Triết học Mác xuất hiện vào những năm giữa và cuối thế kỉ XIX. Sự xuất hiện của triết học Mác là một tất yếu lịch sử, một hiện tượng hợp qui luật biện chứng, khách quan và qui luật phát triển tư duy với sự sáng tạo thiên tài của các nhà sáng lập - Mác và Ăngghen. Nó ra đời là do những đòi hỏi bức thiết của điều kiện về kinh tế - xã hội, lý luận và khoa học trong xã hội tư bản lúc bấy giờ chứ hoàn toàn không phải là một điều gì đặc biệt hay một sự độc thoại và tự dành cho mình quyền được áp đặt sự phát ngôn chân lý cuối cùng như các học giả tư sản thường tuyên truyền
9 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2472 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Bước ngoặt lịch sử trong triết học do Mac và Ănghen thực hiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu
Triết học Mác xuất hiện vào những năm giữa và cuối thế kỉ XIX. Sự xuất hiện của triết học Mác là một tất yếu lịch sử, một hiện tượng hợp qui luật biện chứng, khách quan và qui luật phát triển tư duy với sự sáng tạo thiên tài của các nhà sáng lập - Mác và ăngghen. Nó ra đời là do những đòi hỏi bức thiết của điều kiện về kinh tế - xã hội, lý luận và khoa học trong xã hội tư bản lúc bấy giờ chứ hoàn toàn không phải là một điều gì đặc biệt hay một sự độc thoại và tự dành cho mình quyền được áp đặt sự phát ngôn chân lý cuối cùng như các học giả tư sản thường tuyên truyền. Chúng ta thấy rằng đã có sự hiện diện của các tiền đề về mặt kinh tế - xã hội, lý luận và khoa học tự nhiên tạo điều kiện thuận lợi và cấp thiết cho sự ra đời của triết học Mác. Triết học Mác thực sự đã là sự kết tinh tất cả những giá trị cao quý của tư duy triết học, văn học và các khoa học khác của lịch sử nhân loại vào thời điểm ra đời đó. Đặc biệt triết học Mác - khác với các triết học trước nó - là sự tiếp thụ và kế thừa một cách có chọn lọc, có tính phê phán những tư tưởng triết học của nhân loại nói chung và của nền triết học Đức nói riêng, đồng thời tiếp thu kế thừa cả các di sản của các khoa học khác một cách hết sức sáng tạo. Hơn thế nữa sự ra đời của triết học Mác còn là một bước ngoặt cách mạng, là đỉnh cao trong sự phát triển lý luận triết học. Chính triết học Mác đã mở ra một thế giới quan và phương pháp luận hoàn toàn mớimẻ, tiến bộ và khoa học cho toàn nhân loại nói chung và cho giai cấp vô sản nói riêng. Và tiếp theo đến lượt nó triết học Mác lại tạo ra những tiền đề mới cho sự phát triển toàn diện của các lĩnh vực khoa học và đời sống xã hội, đưa nhân loại bước vào một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên phát triển “sau triết học Mác”.
Dưới đây chúng ta sẽ đi vào làm sáng tỏ những luận điểm chứng minh cho sự ra đời một cách tất yếu của triết học Mác từ các tiền đề về kinh tế-xã hội, lý luận, khoa học tự nhiên đồng thời chỉ rõ thực chất bước ngoặt cách mạng và ý nghĩa của nó đem lại trong triết học do C.Mác và Ph.ăngghen thực hiện.
1- Các tiền đề cho sự ra đời một cách tất yếu của triết học Mác.
1.1 - Các tiền đề về mặt kinh tế - xã hội:
Chủ nghĩa Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX ở Tây âu. Đó chính là thời kỳ chủ nghĩa tư bản (CNTB) bước sang giai đoạn phát triển mới nhờ tác động của cuộc cách mạng công nghiệp. Nước Anh đã trở thành cường quốc TBCN lớn nhất với lực lượng công nghiệp hùng mạnh. Cuộc cách mạng công nghiệp ở Pháp đang được hoàn thành, ở Đức cũng như ở tại một số nước Tây âu khác, cuộc cách mạng cũng làm cho phương thức sản xuất TBCN lớn lên nhanh chóng trong lòng xã hội phong kiến. Nhờ vậy, tính hơn hẳn của CNTB so với chế độ phong kiến được thể hiện một cách rõ rệt hơn lúc nào hết. Giai cấp tư sản trong quá trình thống trị xã hội chưa đầy một thế kỷ đã tạo ra một lực lượng sản xuất lớn hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại.
