Đề tài Bước đầu tìm hiểu về tiếng Hà Nội trong phương ngữ Bắc theo chiều dài lịch sử

Phương diện lí luận: Nghiên cứu về tiếng Hà Nội trong phương ngữ Bắc góp phần bổ sung vào lí luận về ngôn ngữ nói chung. Đồng thời nghiên cứu về tiếng Hà Nội trong phương ngữ Bắc cũng góp phần và phát hiện ra những yếu tố, những khía cạnh nhằm thúc đẩy và phát triển những mặt tích cực và hạn chế những tiêu cực. Phương diện thực tiễn: Trong suốt chiều dài lịch sử xây dựng và phát triển Thủ đô, tiếng Hà Nội trong phương ngữ Bắc đóng một vai trò quan trọng. Tiếng Hà Nội trong phương ngữ Bắc- từ sâu xa trong dân gian đã trở thành một phương ngữ, một tiếng của người" kẻ chợ". Do vậy, việc nghiên cứu tiếng Hà Nội trong phương ngữ Bắc là một trong những vấn đề cấp thiết của cuộc sống, đòi hỏi phải được giải quyết vì hơn nữa ở nước ta có một sự đóng góp rất đa dạng và phong phú của cá tiếng, các phương ngữ ở các vùng, các miền khác nhau. Lịch sử nghiên cứu đề tài: Đã có rất nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu, nhà ngôn ngữ học nghiên cứu về vấn đề này. Họ chủ yếu nghiên cứu và bàn luận về việc" tiếng Hà Nội trong phương ngữ Bắc có phải là tiếng chuẩn của cả nước không?" Cũng có những đề tài nghiên cứu và tìm hiểu tiếng Hà Nội trong phương ngữ Bắc thông qua mặt phát âm những âm như" tr/ ch"," s/ x"," gi/ d/ r". ở đây, nghiên cứu về tiếng Hà Nội trong phương ngữ Bắc từ lúc bắt đầu xuất hiện, tồn tại và phát triển theo chiều dài lịch sử. Ý nghĩa đề tài: Giải quyết được những vấn đề nảy sinh ra khi nghiên cứu tiếng Hà Nội trong phương ngữ Bắc đồng thời góp một phần ý kiến chủ quan về việc đánh giá tiếng Hà Nội trong phương ngữ Bắc.

doc23 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1418 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bước đầu tìm hiểu về tiếng Hà Nội trong phương ngữ Bắc theo chiều dài lịch sử, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bước đầu tìm hiểu về tiếng Hà Nội trong phương ngữ Bắc theo chiều dài lịch sử (Môn Phương pháp nghiên cứu khoa học về ngôn ngữ học) MỞ ĐẦU Lí do chọn đề tài: Phương diện lí luận: Nghiên cứu về tiếng Hà Nội trong phương ngữ Bắc góp phần bổ sung vào lí luận về ngôn ngữ nói chung. Đồng thời nghiên cứu về tiếng Hà Nội trong phương ngữ Bắc cũng góp phần và phát hiện ra những yếu tố, những khía cạnh nhằm thúc đẩy và phát triển những mặt tích cực và hạn chế những tiêu cực. Phương diện thực tiễn: Trong suốt chiều dài lịch sử xây dựng và phát triển Thủ đô, tiếng Hà Nội trong phương ngữ Bắc đóng một vai trò quan trọng. Tiếng Hà Nội trong phương ngữ Bắc- từ sâu xa trong dân gian đã trở thành một phương ngữ, một tiếng của người" kẻ chợ". Do vậy, việc nghiên cứu tiếng Hà Nội trong phương ngữ Bắc là một trong những