Hoà chung với nhịp độ phát triển mạnh mẽ của các ngành công nghiệp, các ngành tiểu thủ công nghiệp trong những năm gần đây cũng phát triển một cách mạnh mẽ, đặc biệt là các làng nghề. Sự phát triển đó một mặt tạo nên sự phát triển kinh tế phi nông nghiệp, tăng thu nhập cho lao động nông thôn, song một mặt cũng tác động nguy hại tới môi trường nông thôn. Các biện pháp xử lý, kiểm soát ô nhiễm nay không chỉ còn là của công nghiệp mà trong lĩnh vực nông nghiệp – cụ thể là làng nghế nông thôn cũng đã được các cơ quan có thẩm quyền áp dụng. Đó là các biện pháp về xử lý chất thải, quy hoạch theo sản xuất làng nghề tập trung, di dời các cơ sở hộ sản xuất khỏi làng nghề đông đúc dân cư. Tuy nhiên, suy cho cùng các biện pháp đó cũng chỉ là chuyển chất thải từ nơi này sang nơi khác, từ dạng này sang dạng khác mà thôi. Vì vậy, cần phải có những biện pháp giảm thiểu chất thải ngay tại nguồn – ngay tại khu vực dân cư khá nhạy cảm.
Sản xuất sạch hơn (SXSH) mới được biết đến ở Việt Nam và đã áp dụng khá thành công trong công nghiệp trong công nghiệp trong thời gian gần đây là các biện pháp được tiếp cận theo kiểu phòng ngừa, phòng ngừa liên tục tổng hợp đối với tất cả các hoạt động sản xuất nào có sử dụng một khối lượng lớn năng lượng, nguyên nhiên liệu, có sinh ra chất thải . Có nghĩa là về nguyên tắc SXSH có thể áp dụng thành công đối với các hoạt động tại làng nghề. Đây là một cách tiếp cận hoàn toàn mới mẻ và qua quá trình thực tập cùng với những kiến thức khiêm tốn về SXSH tôi mạnh dạn tiến hành nghiên cứu đề tài: “ Bước đầu nghiên cứu tiềm năng áp dụng sản xuất sạch hơn trong các làng nghề Hà Nội và một số tỉnh lân cận – trường hợp làng nghề sản xuất đồ gỗ phun sơn – Thôn Châu Phong – Liên Hà - Đông Anh – Hà Nội”.
97 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1483 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bước đầu nghiên cứu tiềm năng áp dụng sản xuất sạch hơn trong các làng nghề Hà Nội và một số tỉnh lân cận – trường hợp làng nghề sản xuất đồ gỗ phun sơn – Thôn Châu Phong – Liên Hà - Đông Anh – Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Hoà chung với nhịp độ phát triển mạnh mẽ của các ngành công nghiệp, các ngành tiểu thủ công nghiệp trong những năm gần đây cũng phát triển một cách mạnh mẽ, đặc biệt là các làng nghề. Sự phát triển đó một mặt tạo nên sự phát triển kinh tế phi nông nghiệp, tăng thu nhập cho lao động nông thôn, song một mặt cũng tác động nguy hại tới môi trường nông thôn. Các biện pháp xử lý, kiểm soát ô nhiễm nay không chỉ còn là của công nghiệp mà trong lĩnh vực nông nghiệp – cụ thể là làng nghế nông thôn cũng đã được các cơ quan có thẩm quyền áp dụng. Đó là các biện pháp về xử lý chất thải, quy hoạch theo sản xuất làng nghề tập trung, di dời các cơ sở hộ sản xuất khỏi làng nghề đông đúc dân cư. Tuy nhiên, suy cho cùng các biện pháp đó cũng chỉ là chuyển chất thải từ nơi này sang nơi khác, từ dạng này sang dạng khác mà thôi. Vì vậy, cần phải có những biện pháp giảm thiểu chất thải ngay tại nguồn – ngay tại khu vực dân cư khá nhạy cảm.