Mặt khác, sự phát triển mạnh mẽ của CNTB đã làm cho các mâu thuẫn xã hội vốn có của nó bộc lộ ngày càng gay gắt (mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa). Nhiều cuộc đấu tranh của công nhân đã mang ý nghĩa của cuộc đấu tranh giai cấp. Cuộc khởi nghĩa của thợ dệt Liông (Pháp) năm 1831 và lại nổ ra năm 1834 đã vạch ra một điều bí mật quan trọng - đó là cuộc đấu tranh bên trong, diễn ra trong xã hội, giữa giai cấp của những người có của và giai cấp của những kẻ không có gì hết... ở Anh có phong trào Hiến chương (vào cuối những năm 30) đây là phong trào cách mạng vô sản to lớn đầu tiên, thực sự có tính chất quần chúng và tính chất chính trị. Nước Đức còn đang ở vào đêm trước của cuộc cách mạng tư sản, song phong trào vô sản cũng đã được phát triển: Từ cuộc khởi nghĩa tự phát của thợ dệt ở Xilêdi năm 1844 đến sự xuất hiện của “Đồng minh những người chính nghĩa” - một tổ chức vô sản cách mạng.
Các cuộc đấu tranh này đã chứng tỏ sự trưởng thành, lớn mạnh của giai cấp vô sản và phong trào công nhân cả về qui mô và tính chất và họ đã trở thành lực lượng đối kháng với giai cấp tư sản. Đồng thời nó cũng chứng tỏ một điều hết sức quan trọng là vai trò lịch sử của giai cấp tư sản như là một lực lương cách mạng và tiến bộ của xã hội đã đến hồi kết.
Nhưng khách quan nhìn nhận chúng ta thấy rằng phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ở các nước tư bản phát triển lúc này vẫn còn mang tính tự phát, thiếu tổ chức do chưa có được một nhận thức đầy đủ về cơ sở, mục đích, bản chất của cuộc đấu tranh và sứ mệnh cao cả của giai cấp vô sản.
Tất cả những điều đó đã đặt ra một đòi hỏi hết sức khách quan và cấp thiết là phải có một vũ khí lí luận khoa học có tính dẫn đường cho phong trào cách mạng để giai cấp vô sản thực sự trở thành giai cấp tiến bộ, cách mạng được trang bị lý luận và có khả năng thực tiễn thực hiện triệt để mục đích cuộc đấu tranh giai cấp của họ là tự giải phóng mình và toàn thể quần chúng lao động bị áp bức bóc lột .
C.Mác và Ph.Ăng-ghen sống trong thời đại đó đã nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc trên tinh thần phê phán tất cả những gì mà tư tưởng loài người đã sáng tạo ra. Hơn thế nữa chính hai ông đã thực sự chiến đấu trong phong trào cách mạng của giai cấp công nhân, khái quát những kinh nghiệm đấu tranh của phong trào công nhân.
Chính từ đó triết học Mác ra đời và nó vừa gắn với lý luận vừa mang hơi thở của thực tiễn. Vì vậy triết học Mác đã phản ánh đúng đắn lịch sử khách quan phong trào đấu tranh cách mạng, nguyện vọng và lợi ích chân chính của giai cấp vô sản và quần chúng lao động bị áp bức bóc lột trên toàn thế giới. Triết học Mác ra đời vào lúc đó đã đáp ứng kịp thời yêu cầu cấp bách và khách quan cho phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và thực sự trở thành một học thuyết khoa học có tính chất dẫn đường đưa phong trào đấu tranh cách mạng đó đi từ tự phát đến tự giác.
Với sự hiện diện của triết học Mác, giai cấp công nhân đã tìm thấy ở đó vũ khí tinh thần đúng như Mác đã nói: “Cũng giống như triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô sản thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình”.
