lên kế hoạch thực hiện, triển khai các hoạt động và nhận xét, đánh giá sau khi thực hiện. Đây là hình thức quản lý đi từ dưới lên, thực hiện theo nguyện vọng, nhu cầu thực tế và ý tưởng của chính cộng đồng trong đó các tổ chức quần chúng đóng vai trò như một công cụ hỗ trợ thúc đẩy cho các hoạt động cộng đồng.
1.1.2 Vai trò của người dân trong quản lý môi trường dựa vào cộng đồng.
Sự tham gia của người dân địa phương làm cho dự án phù hợp hơn với đặc điểm nhu cầu của địa phương. Thông qua việc tham khảo ý kiến của người dân, hay người dân đóng góp ý kiến sẽ cung cấp những thông tin có giá trị cho dự án. Do vậy dự án dễ được chấp nhận và khả năng bền vững cao hơn.
Bởi lẽ, họ có kiến thức về địa bàn sinh sống, chính vì vậy họ nắm rõ các đặc thù điều kiện cũng như vấn đề văn hoá, xã hội ở địa bàn, nắm rõ các nhu cầu cũng như các phương tiện hiện có của quản lý. Các quyết định có sự tham gia của cộng đồng sẽ trở nên có cơ sở thực tiễn và đây là căn cứ đảm bảo cho tính khả thi của các quyết định về quản lý môi trường về mặt kinh tế. Chẳng hạn, việc đề ra phí thu gom chất thải không thể nào áp dụng một mức như nhau cho tất cả các địa phương mà phải phân cấp cho các địa phương quyết định trên cơ sở lấy ý kiến cộng đồng.
Người dân tham gia vào các dự án giúp cho dự án có thể tiếp tục vận hành tốt, và có hiệu quả sau khi dự án kết thúc. Bởi vì hoạt động của dự án đem lại lợi ích cho họ. Và có thể được nhân rộng ra nhằm giải quyết vấn đề trên phạm vi rộng hơn.
Sự tham gia của người dân sẽ góp phần điều tiết trong sử dụng nguồn lực đảm bảo tính bền vững trong quản lý môi trường, tài nguyên thiên nhiên được sử dụng hiệu quả nhất khi biết vận dụng kiến thức của người dân và huy động được các nguồn lực tài chính sẵn có trong cộng đồng vào việc làm kinh tế, từ đó tạo có hội tăng thu nhập cho người dân.
Có sự tham gia của cộng đồng sẽ đảm bảo giám sát và đánh giá các chương trình liên quan đến quản lý tổng hợp, duy trì được các hoạt động thông qua hợp tác trong cộng đồng và thể chế hoá sự tham gia của cộng đồng. Những dự án từ khi bắt đầu đến khi vận hành thì đều phải gắn với môi trường dân cư trong vùng, người dân trong vùng là người hiểu rõ nhất những nảy sinh, những hiện tượng khi dự án hoạt động. Họ sẽ là người đưa ra những đánh giá trung thực nhất, sát sao nhất về dự án qua đó đánh giá được thực chất của dự án
Sự tham gia của cộng đồng vào các dự án sẽ giải quyết được vấn đề nhận thức của người dân thông qua sự tác động lẫn nhau giữa các thành viên trong cộng đồng. Người dân sống trong một cộng đồng nên họ dễ dàng chia sẻ và bảo ban nhau vì vậy khi có người vi phạm hoặc đi ngược lại hoạt động của quản lý thì họ là người tác động đem lại hiệu quả nhất.
1.1.3 Các nguyên tắc trong quản lý môi trường dựa vào cộng đồng.
Nguyên tắc: Xác định danh giới rõ ràng.