Sản xuất sạch hơn (SXSH) mới được biết đến ở Việt Nam và đã áp dụng khá thành công trong công nghiệp trong công nghiệp trong thời gian gần đây là các biện pháp được tiếp cận theo kiểu phòng ngừa, phòng ngừa liên tục tổng hợp đối với tất cả các hoạt động sản xuất nào có sử dụng một khối lượng lớn năng lượng, nguyên nhiên liệu, có sinh ra chất thải .. Có nghĩa là về nguyên tắc SXSH có thể áp dụng thành công đối với các hoạt động tại làng nghề. Đây là một cách tiếp cận hoàn toàn mới mẻ và qua quá trình thực tập cùng với những kiến thức khiêm tốn về SXSH tôi mạnh dạn tiến hành nghiên cứu đề tài: “ Bước đầu nghiên cứu tiềm năng áp dụng sản xuất sạch hơn trong các làng nghề Hà Nội và một số tỉnh lân cận – trường hợp làng nghề sản xuất đồ gỗ phun sơn – Thôn Châu Phong – Liên Hà - Đông Anh – Hà Nội”.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
- Đề tài tiến hành nghiên cứu các hoạt động sản xuất của các loại hình làng nghề khác nhau, tìm hiểu nguyên nhân gây ra tổn thất nguyên nhiên liệu để từ đó đưa ra các cơ hội áp dụng SXSH cho các loại làng nghề.
- Để minh chứng cụ thể, đề tài chú trọng tập trung nghiên cứu hoạt động sản xuất và môi trường đối với một làng nghề sản xuất đồ gỗ Phun sơn. Từ đó đưa ra các cơ hội SXSH và phương án SXSH.
* Phạm vi nghiên cứu:
Làng nghề có nhiều ở Việt Nam song đề tài chỉ nghiên cứu trong phạm vi bốn tỉnh: Hà Nội, Hà Tây, Hưng Yên, Bắc Ninh.
- Xét một trường hợp sản xuất làng nghề điển hình tại thôn Châu Phong – Liên Hà - Đông Anh – Hà Nội. Trong đó trọng tâm đánh giá SXSH là các công đoạn phun sơn từ đó tiến hành đánh giá phương án “thay thế súng phun sơn cũ bằng súng phun sơn hiện đại hơn”.
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ SẢN XUẤT SẠCH HƠN VÀ TIẾP CẬN SẢN XUẤT SẠCH HƠN TRONG LÀNG NGHỀ
I. TỔNG QUAN VỀ SẢN XUẤT SẠCH HƠN.
1. Sản xuất sạch hơn trong hệ thống thứ bậc quản lý môi trường.
Mọi hoạt động sản xuất đều phát sinh chất thải ở đầu ra và điều này sẽ ảnh hưởng đến môi trường. Để bảo vệ môi trường, cho đến nay đã có rất nhiều loại phương án được áp dụng và người ta xếp thứ bậc của các phương án này từ phương án được ưa chuộng nhất đến phương án ít được ưa chuộng nhất trên cơ sở cân nhắc những lợi ích và chi phí của chúng.
Hình 1: Hệ thống thứ bậc quản lý môi trường
HỆ THỐNG THỨ BẬC QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
Ưa chuộng
nhất
Ít ưa
chuộng nhất
SẢN XUẤT SẠCH HƠN
-Phòng ngừa tái chế chất thải.
-Tái chế/ tái sử dụng tại chỗ
Tái chế/ tái sử dụng bên ngoài.
Kiểm soát/ xử lý
Đổ chất thải
Theo cách tiếp cận truyền thống, việc bảo vệ môi trường tập trung chủ yếu giải quyết các loại chất thải sau khi chúng đã được phát sinh ra, tức là xử lý cuối đường ống. Các nhà sản xuất công nghiệp sẽ thực hiện việc xử lý các chất phế thải, vận chuyển chất thải đi đổ, hoặc tái chế, tái sử dụng ở bên ngoài phạm vi xí nghiệp. Cách làm này đòi hỏi những chi phí (xử lý, nộp phí, vận chuyển, sự cố…) và như thế luôn được coi là tạo ra gánh nặng tài chính cho các doanh nghiệp nên không được các doanh nghiệp thực hiện một cách hăng hái, tích cực. Cách tiếp cận cuối đường ống như vậy đã trở nên lạc hậu và không còn thích hợp nữa bởi tính không chủ động, ít hiệu quả; hơn nữa năng lực xử lý, thu gom chất thải và khả năng hấp thụ của môi trường không thể theo kịp với đà gia tăng chất thải ngày càng nhiều trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Hiện nay, nhiều nuớc trên thế giới đã áp dụng một cách tiếp cận mới, tiên tiến theo kiểu phòng ngừa tổng hợp trong quản lý môi trường. Theo cách tiếp cận này, các doanh nghiệp thực hiện giảm và tránh chất thải ngay tại nguồn phát sinh.