vấn đề cấp thiết của cuộc sống, đòi hỏi phải được giải quyết vì hơn nữa ở nước ta có một sự đóng góp rất đa dạng và phong phú của cá tiếng, các phương ngữ ở các vùng, các miền khác nhau. Lịch sử nghiên cứu đề tài: Đã có rất nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu, nhà ngôn ngữ học nghiên cứu về vấn đề này. Họ chủ yếu nghiên cứu và bàn luận về việc" tiếng Hà Nội trong phương ngữ Bắc có phải là tiếng chuẩn của cả nước không?" Cũng có những đề tài nghiên cứu và tìm hiểu tiếng Hà Nội trong phương ngữ Bắc thông qua mặt phát âm những âm như" tr/ ch"," s/ x"," gi/ d/ r". ở đây, nghiên cứu về tiếng Hà Nội trong phương ngữ Bắc từ lúc bắt đầu xuất hiện, tồn tại và phát triển theo chiều dài lịch sử. Ý nghĩa đề tài: Giải quyết được những vấn đề nảy sinh ra khi nghiên cứu tiếng Hà Nội trong phương ngữ Bắc đồng thời góp một phần ý kiến chủ quan về việc đánh giá tiếng Hà Nội trong phương ngữ Bắc. Phương pháp nghiên cứu: Tìm hiểu qua các tài liệu tham khảo, đời sống xã hội cụ thể. Nghe và miêu tả, nhận xét. Nội dung: Tiếng Hà Nội thì phải của người Hà Nội rồi. Nhưng người Hà Nội gốc như nhà văn Hoàng Anh Thái viết trong bài" Hà Nội- con thuyền phù sa" ( in trong Tạp chí Ngày nay số tháng 12- 2004) thì" Khi ấy vẫn phải làm nghề chài lưới. Bà buôn vẫn phải lăn xả xuống bến lội bùn lấy hàng lên. ông đồ, ông kí sao cũng có lúc phải lội nước lên thuyền hoặc lội qua bãi sông ngập nước mà về nhà. Hà Nội gốc mà móng chân vẫn giắt bùn là như vậy". Như vậy thì tiếng Hà Nội cũng thế, không có xuất xứ gì cao siêu, thần thánh, không phải sinh ra đã" tròn, sáng, trong, vang, sang, nhẹ". Nhưng, vấn đề là ở chữ" nhưng". Đó là thứ tiếng được chắt lọc kết tinh ở một vùng đất nổi tiếng hào hoa, thanh lịch. "Tinh hoa gốc rễ hun đúc ở đây. Tinh hoa từ mọi miền mang tới, giao kết hợp chủng mà tạo nên người Hà Nội. Lâu dần cứ cái gì thanh lịch, hào hoa, cao nhã, tinh tế… thì mặc nhiên đều được coi là của người Hà Nội". Cái thứ tiếng không thần thánh, không tầm thường, nhưng được lắng đọng trăm năm, nghìn năm như phù sa màu mỡ, chở hồn người và hồn đất kinh kì ấy là tiếng Hà Nội. Trong những buổi phát thanh tiếng Việt của Đài tiếng nói Việt Nam, các bản tin được truyền đi bằng hai phương ngữ là phương ngữ Bắc Bộ và phương ngữ Nam Bộ (lấy chuẩn là phương ngữ Hà Nội và phương ngữ thành phố Hồ Chí Minh). Phương ngữ Bắc dùng trong giao tiếp ở Bắc Bộ. Phương ngữ này là cơ sở hình thành nên ngôn ngữ văn học. Khi ta để ý cách phát âm của các phát thanh viên, thì trong cách phát âm của họ có sự tự điều chỉnh, trong giới hạn cho phép, theo chuẩn chính tả, để cho tiếng nói của mình có tính khu biệt thật cao làm cho thông báo dễ tiếp nhận nhất. Trong tình hình hiện nay, mặc dù nói có đôi điểm khác