Nguyên tắc này cho rằng việc tổ chức quản lý dựa vào cộng đồng phải được phân công rõ dàng cụ thể tới từng đối tượng. Xác định được đối tượng cần quản lý, từ đó tiếp tục chia nhỏ đối tượng quản lý để dễ phân chia công việc. Phải phân công rõ dàng từng công việc tới từng đối tượng. Nếu không dễ dẫn tới tình trạng không biết được mình quản lý cái gì hay đối tượng thuộc ai quản lý. Tránh tình trạng “Cha chung không ai khóc”. Trong quá trình phân công công việc, phân công trách nhiệm phải chú ý là phân công được tất cả công việc tới tất cả các đối tượng tham gia không để sảy ra tình trạng người muốn tham gia không được tham gia hay công việc dồn quá nhiều vào một người như thế dễ sảy ra xung đột trong quản lý.
Nguyên tắc: Cân đối giữa chi phí và lợi ích
Để lôi kéo được người dân tham gia vào việc quản lý môi trường cần có cơ chế tăng thu nhập cho họ. Tức là cần gắn kết giữa mục tiêu quản lý môi trường với tăng thu nhập của người dân. Người dân tham gia vào việc quản lý tích cực khi họ tìm thấy ở đó lợi ích đem lại cho họ mà ngoài lợi ích gián tiếp là các lợi ích trực tiếp thu được hàng ngày. Khi người dân tham gia vào các hoạt động kinh tế mà do dự án tổ chức thì họ phải thu được thu nhập từ hoạt động này để duy trì đời sống của mình và gia đình, vì thế mà các dự án ngoài việc đầu tư cho các hoạt động phục vụ mục đích chính cần hỗ trợ người dân ở đó phát triển kinh tế đảm bảo người dân tham gia là có lợi ích kinh tế ví dụ như: hỗ trợ kĩ thuật, giống cây, tiêu thụ sản phẩm...
Nguyên tắc: Được đưa ra, được tiếp thu ý kiến
Cộng đồng dân cư được phép và được khuyến khích đưa ra ý kiến của mình trong các cuộc thảo luận. Họ được đưa ra những đánh giá về hoạt động của hệ thống quản lý. Người dân địa phương thông qua việc đóng góp ý kiến sẽ cung cấp cho cơ quan quản lý cao hơn những thông tin, những phản hồi từ phía họ. Những vấn đề mà người dân có thể sẽ gặp phải khi hệ thống đi vào vận hành. Những ý kiến từ phía người dân là rất quan trọng vì khi hệ thông hoạt động sẽ ảnh hưởng tới lợi ích, cuộc sống của họ và không ai hơn họ là người cung cấp thông tin đúng đắn, sát thực nhất. Đồng thời, người dân địa phương là người sống lâu ở địa bàn, họ có kinh nghiệm về địa bàn sinh sống vì vậy họ có thể đưa ra những giải pháp đơn giản mà hiệu quả cho những vấn đề đặt ra.
Nguyên tắc: Người dân tham gia giám sát
Mọi hoạt động, muốn thực hiện có hiệu quả cần có sự giám sát, và lẽ tất nhiên khi người dân tham gia vào hệ thống quản lý thì họ cũng có quyền được giám sát. Sự giám sát của người dân là hoạt động giám sát đối với hệ thống quản lý cấp trên giám sát đối với đối tượng quản lý, và giám sát lẫn nhau. Người dân tham gia giám sát giúp cho dự án hoạt động hiệu quả về thời gian, chất lượng. Giám sát của người dân là một nguyên tắc giúp cho dự án vận hành tốt, đi chệch hướng khi dự án kết thúc, không còn sự giám sát từ phía dự án. Sự giám sát của dân giúp phản ánh kịp thời những sai phạm của các khâu khi thực hiện dự án vấp phải, nêu nên mong muốn của dân trong quá trình triển khai dự án.
Nguyên tắc: Thưởng phạt rõ ràng.