Sự khác nhau cơ bản giữa hai các tiếp cận nêu trên là thời điểm thực hiện: cách thứ nhất, sau khi phát sinh chất thải và được coi là phản ứng – xử lý; còn cách thứ 2 là tiếp cận chủ động theo hướng dự đoán và phòng ngừa. Cách tiếp cận mới này được biết đến với tên gọi là sản xuất sạch hơn (SXSH).
2. Khái niệm về sản xuất sạch hơn và các khái niệm tương đương.
- Khái niệm sản xuất sạch hơn (SXSH) lần đầu tiên được UNEP- chương trình môi trường Liên Hiệp Quốc - đưa ra vào năm 1989 như sau: “SXSH là việc áp dụng liên tục một chiến dịch môi trường phòng ngừa tổng hợp với các qui trình sản xuất sản phẩm và dịch vụ nhằm làm tăng hiệu quả tổng thể và làm giảm các nguy cơ với con người và môi trường”.
Đối với qui trình sản xuất: SXSH bao gồm việc bảo quản nguyên liệu, năng lượng, loại bỏ các nguyên liệu độc hại, giảm bớt số lượng và mức độ độc hại của các chất thải gây ô nhiễm ngay từ trước khi chúng đợc thải ra môi trường.
Đối với các sản phẩm: SXSH chú trọng đến việc giảm bớt các tác động có hại trong suốt chu trình sản phẩm, từ khâu thiết kế đến loại bỏ.
Đối với dịch vụ: SXSH bao gồm từ khâu thiết kế, cải tiến, việc quản lý nhà xưởng đến khâu lựa chọn các loại đầu vào.
Như vậy khái niệm SXSH được mô tả như sau:
Hình 2: Khái niệm SXSH
SẢN XUẤT SẠCH HƠN
Giảm nguồn phát sinh
Là một chiến lược tổng hợp, liên tục và mang tính phòng ngừa
Nhằm thay đổi
Thay thế mang tính cơ bản
Bảo toàn năng lượng
Thiết kế môi trường
Để tăng hiệu quả tổng thể,
Điều này sẽ.
Cải thiệntình hình môi trường và giảm chi phí
L
Theo cách tiếp cận này SXSH có nghĩa là:
Tránh hoặc giảm phát sinh chất thải.
Sử dụng có hiệu quả các nguồn năng lợng và nguyên vất liệu.
Sản xuất ra các sản phẩm và dịch vụ thân thiện hơn với môi trường
Giảm bớt lượng chất thải xả vào môi trường, giảm chi phí và tăng lợi nhuận.
Các khái niệm tương đương với SXSH.
Bên cạnh khái niệm về SXSH có một số khái niệm tương tự như:
Giảm thiểu chất thải: Khái niệm này đã được cơ quan bảo vệ môi trường Mỹ (USAPA) sử dụng từ những năm 1988. Theo đó, cách tiếp cận theo kiểu phòng ngừa chất thải và các biện pháp của nó đợc coi là các biện pháp giảm bớt ô nhiễm tại gốc (nơi chất thải có thể phát sinh), thông qua việc tạo ra các thay đổi trong việc sử dụng các đầu vào, thay đổi công nghệ, cải tiến qui trình vận hành và đổi mới sản phẩm.
Phòng ngừa ô nhiễm: Cơ quan bảo vệ môi trường Mỹ (USAPA) đã định nghĩa phòng ngừa ô nhiễm là việc sử dụng nguyên vật liệu, qui trình hoặc qui chuẩn cho phép làm giảm bớt phát sinh chất ô nhiễm hoặc chất thải ngay tại nguồn gốc của chúng. Phòng ngừa ô nhiễm bao gồm cả những hoạt động giúp làm giảm bớt việc sử dụng các nguyên vật liệu độc hại, giảm tiêu thụ năng lượng, nước và các nguồn khác và các hoạt động bảo vệ tài nguyên như bảo tồn và sử dụng tài nguyên có hiệu quả hơn.