nhau, nhưng người Bắc và người ở toàn quốc hiểu phương ngữ thành phố Hồ Chí Minh cũng ngang với phương ngữ Hà Nội, và ngược lại cũng thế, cả toàn quốc hiểu phương ngữ Hà Nội dễ dàng. Đài phát thanh nói bằng hai phương ngữ như vậy chỉ là để cho việc phát thanh đa dạng và tươi mới, chứ không hề vì lí do có hiện tượng phương ngữ Hà Nội hay phương ngữ thành phố Hồ Chí Minh cản trở sự giao tiếp, khó hiểu đối với người nghe. Khi ta nghe các ca sĩ miền Nam hát ta phải thừa nhận cách phát âm của họ khi hát giọng Nam Bộ còn chuẩn hơn tiếng Nam Bộ đã đành, mà khi hát giọng Bắc lại còn chuẩn hơn cả tiếng Hà Nội. Cải lương ngày xưa là thể loại ca kịch nói bằng phương ngữ Nam Bộ, nhưng hiện nay Đoàn cải lương miền Bắc vẫn nói phương ngữ miền Bắc mà công chúng vẫn thích. CHƯƠNG I Tiếng Hà Nội trong mối quan hệ giữa các phương ngữ Bắc – Trung - Nam Cũng giống như mọi sinh ngữ khác, tiếng Hà Nội không ngừng phát triển. Dân một số vùng ở Thái Bình, Hải Dương, Hưng Yên về Hà Nội cứ hồn nhiên kiểu:" Cái nọ nục bình nó năn nông nốc". Trên diễn đàn những người nói tiếng Hà Nội chuẩn cứ phải ngồi nghe diễn giả hùng hồn" nực nượng thanh niên". Thật khó vào. Thật khó thông cảm. Chưa kể trước đông đảo khán, thính giả, người ta không nói" em" mà cứ" i…em". Nhà văn Hoàng Anh Thái trong bài viết" Hà Nội- con thuyền phù sa"( in trong tạp chí Ngày nay số ra tháng 12- 2004) với rất nhiều vấn đề" hồn cốt" của Hà Nội- nào là người Hà Nội gốc, ẩm thực kiểu Hà Nội… nhất là tiếng nói Hà Nội- có lí khi nói" Giá mà điều chỉnh từ cái nho nhỏ như phát âm cho dân dễ nghe hơn? Một chính khách đứng nghĩa còn là một diễn viên, một nhà hùng biện. Nhập gia tuỳ tục thì đâu có sợ tự làm mất gốc". Theo cách phân chia truyền thống về địa lý, tiếng Việt được chia thành ba vùng phương ngữ: miền Bắc (khẩu ngữ là tiếng Bắc); miền Trung( khẩu ngữ là tiếng Trung); miền Nam (khẩu ngữ là tiếng Nam). Trong cảm thức ngôn ngữ thường mang nặng dấu ấn thói quen dân gian của người Việt nên người ở mỗi vùng chỉ có khả năng phân biệt tiếng Bắc với tiếng Nam và tiếng Trung (mà ít phân biệt các tiểu phương ngữ trong mỗi vùng). Nhiều người đó quen gọi ngắn gọn tất cả những gỡ thuộc về“ tiếng Bắc” là tiếng Hà Nội (trừ tiếng vựng Nghệ An- Hà Tĩnh) được gọi là“ tiếng Nghệ”, gọi tất cả những gỡ thuộc về“ tiếng Nam” là“ tiếng Sài Gòn”, những gỡ thuộc về“ tiếng miền Trung” là“ tiếng Huế”. Điều này có nghĩa rằng, sự khác biệt giữa tiếng Bắc với tiếng Nam, với tiếng Trung (và với tiếng Nghệ) là khá điển hình: ở giọng, ở ngôn từ và phần nào cú thể nhận ra ở cả phong cách diễn đạt. Hệ thống thanh điệu của phương ngữ Bắc có sáu thanh:( như trong chính tả), đối lập từng đôi về âm vực và âm điệu. Hệ thống phụ âm đầu có hai mươi âm vị, không có những