1.2 Tiền đề về lí luận .
Sự xuất hiện triết học Mác nói riêng và chủ nghĩa Mác nói chung không chỉ là một tất yếu do các điều kiện kinh tế - xã hội đòi hỏi như đã chứng minh ở phần trên mà còn là một tất yếu do đòi hỏi về lý luận của thời đại.
Lý luận Mácxít xuất hiện không tách rời con đường văn minh chung của nhân loại mà trực tiếp là những trào lưu tư tưởng và lý luận ở châu âu. Đó là nền triết học cổ điển Đức (mà đại biểu là Cantơ, Phíchtơ, Sêlinh, Hêghen, Phơbach), nền kinh tế chính trị học Anh (với các đại biểu là Đ.Ricacđô và A.Smith) cũng như các học thuyết về chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp - đại biểu là Xanh Ximông và Anh - đại biểu là Ôoen. Trái lại toàn bộ thiên tài của Mác và Ăng ghen là ở chỗ các ông đã tiếp thu, kế thừa một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán những tư tưởng lý luận đó đặc biệt là tư tưởng duy vật của Phơbach và phép biện chứng của Hêghen.
Phép biện chứng của Hê ghen và chủ nghĩa duy vật của Phơbách như Mác và Ăngghen đã thừa nhận là một trong những tiền đề lý luận trực tiếp của triết học Mác:
Hai ông đã đánh giá rất cao vai trò triết học của Hêghen - người đầu tiên trong lịch sử triết học trên cơ sở triết học duy tâm đã xây dựng hệ thống các phạm trù, quy luật của phép biện chứng. Đồng thời hai ông phê phán quyết liệt chủ nghĩa duy tâm của Hê ghen trong học thuyết về "ý niệm tuyệt đối”, trong quan niệm về nhà nước pháp quyền, chỉ ra mâu thuẫn giữa hệ thống triết học duy tâm và phương pháp biện chứng. Từ đó hai ông đã rút ra được hạt nhân quí báu trong triết học của Hêghen là phép biện chứng và đã cải tạo, giải phóng cho nó từ đó xây dựng nên phép biện chứng duy vật, thực sự tạo ra một bước ngoặt cách mạng trong triết học.
Ngoài Hêghen thì Phơbách cũng có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành các quan điểm triết học của Mác và Ăngghen. Phơbách đã từ bỏ chủ nghĩa duy tâm của Hê ghen một cách triệt để, ông phê phán mạnh mẽ tôn giáo, bác bỏ quan niệm sai lầm của phái Hêghen trẻ đã lẫn lộn tự nhiên với ý thức. Phơbach khẳng định tự nhiên là tính thứ nhất không phụ thuộc vào con người và tồn tại vĩnh viễn không do ai sáng tạo ra. Con người cũng là sản phẩm của giới tự nhiên. Thần thánh không sáng tạo ra con người mà chính con người sáng tạo ra thần thánh theo hình mẫu của mình tuỳ thuộc vào những điều kiện sống nhất định. Chủ nghĩa duy vật của Phơ bách về tự nhiên đã được thể hiện khá triệt để. Mác và Ăngghen đã kế thừa và phát triển nó lên thành một triết học khoa học. Tuy vậy hai ông cũng phê phán những sai lầm của Phơbách như: Quan điểm siêu hình trực quan, duy tâm về mặt xã hội, ông không nhận thức được bản chất của xã hội của con người, bản chất đặc thù được quy định bởi hoạt động lao động sản suất và do đó trong triết học của mình Phơbach chỉ thấy con người về mặt sinh học, coi con người chỉ là con người chung chung, trừu tượng, siêu giai cấp, phi lịch sử, tách rời khỏi những mối quan hệ xã hội. Điều đó chứng tỏ rằng ông chưa hiểu đúng và còn có những quan niệm sai lầm về các vấn đề thực tiễn xã hội. Ngoài ra khi từ bỏ chủ nghĩa duy tâm của Hêghen, Phơbách đã vứt bỏ luôn cùng với nó hạt nhân hợp lý là phép biện chứng. Vì vậy khi nói về Phơbách, Mác và Ăngghen đã chỉ ra rằng: “Khi Phơbách là nhà duy vật thì ông không bao giờ vận dụng đúng lịch sử, còn khi ông có tính đến lịch sử thì ông không phải là nhà duy vật, ở Phơbách lịch sử và chủ nghĩa duy vật hoàn toàn tách rời nhau”.