Những cá nhân trong cộng đồng chịu sự giám sát của các tổ chức, đặc biệt là sự giám sát của cộng đồng mình về các hoạt động của mình. Nếu có hành vi vi phạm thì sẽ bị phạt, còn nếu lập công thì sẽ được thưởng. Những cá nhân không tham gia vào hoạt động của dự án có thể bị loại trừ khỏi các hoạt động công cộng khác, đây là cơ chế để khuyến khích người dân tham gia vào mô hình quản lý. Đồng thời cuốn hút người dân tham gia nhiệt tình hơn. Nhưng cơ chế thưởng phạt phải thật rõ ràng và đủ khả năng khuyến khích và lôi kéo sự quan tâm của mọi người.
Nguyên tắc: Công nhận quyền tối thiểu đối với các tổ chức.
Người dân được phép đưa ra ý kiến của mình với các cơ quan quản lý nhà nước trong hệ thống quản lý môi trường mà không bị cản trở bởi các tổ chức nhà nước khác. Có nghĩa là khi người dân đưa ra ý kiến của mình họ không phải bận tâm về việc có động chạm vào các tổ chức khác không, và nếu có động chạm vào thì họ có phải chịu trách nhiệm gì không? Điều này có ý nghĩa rất quan trọng vì vấn đề người dân đưa ra nhiều khi có liên quan tới nhiều lĩnh vực liên quan khác chứ không phải chỉ về môi trường, vì thế nguyên tắc này đưa ra nhằm khuyến khích người dân nêu ra ý kiến của mình, và khuyến khích họ đưa ra ý kiến trung thực nhất.
1.1.4 Tiến trình quản lý môi trường dựa vào cộng đồng (CBEM).
Hình1.1.4.1: Tiến trình quản lý môi trường dựa vào cộng đồng( CBEM)
Ô nhiễm nước, không khí, đất, cải tạo cơ sở hạ tầng, tái định cư
Xác định các thách thức của cộng đồng
Cán bộ được địa phương bầu cử, lãnh đạo cộng đồng có uy tín khác
Chỉ định người triệu tập
(người đầu tầu)
Chính quyền
Tổ chức NGO
Doanh nghiệp
Xây dựng nhóm làm việc cộng đồng
(nhóm CBEM)
Tổ chức các cuộc họp để xác định các thách thức và mục tiêu, thông tin và các yếu tố cần thiết, đề ra hướng giải quyết có thể
Xây dựng sự nhất trí
kinh tế
Môi trường
Xã hội
Đề ra các mục tiêu
Xây dựng giải pháp
Xây dựng kế hoạch hành động
Ký kết thoả thuận
Các đối tác cam kết:Hành động
Nguồn lực
Lịch trình
Biện pháp thực hiện
Phục hồi lưu vực
Cải thiện việc quản lý chất thải
Sản xuất sạch hơn
Giáo dục, tham gia của cộng đồng
Thưc hiện dự án
* Xác định các thách thức của cộng đồng.
Quá trình xác định các thách thức của cộng đồng là sự tham gia của nhiều bên liên quan, các bên cùng thảo luận để đưa ra vấn đề môi trường cụ thể của khu vực như các vấn đề về ô nhiễm nước, không khí, cải tạo cơ sở hạ tầng... Từ đó xác định các vấn đề ưu tiên, tìm kiếm các giải pháp để xây dựng sự đồng thuận rộng rãi trong cộng đồng. Trong suốt quá trình cộng đồng ra quyết định thì việc thảo luận được tiến hành với nhiều mức độ khác nhau, hình thức và tỷ lệ khác nhau. Điều này có thể đưa ra nhiều vấn đề khác nhau nhưng cuối cùng sẽ tập chung chủ yếu vào ý kiến tổng hợp của một tỷ lệ dân cư rộng lớn.
* Chỉ định người triệu tập.
Việc bổ nhiệm người triệu tập có thể thông qua việc sử dụng bảng câu hỏi như là một hướng dẫn để lựa chọn được người triệu tập cho dự án. Có thể đưa ra một ví dụ khi lựa chọn người triệu tập, bằng việc đưa ra các câu hỏi sau cho nhóm cộng đồng trả lời.