phụ âm ghi trong chính tả là“ s, r, gi, tr“ tức là không phân biệt s/ x, r/ d/ gi, tr/ ch. Hệ thống âm cuối có đủ các âm cuối ghi trong chính tả. Có ba cặp âm cuối ở thế phân bố bổ túc. Phương ngữ Bắc có thể chia làm ba vùng nhỏ hơn: a) Phương ngữ vòng cung biên giới phía Bắc nước ta. Phần lớn người Việt ở đây mới đến từ các tỉnh đồng bằng có mật độ cao như Thái Bình, Hà Nam Ninh. Do quá trình cộng cư xảy ra trong thời gian gần đây, nên phương ngữ phát triển theo hướng thống nhất với ngôn ngữ văn học, mang những nét khái quát chung của phương ngữ Bắc, và không chia manh mún thành nhiều thổ ngữ làng xã như phương ngữ Bắc ở các vùng đồng bằng, cái nôi của người Việt cổ. b) Phương ngữ vùng Hà Nội và các tỉnh xung quanh( Hà Bắc, Vĩnh Phú, Hà Sơn Bình, Hải Hưng, Hải Phòng) mang những nét đặc trưng tiêu biểu của phương ngữ Bắc. c) Phương ngữ miền hạ lưu sông Hồng và ven biển( Thái Bình, Hà Nam Ninh, Quảng Ninh) còn giữ lại cách phát âm khu biệt“ d“ với“ gi, r“,” s“ với“ x“,” tr“ vơí“ ch“ mà ở các phương ngữ Bắc khác không còn phân biệt nữa. ở Bắc bộ thực tế có những chữ cái đã mất cách phát âm phân biệt, cho nên người ta đặt cho nó những cái tên gọi khác nhau như ” s” là” xờ nặng”,” x ”là ” xờ nhẹ ”,” d ” là” dê trên ”,” gi” là” dê dưới ”,” tr ” là” chờ nặng ”,” ch” là” chờ nhẹ ”,” l” là” nờ( hay lờ) cao ”;” n ” là” nờ( hay lờ) thấp ”… Hệ thống đại từ chỉ trỏ và nghi vấn: Phương ngữ Bắc Phương ngữ Trung Phương ngữ Nam Này ni nầy Thế này ri vầy ấy nớ đó Thế (ấy ) rứa vậy Kia tê đó Kìa tề đó đâu, nào mô đâu, nào sao, thế nào răng sao Hệ thống đại từ xưng hô: Phương ngữ Bắc Phương ngữ Trung Phương ngữ Nam Tôi tui tui Tao tau tao, qua Chúng tôi bầy tui tụi tui … ở phương ngữ Bắc chỉ duy nhất từ “ nhiều“ là có từ phát sinh: bao nhiêu, bấy nhiêu. ở phương ngữ Bắc chỉ nói“ từ rày“ với nghĩa“ từ nay trở đi“, ở phương ngữ Nam còn nói“ hổm rày“ có nghĩa là“ từ hôm ấy đến nay“. ở Bắc bộ và Trung bộ nói một câu đơn giản là:” Hôm nay tôi ăn cơm rất no“, thì người Nam bộ thường nói là: Hôm nay tôi ăn cơm no quá chừng quá đỗi, hoặc no quá trời quá đất … Trong phương ngữ Nam có nhiều từ gần đây vay mượn từ tiếng Chàm, tiếng Khơ me, trong phương ngữ Bắc lại có nhiều từ vay mượn từ tiếng Thái; có những từ Hán Việt này đi vào phương ngữ Bắc, nhưng không dùng trong phương ngữ Nam, trái lại ở trường hợp khác thì phương ngữ Bắc giữ nguyên từ thuần Việt, còn phương ngữ Nam lại vay mượn từ Hán Việt v. v… Biến thể cổ b, đ ở phương ngữ Trung tương ứng với v, z ở phương ngữ Bắc: - bui/ vui, bá/ vá… - đa/ da, đưới/ dưới… Biến thể cổ ở phương ngữ Trung tương ứng với biến thể mới ở phương ngữ Bắc: a) ph, th, kh/ v, z ( d),( g) - ăn phúng/ ăn vụng, phở đất/ vỡ đất… - nhà thốt/ nhà dột, mưa thâm/ mưa