Cách tiếp cận này đã nhấn mạnh rằng các doanh nghiệp sẽ có lợi hơn nhiều nếu thay vì áp dụng các biện pháp xử lý chất thải, tìm cách không tạo ra chất thải/chất gây ô nhiễm môi trường, để bảo đảm rằng chất thải đó không đe doạ đến chất lượng môi trờng.
Năng suất xanh (NSX).
Năng suất xanh được bắt nguồn từ phong trào sản xuất sạch nhằm giảm lượng chất thải và ô nhiễm ra môi trường trong các quá trình sản xuất và dịch vụ sao cho vẫn đảm bảo được năng suất. Khái niệm về năng suất xanh được tổ chức Năng Suất Châu Á (OAP) đưa ra như sau: “Năng suất xanh là một chiến lợc nhằm nâng cao năng suất mà vẫn bảo vệ môi trờng để phát triển bền vững”.
Như vậy, theo quan điểm trên, NSX có thể đợc áp dụng cho nhiều lĩnh vực: công nghiệp, nông nghiệp hay dịch vụ…bao gồm việc áp dụng các công nghệ thích hợp, hệ thống quản lý môi trường, kỹ thuật năng suất. Hiện nay, ở Việt Nam NSX được triển khai bởi những mô hình khác nhau: xây dựng hầm Biogas, mô hình làng năng suất xanh, mô hình quản lý dịch hại tổng hợp trên cây trồng bằng phơng pháp IPM …đã bước đầu mang lại hiệu quả kinh tế cao.
3. Các giải pháp SXSH.
SXSH không chỉ là vấn đề thay đổi thiết bị mà còn là thay đổi thái độ, áp dụng bí quyết, cải thiện quá trình sản xuất sản phẩm và các thay đổi trong vận hành và quản lý một doanh nghiệp. Các thay đổi được gọi là “ giải pháp SXSH” có thể được chia thành các nhóm như sau:
Hình 3: Các nhóm giải pháp SXSH
CÁC NHÓM GIẢI PHÁP SXSH
Cải biến sản phẩm.
Tuần hoàn.
Giảm chất thải tại nguồn.
Thay đổi sản phẩm.
Tái chế, tái sử dụng, tận thu tại chỗ.
Quản lý nội vi.
Kiểm soát quá trình tôt hơn.
Thay đổi bao bì.
Tạo sản phẩm phụ.
Thay đổi nguyên liệu.
Thay thế, cải tiến thiết bị.
Trong đó:
Các biện pháp quản lý nội vi: liên quan đến việc thay đổi thực tiễn hiện tại hoặc áp dụng các biện pháp mới trong vận hành và bảo dưỡng thiết bị nhằm tăng hiệu quả hoạt động của thiết bị hiện có, tiết kiệm năng lượng và chi phí do các trục trặc khác trong quá trình vận hành gây ra.
Các giải pháp liên quan đến thay đổi nguyên liệu đầu vào bằng các loại không hoặc ít độc hại hơn đối với con người và môi trường, các nguyên liệu có chất lượng tốt hơn nhằm làm giảm chất thải phát sinh ra môi trường trong quá trình sản xuất.
Các biện pháp cải tiến hoặc kiểm soát quá trình hoạt động nhằm mục đích vận hành các công đoạn sản xuất với mức hiệu quả cao hơn, sử dụng ít nguyên liệu đầu vào hơn. Giải pháp này thường liên quan đến việc đào tạo công nhân vận hành hoặc bổ xung thiết bị giám sát, kiểm soát quá trình.
Các giải pháp thay thế, cải tiến thiết bị nhằm giảm lượng tiêu hao và các thất thoát nguyên vật liệu, giảm lượng phát thải vào môi trường, cải thiện độ an toàn trong môi trường làm việc của công nhân.
Các giải pháp thay đổi công nghệ: Thay đổi trình tự hoặc phương pháp tổng hợp nhằm giảm thiểu phát sinh chất thải trong quá trình sản xuất.
Các giải pháp tái chế, tái sử dụng hoặc tận dụng nguyên liệu, năng lượng tại chỗ nhằm sử dụng lại cho chính công đoạn đó hoặc cho mục đích khác.
Các giải pháp tạo ra sản phẩm phụ: là việc thu thập các dòng thải để có thể trở thành một sản phẩm mới hoặc bán ra cho các cơ sở sản xuất khác.