Tuy nhiên sự ra đời của triết học Mác còn là kết quả của sự tiếp thu các tinh hoa tư tưởng triết học của nhân loại. Một cơ sở nữa không thể thiếu được để tạo ra các quan đểm duy vật về lịch sử trong triết học Mác và khắc phục tính chất duy tâm trong các quan niệm về xã hội của chủ nghĩa duy vật trước Mác là việc nghiên cứu và cải tạo các học thuyết kinh tế chính trị học của Anh với các đại biểu là A.Xmít và Đ.Ricacđô. Mác và Ăngghen kế thừa qui luật giá trị Tiền-Hàng-Tiền của kinh tế chính trị học Anh, và tìm ra quy luật giá trị thặng dư trong phương thức sản suất tư bản chủ nghĩa. Giá trị thặng dư là một trong hai phát kiến vĩ đại nhất của Mác và Ăngghen.
Mác và Ăngghen cũng nghiên cứu và phê phán những tư tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa không tưởng từ năm 1843 đặc biệt là qua các đại biểu Xanh Ximông, Phuriê và Ôoen. Các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng muốn xây dựng một xã hội cộng sản như kiểu một xã hội tồn tại hoàn toàn tách rời khỏi xã hội hiện thực, muốn cảm hoá con người bằng tình thương để làm gương cho giai cấp tư sản. Một “ốc đảo” mơ ước như vậy giữa trùng khơi của xã hội tư bản hoàn toàn là điều không tưởng và không chóng thì chầy nó sẽ bị biển khơi hung dữ và bạo tàn kia nhấn chìm, nuốt chửng. Theo quan điểm của Mác và Ăng ghen trong xã hội có đối kháng giai cấp thì đấu tranh giai cấp là động lực phát triển trực tiếp của xã hội có giai cấp. Đấu tranh giai cấp tất nhiên dẫn đến chuyên chính vô sản. Chuyên chính vô sản là tiếp tục đấu tranh giai cấp để xoá bỏ áp bức bóc lột tiến tới xoá bỏ giai cấp, xây dựng một xã hội không còn giai cấp - xã hội cộng sản văn minh. Nghiên cứu và phê phán tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng đã giúp Mác và Ăngghen hiểu một cách duy vật biện chứng về đời sống xã hội và dự báo được sự phát triển tương lai của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa.
1.3 Tiền đề khoa học tự nhiên
Ngoài hai điều kiện khách quan tạo tiền đề cho sự xuất hiện triết học Mác về phương diện kinh tế-xã hội và lý luận như đã dẫn, chúng ta còn cần phải thấy rõ rằng triết học Mác là một hình thức lịch sử mới và cao nhất của chủ nghĩa duy vật cũng được chuẩn bị bởi một tiền đề khách quan nữa về phương diện khoa học .Đó chính là những thành tựu mới đạt được của khoa học trên nền tảng của khoa học tự nhiên ở vào thời điểm đó. Như đã biết sự phát triển của khoa học tự nhiên trong các thế kỷ XVII và XVIII là sự phát triển của các khoa học cụ thể, nghiên cứu các vấn đề riêng rẽ của tự nhiên theo phương pháp siêu hình. Nhưng cho đến cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX thì sự phát triển của khoa học tự nhiên đã chuyển sang một giai đoạn mới - giai đoạn phát triển khoa học tự nhiên lý luận. Chính sự phát triển này đã đòi hỏi và thúc đẩy việc phải chuyển phương pháp nghiên cứu từ siêu hình, máy móc, chia cắt và ngưng đọng các đối tượng nghiên cứu sang phương pháp biện chứng nghĩa là trình bày sự phát triển của tự nhiên như một quá trình vận động, liên hệ và thống nhất.