dầm… - khải/ gãi, khở/ gỡ… b) ch, k/ j #( gi),( g) - chi/ gì, chừ/ giờ… Những từ có phụ âm đầu khác với ngôn ngữ văn học có thể tìm thấy trong phương ngữ Bắc nhưng không nhiều hiện tượng như ở phương ngữ Trung: dăn deo/ nhăn nheo, duộm/ nhuộm… Ngoài ra còn có sự đối ứng giữa nguyên âm khép hơn ở phương ngữ Trung, phương ngữ Nam với nguyên âm mở hơn ở phương ngữ Bắc: u/ ô, ư/ â - chủi/ chổi, túi/ tối… - chưn/ chân, nhứt/ nhất… Có thể nhận ra sự khác nhau về tiếng giữa ba miền ở giọng. Thí dụ, người Hà Nội nghe người Sài Gũn núi cú cảm giỏc họ khụng cú sự phõn biệt giữa -ac với ỏt( mỏt- mỏc; mắc- mắt); giữa -ai với ay( tai- tay; hai– hay); phỏt õm v thành dz( tức là khụng phõn biệt v với d: vụ– dụ). Người Hà Nội nghe người Huế nói cũng có cảm giác họ không có sự phân biệt giữa thanh hỏi( ?) với thanh ngó( ~): mũ- mủ; cũ- củ. Trong khi đó, người Huế nghe người Hà Nội nói lại có cảm giác người Hà Nội không có sự phân biêt giữa s và x: xôi trong xa xôi với sôi trong nước sôi v. v... Một sự so sánh từ vựng Việt Nam với từ vựng các ngôn ngữ khác ở Đông Nam á cho thấy những sự thay thế nhau của các từ trong các phương ngữ không phải ngẫu nhiên.“ Hoa“ và“ đầu“ là những từ gốc Hán đã được thay thế những từ Nam á, Nam Đảo như“ trốc“( Mường),” bông“( Mã Lai: bonga) ở phương ngữ Bắc trong khi hai từ này vẫn tồn tại ở các phương ngữ phía Nam,” quả“ thay“ trái“ cũng theo qui luật ấy. Đồng thời trong vốn từ miền Bắc có nhiều từ Thái hơn, trái lại trong vốn từ phái Nam có nhiều yếu tố Chàm, Khơme hơn. Trong ba phương ngữ chính, phương ngữ Bắc tiếp thu nhiều từ Hán Việt hay nhiều từ gốc Hán hơn cả. Phương ngữ Bắc vì trải qua sự xây dựng của ngôn ngữ văn học trong đó các nhà nho biết chữ Hán đóng một vai trò không nhỏ cho nên dĩ nhiên nó tiếp thu nhiều từ Hán Việt và gốc Hán hơn. Những yếu tố gốc Hán vào tạo nên những sự xê dịch về mặt nghĩa có thể đi xa đến nỗi ta có những từ đồng âm khác nghĩa ở trong hai phương ngữ Bắc và Trung- Nam. Về mặt từ vựng cũng vậy, có những từ chỉ đặc trưng cho vùng phương ngữ này mà không đặc trưng cho vùng phương ngữ kia. Thí dụ, các từ“ má, ổng, cổ, ảnh, chỉ, ngoải“ v. v... là đặc trưng cho tiếng Sài Gũn;“ miềng, o, rày, rứa“ v. v... là đặc trưng cho tiếng Huế. Người Hà Nội bấy lâu nay cũng có thể nói“ mắc“( giá mắc),“ nhí“( bồ nhí) v. v... nhưng dường như chúng vẫn chưa ăn nhập lắm với giọng Hà Nội( nếu so sánh các phát ngôn có những từ này bằng giọng Sài Gũn). So sỏnh tiếp hai cõu sau cú thể thấy rừ điều này:( 1)“ Anh nhớ viết thư cho em nghen!