- Ai là người trong cộng đồng có thể tham gia là người triệu tập?
- Ai có được sự hỗ trợ từ địa phương, có mối liên quan tới quản lý nhà nước để bênh vực cho dự án ?
- Ai có thể đóng vai trò lãnh đạo, có kỹ năng điều phối và biểu lộ sự tập chung?
- Ai có thể đủ thời gian tham gia?
- Chính quyền có bằng lòng bổ nhiệm người triệu tập không ?
Trong ví dụ này, với 5 câu hỏi trên, nguời nhận được câu trả lời tốt nhiều nhất sẽ được lựa chọn là người triệu tập của dự án.
* Xây dựng nhóm cộng đồng.
Nhóm cộng đồng bao gồm các thành phần sau:
Nhà tài trợ: Đó là một nhà lãnh đạo hoặc cơ quan, cộng đồng, nhóm dân cư, doanh nghiệp... Trách nhiệm của họ là nhận diện các vấn đề và đưa ra đánh giá.
Người triệu tập, nhà lãnh đạo: Có thể là nhà lập pháp, chủ tịch UBND, đại biểu hội đồng nhân dân, người đứng đầu trong cộng đồng được kính trọng...Với trách nhiệm tập hợp mọi người bàn bạc cùng nhau (quá trình đồng thuận của tất cả các đối tác tham gia) viết văn bản thoả thuận của tất cả các đối tác, đảm bảo sự phát triển bền vững, hiệu quả và quá trình tiến hành lâu dài của dự án
Nhóm trung lập: Đó là các trường đại học, trung tâm đồng thuận, các tổ chức dân sự, chương trình mở rộng....
Các nhóm trên chính là nhóm làm việc cộng đồng, trong quá trình thực hiện dự án cần phải có sự phối hợp đồng bộ và có sự phân chia trách nhiệm rõ ràng cho các nhóm.
* Xây dựng sự nhất trí.
Sự nhất trí được duy trì trên nguyên tắc hoạt động là công bằng, cởi mở và tin tưởng lẫn nhau. Tiến hành bằng cách tổ chức các cuộc họp, hội thảo để xác định các thách thức và mục tiêu, xác định thông tin và các yếu tố cấn thiết, đề ra hướng giải quyết có thể. Sự hình thành sự nhất trí không phải thông qua hình thức biểu quyết trong các cuộc hội thảo mà bằng các hình thức tìm hiểu, giải thích, cùng bàn bạc đi đến quyết định cuối cùng. Tạo không khí thân mật, cởi mở để mọi người đều đưa ra ý kiến của mình.
* Đề ra các mục tiêu.
Việc đề ra các mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường nhằm giúp dự án xác định rõ kết quả đạt được về từng lĩnh vực cụ thể là như thế nào, từ đó càng thấy rõ tầm quan trọng của dự án cũng như của cộng đồng trong việc phối hợp giải quyết các vấn đề môi trường. Việc đề ra các mục tiêu chính là cơ sở để xây dựng các mục tiêu nhỏ, cụ thể để từng bước thực hiện các mục tiêu lớn. Có thể đề ra các mục tiêu trên thông qua việc xác định các chỉ tiêu chính. Các chỉ tiêu đưa ra phải được nghiên cứu kĩ lưỡng những điều kiện hiện có để có những chi tiêu phù hợp, nếu chỉ tiêu quá cao hoặc quá thấp đều không có tác dụng thúc đẩy hoạt động. Chỉ tiêu quá thấp sẽ không thực hiện được mục tiêu đề ra, chỉ tiêu quá cao, khó hoàn thành sẽ kìm hãm sự cố gắng hoàn thành.
Hình 1.1.4.2 Sơ đồ xác định các chỉ tiêu, mục tiêu.
chỉ tiêu 1.1
1. Môi trường
Bước 2
Đố