Các giải pháp thay đổi sản phẩm, bao bì liên quan đến việc xem xét lại sản phẩm và các yêu cầu đối với sản phẩm đó nhằm mục đích tiết kiệm lượng tiêu hao nguyên vật liệu và các hoá chất độc hại; tạo ra dòng chất thải tốt về chất lượng, đẹp về mẫu mã và thân thiện với môi trường.
Trong các giải pháp nêu trên, các giải pháp quản lý nội vi và một số giải pháp cải tiến trong qui trình sản xuất thường là những giải pháp không tốn kém hoặc tốn rất ít chi phí nhưng vẫn có thể đem lại hiệu quả không nhỏ, có thể thực hiện ngay và thường xuyên; các giải pháp còn lại, tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể, có thể đòi hỏi vốn đầu tư lớn hoặc gặp những hạn chế về công nghệ và khả năng thực hiện vì thế việc thực hiện có thể sẽ chậm hơn.
4. Thực tiễn áp dụng SXSH ở Việt Nam.
Sau hơn 10 năm đẩy nhanh tốc độ phát triển công nghiệp, cùng những thành tựu về kinh tế, chúng ta bắt đầu phải đối mặt với những vấn đề môi trường. Nhận thức được tầm quan trọng và bức xúc của vấn đề bảo vệ môi trường trong phát triển bền vững của đất nước, ngày 25/6/1998 Bộ chính trị BCHTƯ Đảng Cộng Sản Việt Nam đã ra chỉ thị 36/CT- TƯ về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hóa đất nước. Chỉ thị đã coi phòng ngừa ô nhiễm là nguyên tắc chủ đạo, kết hợp với xử lý ô nhiễm, cải thiện chất lượng môi trường và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên. Tư tưởng chủ đạo trên hoàn toàn phù hợp với xu thế mới của thế giới chuyển từ kiểm soát ô nhiễm sang phòng ngừa ô nhiễm trong công tác quản lý môi trường. Sự đổi mới này đã được chứng minh tính đúng đắn của nó trong thực tiễn kể từ khi chương trình môi trường Liên Hiệp Quốc (UNEP) đưa ra chương trình “Sản xuất sạch hơn” vào năm 1990. Cùng với đó, ngày 22/9/1999 Bộ trưởng Bộ KHCN và MT Chu Tuấn Nhạ đã ký vào bản tuyên ngôn quốc tế về SXSH, thể hiện sự cam kết của chính phủ ta phát triển đất nước theo chiến lược phát triển bền vững. Trước đó, ngày 22/4/1999 Trung tâm SXSH Việt Nam được thành lập.
Các hoạt động SXSH ở nước ta trong những năm vừa qua chủ yếu tập trung vào:
Phổ biến thông tin và nâng cao nhận thức.
Trình diễn kỹ thuật về đánh giá SXSH tại doanh nghiệp nhằm thuyết phục giới công nghiệp tiếp nhận việc áp dụng SXSH vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
Đào tạo nguồn nhân lực xây dựng năng lực quốc gia về SXSH.
- Về mặt phổ biến thông tin và nâng cao nhận thức:
Mục đích của các hoạt động này là nhằm nâng cao nhận thức về SXSH trong cộng đồng công nghiệp, các cơ quan chính phủ và các trường Đại học. Trong những năm vừa qua, khái niệm về SXSH, các khái niệm tương đương và các kết quả áp dụng SXSH đã được đưa lên các bài báo, tạp chí và các tờ báo đầu tư trong nước. Các phóng sự truyền hình về các hoạt động SXSH đã được phát trên kênh vô tuyến, truyền hình TƯ và địa phương. Hàng chục cuộc hội thảo về nâng cao nhận thức về SXSH đã được tổ chức tại các tỉnh, thành thuộc các dự án khác nhau. Trong năm 2001 – 2002, trung tâm SXSH đã tổ chức 12 hội thảo (CP1) thuộc dự án “ Những chiến lược và cơ chế khuyến khích đầu tư cho SXSH tại các nước đang phát triển” với 316 người tham gia trong đó 15-60% từ công nghiệp, 10-20% từ chính quyền địa phương và phần còn lại từ cơ quan môi trường.