- Dạ” và( 2)“Anh nhớ viết thư cho em nhé– vâng”. Tuy giá trị thông tin như nhau nhưng thử hỏi nếu đổi câu( 1) là giọng Hà Nội và( 2) là giọng Sài Gũn thỡ chắc chắn là một sự gượng gạo khó mà chấp nhận. ở đa số các phương ngữ Bắc hiện nay, mà tiêu biểu là phương ngữ Hà Nội đã mất đi dãy phụ âm tiền ngạc c, z, s và phụ âm rung r. Ngoài ra phụ âm ngạc, nổ, vô thanh ch được phát âm như một phụ âm tắc– xát đầu lưỡi– răng ở các thế hệ trung và thanh niên Hà Nội. Nếu ta sắp xếp những sự biến đổi ngữ âm ở các vùng phương ngữ nói trên vào chung một quá trình chuyển hoá ngữ âm thì sẽ thấy được lịch sử phát triển tiếng Việt là tiến từ phương ngữ Trung sang phương ngữ Bắ rồi tiếp tục với phương ngữ Nam. Nêú so sánh tiếng Việt của Hà Nội với tiếng Việt từ Nghệ Tĩnh trở vào thì người ta thấy ngay hai thanh( ?) và( ~) ở Bắc lại có sự chuyển mã, khi đối chiếu với tiếng Nghệ Tĩnh, hay tiếng Bình Trị Thiên. Một người Huế nghe người Bắc nói thì chỉ cần chuyển mã thanh( ~) của Bắc thành thanh( ?) của Huế, ngược lại người Bắc nghe( ?) của Huế thì phải giải thích thanh này có thể vừa là( ~) vừa là( ?) và căn cứ vào đó mà xét nội dung của câu nói. Dĩ nhiên khi một người miền Trung nghe một người Hà Nội nói thì về mặt thanh điệu sự chuyển mã khá dễ dàng: anh ta chỉ cần gộp lại làm một hai thanh khu biệt ở Hà Nội là( ?) và( ~) hay gộp( ~) và( .) làm một. Trái lại sự phân biệt về phụ âm đầu thì khó hơn bởi vì anh ta phải tách cùng một âm đầu của Hà Nội như “ ch“ ra thành“ tr“ và“ ch“ và chọn trong hai biểu hiện cái nào phù hợp nhất với thông báo. Trường hợp người Hà Nội giao tiếp với người Huế hay người Nghệ Tĩnh cũng thế. Trong hệ thống thanh điệu truyền thống, thanh( ?) ở âm vực cao, thanh( ~) ở âm vực thấp, nhưng trong phương ngữ Hà Nội hiện nay thì ngược lại, thanh( ?) cao và thanh( ~) thấp. Hệ thống thanh điệu ở Hà Nội : Thanh không có âm điệu bằng phẳng, cường độ không thay đổi, ở âm vực trung bình của lời nói, không có hiện tượng thanh quản hoá hay tắc thanh hầu, tương đối thống nhất trong tất cả các phương ngữ. Thanh huyền có âm điệu hơi đi xuống, có âm vực thấp, cường độ không đổi, không có hiện tượng thanh quản hoá hay tắc thanh hầu. Chỉ khu biệt với thanh không về âm vực: thấp hơn thanh không từ quãng ba đến quãng năm. Thanh ngã có âm điệu biến thiên theo hai chiều: đi xuống với đi lên như hình chữ V với nhánh đi lên cao gấp đôi. Cường độ thay đổi: thanh yếu đi ở khoảng giữa âm tiết và có khi tắt hẳn rồi lại xuất hiện. Chính ở điểm này có hiện tượng tắc thanh hầu. Về âm vực, thanh ngã bắt đầu ở mức thanh huyền. Khoảng cách về âm vực giữa mức bắt đầu và mức kết thúc trung bình bằng một quãng sáu, giữa hai mức thấp nhất và cao nhất có thể đến hai quãng tám. ở lứa tuổi thiếu niên– nhi đồng, thanh ngã được phát âm gần như thanh sắc, nghĩa là sau giai đoạn bắt đầu hơi bằng phẳng, thanh điệu vút lên ngay, không có đoạn trũng xuống. Thanh hỏi có âm điệu biến thiên hai chiều xuống- lên, nhưng không chia hai giai đoạn rõ rệt như ở thanh ngã. Thanh sắc bắt đầu ở độ cao hơi thấp hơn thanh không, đi ngang hay là hơi chúi xuống ở đoạn đầu, sau đó vút cao lên thông thường vào khoảng một quãng năm, có khi đến một quãng tám ở giọng nữ. Trong những âm tiết khép( có –p, -t, -ch, -k đứng cuối), thanh sắc nhập thanh thiếu hẳn phần đi ngang lúc bắt đầu, âm điệu cao vút lên, nhất là ở những âm tiết ngắn( có nguyên âm ngắn) thanh sắc có trường độ rất ngắn và chỉ có đoạn cao vút ở phần cuối. Hiện tượng thanh quản hoá mạnh, làm cho phụ âm cuối vô thanh đôi khi trở thành hữu thanh ở giai đoạn đầu. Thanh nặng bắt đầu ở độ cao khởi điểm của thanh huyền, có âm điệu đi ngang hay hạ dần như thanh huyền, đến 1/ 3 thanh điệu thì đi xuống với độ dốc lớn hơn, và kết thúc bằng cái tắc thanh hầu. Cường độ của thanh điệu tăng dần và hiện tượng thanh quản hoá mạnh dần khi âm điệu tụt xuống. Thanh nặng có trường độ ngắn nhất trong hệ thống. ở âm tiết khép thanh nặng nhập thanh có âm điệu đi xuống theo một độ dốc lớn, không có đoạn đi ngang lúc bắt đầu, kết thúc đột ngột bằng cái tắc thanh hầu. Hệ thanh điệu Hà Nội tuy có biến đổi so với hệ thanh điệu truyền thống, nhưng vẫn duy trì được các cặp đối lập về âm vực và tương liên về âm điệu vô cùng cân đối: không/ huyền, sắc/ nặng, ngã/ hỏi, cũng vậy, ở các hệ thanh điệu Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh cũng giữ được các cặp đối lập về âm vực và tương liên về âm tiết: không/ huyền, sắc/ nặng. Người Bắc có thể nhận ra những khác biệt nổi trội làm nên đặc thù cho một số tiểu phương ngữ, rừ nhất là ở giọng. Thớ dụ, người Bắc nếu để ý một chút, sẽ phân biệt được tiếng của một số vùng: tiếng Sơn Tây với thanh huyền phát âm cao hơn một bậc và sự xích lại của thanh nặng với thanh huyền; tiếng vùng Hải Phũng, Hải Dương với sự lẫn lộn trong cách phát âm n/ l và cách phát âm e như ie; tiếng Thái Bỡnh với cỏch phỏt õm với õm r rung mạnh, tr được phát âm uốn lưỡi nhưng hầu như mất r v. v... Theo cỏch nhỡn nhận kiểu“ loại trừ” này thỡ mặc nhiờn trước hết, những tiếng nào có những đặc điểm trên sẽ không phải là tiếng Hà Nội. Cũn tiếng Hà Nội cú đặc trưng gỡ để“ hễ nghe đến là biết ngay” vẫn là một câu hỏi. Đứng về góc độ uy tín trong toàn quốc mà nói thì không một phương ngữ nào sánh nổi với phương ngữ Hà Nội. Hà Nội là nơi hội tụ của văn hoá đất nước từ thế kỉ mười cho đến nay( trừ thời gian kinh đô chuá Nguyễn chuyển về Huế). Phương ngữ ấy hơn hẳn về mặt số lượng từ, các sắc thái ngữ nghĩa. Trong thế kỉ này, phong trào tiểu thuyết mới, thơ mới, văn học chủ yếu là phát triển trên cơ sở phương ngữ Hà Nội. Suốt thời gian sau Cách mạng tháng Tám cũng trên cơ sở này mà ngôn ngữ có những đóng góp to lớn với trên một triệu thuật ngữ khoa học. Hiện