- Về trình diễn kỹ thuật đánh giá SXSH tại doanh nghiệp: Tính đến 10/2002 cả nước đã có trên 60 doanh nghiệp tham gia các dự án trình diễn ở các mức độ khác nhau trong khuôn khổ các dự án quốc gia do quốc tế tài trợ hoặc các đề tài xây dựng mô hình SXSH ở một số địa phương. Kết quả thực hiện được thể hiện ở bảng sau:
Bảng: các doanh nghiệp áp dụng SXSH ở Việt Nam đến 2002
Số DN
30
25
20
15
10
5
1995-1996 1997-1998 1999-2000 2001-2002 các năm
(Nguồn: TS. Ngô Thị Nga – TTSXS Việt Nam: “Hiện trạng và tiềm năng áp dụng SXSH ở Việt Nam.”)
Tình hình thực hiện các dự án áp dụng (hoặc trình diễn) về SXSH ở các địa phương cũng rất khác nhau. Tính đến 10/2002 cả nước có 18/61 tỉnh thành hưởng ứng trình diễn SXSH, trong đó tập trung vào các tỉnh/thành như: TP Hồ Chí Minh, Hà Nội, Phú Thọ, Khánh Hoà, Cần Thơ, Nam Định… Song hoạt động này chỉ tập trung ở một số ngành như: Giấy, Dệt – Nhuộm, Chế biến thực phẩm và gia công kim loại.
Kết quả thực hiện tại các doanh nghiệp áp dụng SXSH cho thấy lợi ích thu được là rất đáng kể: có doanh nghiệp tiết kiệm được 2-3 tỷ đồng/ năm (chưa tính đến lợi ích môi trường) với thời gian hoàn vốn dưới 6 tháng, giảm được 20-35% tổng lượng chất thải đưa vào môi trường. Tuy nhiên, việc thực hiện SXSH ở các doanh nghiệp không giống nhau: có doanh nghiệp chỉ dừng lại ở mức đánh giá sơ bộ và thực hiện các giải pháp thuộc nhóm quản lý nội vi, có doanh nghiệp đã đánh giá khá chi tiết và thực hiện được nhiều giải pháp SXSH.
Phần lớn các giải pháp SXSH thực hiện ở các doanh nghiệp thuộc nhóm quản lý nội vi và kiểm soát quá trình. Số liệu thống kê cho thấy, tỷ lệ các nhóm giải pháp được áp dụng như sau:
Bảng: Tỷ lệ các nhóm giải pháp SXSH được áp dụng tại Việt Nam
TT
Các nhóm giải pháp.
Tỷ lệ %
1
Quản lý nội vi.
30
2
Kiểm soát quá trình công nghệ.
40
3
Cải tiến thiết bị.
8
4
Thu hồi, tái sử dụng và tạo sản phẩm phụ hữu ích.
12
5
Các nhóm giải pháp còn lại.
10
Nguồn: TS. Ngô thị Nga – TTSXS Việt Nam: “Hiện trạng và tiềm năng áp dụng SXSH ở Việt Nam”.
Qua bảng trên cho thấy rằng, nhóm giải pháp về quản lý nội vi và kiểm soát quá trình công nghệ là 2 nhóm giải pháp được các doanh nghiệp áp dụng hàng đầu (chiếm 70%). Điều nay dễ lý giải bởi đây là nhóm không tốn hoặc tốn ít chi phí lại dễ thực hiện.
Đào tạo nguồn nhân lực quốc gia về SXSH.
Các chuyên gia tư vấn về SXSH cho các ngành công nghiệp có vai trò rất to lớn trong phổ biến, hướng dẫn các doanh nghiệp đánh giá SXSH. Trong thời gian từ 1999-2002 Trung tâm Sản Xuất Sạch Việt Nam đã đào tạo gần 100 cán bộ chuyên sâu về lĩnh vực này. Để xây dựng nguồn lực về SXSH cho tương lai, từ năm 2000- 2002 Trung tâm đã tổ chức 3 hội nghị chuyên đề về lồng ghép SXSH trong chương trình giảng dạy Đại học cho thấy sự cần thiết đưa SXSH vào đào tạo một số chuyên ngành và một số môn học trong trương Đại học ở Việt Nam.
Như vậy, SXSH chỉ mới bước đầu được thực hiện ở Việt Nam trong lĩnh vực công nghiệp và kết quả thu được còn nhiều hạn chế do có những rào cản và khó khăn nhất định từ phía bản thân doanh nghiệp cũng như các yếu tố bên ngoài.