nay, ngôn ngữ toàn dân là dựa trên phương ngữ Hà Nội. Chỗ mạnh nhất của phương ngữ này là hệ thống thanh điệu sẽ làm thành sự đóng góp chính của nó vaò ngôn ngữ toàn dân. Một người Nghệ Tĩnh sống ở Hà Nội tất yếu thấy mình cần phải thay đổi đôi chút trong cách phát âm, cụ thể về thanh điệu chẳng hạn, để cho người Hà Nội nghe dễ hơn, tức là trong cách phát âm của anh ta đã pha và không dùng các từ ngữ địa phương nữa. Một em bé Nam Bộ sống ở Bắc thường nói một thứ tiếng dễ hiểu đối với cả miền Nam lẫn miền Bắc, bởi vì ở nhà em nói phương ngữ Nam Bộ với cha mẹ, ra đường em nói một phương ngữ gần với phương ngữ Hà Nội. CHƯƠNG II Tiếng Hà Nội với tiếng Việt toàn dân Có lẽ chẳng ai còn giật mình nữa khi có người" cảnh báo" tiếng Hà Nội có còn không khi cơ cấu dân cư Hà Nội trong thời gian mấy chục năm đã phát triển, xáo trộn đến từng gốc rễ. Còn nhà văn Hồ Anh Thái của chúng ta viết trong bài" Hà Nội- con thuyền phù sa"( in trong tạp chí Ngày nay số ra tháng 12- 2004) với rất nhiều vấn đề" hồn cốt" của Hà Nội- nào là người Hà Nội gốc, ẩm thực kiểu Hà Nội… nhất là tiếng nói Hà Nội có lẽ vì lòng yêu mến, tiếc nuối cho sự" bị" pha trộn của tiếng Hồ Gươm thì chỉ tự hỏi:" Nhưng bây giờ, liệu có thể coi là Hà Nội đang tràn ngập cái thứ tiếng mà cách đây vài ba chục năm còn là tiếng ngoại thành, tiếng chợ giời?" Ai muốn tìm câu trả lời thì nên vào quán bia, chịu khó dừng lại chỗ đám va chạm xe cộ, thậm chí đứng trước cổng một số trường trung học cơ sở hoặc phổ thông trung học. Nhưng nhà văn Hoàng Anh Thái vẫn trong bái viết" Hà Nội- con thuyền phù sa"( in trong tạp chí Ngày nay số ra tháng 12- 2004) với rất nhiều vấn đề" hồn cốt" của Hà Nội- nào là người Hà Nội gốc, ẩm thực kiểu Hà Nội… nhất là tiếng nói Hà Nội nói thế rồi lại phải tin:" Tiếng Hà Nội vẫn còn đó. Hồn Việt tiếng Việt vẫn phải nương vào giọng phát âm Hà Nội để biểu đạt âm thanh ở mức đẹp nhất. Một thứ tiếng trong trẻo, nhẹ nhõm, nhẹ đến mức phạm luật phát âm, người nghe khó phân biệt xờ với sờ, chờ với trờ… Nhưng cái nhẹ nhõm khiếm khuyết vẫn được yêu, như người ta yêu cái dịu dàng có phần yếu đuối của thiếu nữ". Khỏi niệm tiếng Việt toàn dõn( hay tiếng Việt chuẩn) cũn cú những ý kiến khỏc nhau. Tuy nhiờn, trờn thực tế, tiếng Việt bấy lõu nay vẫn lấy cỏch phỏt õm miền Bắc và từ vựng của tiếng Việt miền Bắc mà tõm điểm là tiếng Hà Nội làm cơ sở. Điều đáng chú ý là, trong sự cố gắng xây dựng một tiếng Việt chung, người ta muốn đưa các yếu tố tích cực,“ trội”, của một số cách phát âm từ các phương ngữ khác vào tiếng Hà Nội( chẳng hạn như, phải phân biệt được cách phát âm tr/ ch; s/ x; r/ d v. v...). Mặc dự vậy, tiếng Việt như một phương ngữ tiêu biểu vẫn chỉ được thể hiện ở cách viết mà chưa thể hiện được ở giọng“ chu