II. TIẾP CẬN SXSH TRONG CÁC LÀNG NGHỀ.
1. Khái niệm, vai trò của làng nghề.
Khái niệm làng nghề.
Làng là một đơn vị phát triển từ nhiều đời nay ở nông thôn Việt Nam, với ý nghĩa là một cộng đồng dân cư, một liên kết cộng đồng chặt chẽ, kéo theo đó là văn hoá làng gồm phong tục, tập quán nếp sống cũng như các hoạt động kinh tế xã hội khác. Ngoài làng nghề thuần nông, thuần ngư thì làng nghề tiểu thủ công nghiệp khá phát triển trong nông thôn Vịêt Nam. Tuy vậy, cho đến nay vẫn chưa có khái niệm chính thức về làng nghề được đưa ra. Song khái niệm phổ biến được hiểu như sau:
“ Làng nghề là loại hình tổ chức kinh tế trong đó mỗi làng xã đặc thù chuyên biệt hoá thành những nhóm nghề có liên quan, chúng đóng một vai trò quan trọng và lâu dài trong lịch sử phát triển, với trên 50% số hộ dân làm nghề và tổng thu nhập từ nghề phải chiếm trên 50% tổng thu nhập cả làng”.
Trước đây, hầu hết tất cả các làng nghề đều được coi là làng nghề truyền thống: là làng nghề ở nông thôn có một hay nhiều nghề thủ công truyền thống được tách ra khỏi nông nghiệp để sản xuất kinh doanh và đem lại phần thu nhập chiếm chủ yếu trong năm. Những nghề thủ công đó được truyền từ đời này qua đời khác, sản phẩm làm ra có tính nổi bật tinh xảo mang tính mỹ nghệ và trở thành hàng hoá trên thị trường.
Ngày nay, “làng nghề mới” – những làng nghề mới được hình thành do nhu cầu phát triển kinh tế thị trường, một số đông các hộ tham gia chuyên sản xuất một mặt hàng nào đó có tính độc đáo và độ tinh xảo cao - đã được hình thành và phát triển bên cạnh làng nghề truyền thống tạo nên sự đa dạng trong làng nghề Việt Nam.
Vai trò của làng nghề.
Sự khôi phục và phát triển của làng nghề trong những năm gần đây đã tạo nên những chuyển biến tích cực trong sự phát triển kinh tế xã hội của các địa phương – chúng đóng một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông thôn nước ta. Điều này được thể hiện qua những khía cạnh sau:
Góp phần tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động:
Theo con số thống kê, cả nước có trên 1450 làng nghề, đã giải quyết cho 1,4 triệu lao động có việc làm. Đặc biệt một số tỉnh có nhiều lao động hoạt động trong lĩnh vực làng nghề như Hà Tây với 113.956 lao động; Thái Bình với 88.505 lao động; Hà Nội thu hút 67.679 lao động, chiếm tới 8% lực lượng lao động. Mỗi hộ ngành nghề tạo được việc làm cho từ 2-5 lao động, cơ sở ngành nghề tạo được từ 8-10 chỗ làm việc. Hoạt động làng nghề đã mang lại thu nhập cao hơn cho người lao động ở nông thôn. Theo tính toán sơ bộ, mức thu nhập tính theo đầu người ở các hộ làng nghề cao từ 1,7- 5 lần so với các hộ thuần nông: trung bình thu nhập của lao động ở cơ sở chuyên ngành là 490 ngàn đồng/tháng, các hộ chuyên là 370 ngàn đồng/tháng, hộ kiêm là 260 ngàn đồng/tháng. Các hộ làng nghề đã tạo ra một lượng giá trị hàng ngàn tỷ đồng hàng năm: năm 1999, các làng nghề đã tạo ra 27.500 tỷ đồng giá trị sản lượng, năm 2000 là hơn 40.000 tỷ đồng; 90% sản phẩm tiêu thụ trong nước, 10% mặt hàng dành cho xuất khẩu. Đây là những con số có ý nghĩa to lớn góp phần xoá đói giảm nghèo và góp phần ngăn chặn đưc dòng người lao động nông thôn tràn vào các thành phố làm phát sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp, gâ