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển rất mạnh đem lại nhiều thành tựu rực rỡ với nhiều phát minh mang tính vạch thời đại. Trong đó đặc biệt là ba phát minh vĩ đại trong khoa học tự nhiên đã có ý nghĩa rất lớn đối với sự hình thành triết học Mác và là tiền đề khoa học trực tiếp cho sự khái quát lý luận của triết học duy vật biện chứng. Đó là: Định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng của Mâyơ, Giulơ, Côndinh (1842); học thuyết về tế bào của Svan, Slâyđen và thuyết tiến hoá của Đácuyn (1859).
Với những phát minh lớn của khoa học tự nhiên đã làm cho “quan niệm mới về giới tự nhiên” đã được hoàn thành trên những nét cơ bản: Tất cả những cái gì , là cứng nhắc đều tan ra, tất cả những cái gì là cố định đều biến thành mây khói, và tất cả những gì đặc biệt mà người ta cho là tồn tại vĩnh cửu thì trở thành nhất thời. Hơn thế nữa, người ta đã chứng minh được rằng: toàn bộ giới tự nhiên đều vận động theo một dòng tuần hoàn vĩnh cửu.
Phát minh thứ nhất cho phép vạch ra mối liên hệ thống nhất giữa các hình thức vận động khác nhau của thế giới vật chất. Mọi sự vật và hiện tượng tồn tại trong vận động và gắn liền với vận động; trong tự nhiên có nhiều hình thức vận động và các hình thức này có thể chuyển hoá lẫn nhau, khi chuyến hoá lẫn nhau năng lượng của nó được bảo toàn. Phát minh thứ hai chứng minh cho sự thống nhất, sự phát triển từ thấp đến cao, từ giản đơn đến phức tạp của thế giới sinh vật. Nó cung cấp quan điểm DVBC tạo tính khái quát thống nhất về thế giới vật chất. Phát minh thứ ba giải thích tính chất biện chứng của sự phát triển phong phú đa dạng của các giống loài trong thế giới tự nhiên hữu sinh. Chứng minh con người là kết quả của sự tiến hoá của vật chất chứ không phải là do thượng đế hay một đấng tối cao nào sinh ra. Ba phát minh này cùng với nhiều thành tựu lớn khác của khoa học tự nhiên đã giáng một đòn rất mạnh vào chủ nghĩa duy tâm tôn giáo và phương pháp siêu hình trong quan niệm về thế giới, nó đã tạo điều kiện cho Mác và Ăngghen khái quát lên những luận điểm cơ bản của triết học duy vật biện chứng.
Mác và Ăng ghen đã xây dựng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử như một triết học phù hợp với sự phát triển của các khoa học cụ thể (cả các khoa học tự nhiên và và khoa học xã hội), đồng thời trở thành thế giới quan và phương pháp luận cho các khoa học đó.
1-4 Nhân tố chủ quan trong sự hình thành triết học Mác
Triết học Mác xuất hiện không chỉ là kết quả của sự vận động và phát triển tất yếu từ các nhân tố có tính chất tiền đề khách quan về phương diện kinh tế-xã hội, lý luận và khoa học tự nhiên như đã dẫn ở trên mà còn là kết quả của sự vận động và phát triển của nhân tố chủ quan. Đó là thiên tài của Mác và Ăng ghen, lập trường giai cấp vô sản và tình bạn vĩ đại của hai ông. Lê nin chỉ rõ rằng: “Thiên tài của Mác chính là ở chỗ ông đã giải đáp được những vấn đề mà tư tưởng tiên tiến của nhân loại đã nêu ra”.
C.Mác ngoài với tư cách là một nhà khoa học vĩ đại còn là một nhà cách mạng nồng nhiệt. ông coi khoa học trước hết là một động lực cách mạng, triết học phải góp phần thúc đẩy sự nghiệp tổ chức phong trào công nhân và cuộc đấu tranh cách mạng nhằm lật đổ chủ nghĩa tư bản, dành thắng lợi cho chủ nghĩa xã hội. Ông có một trí tuệ uyên bác đặc biệt, có sự nhạy cảm chính trị và tầm nhìn rộng lớn bao quát mọi lĩnh vực và ở nhiều lĩnh vực ông đã đưa ra được những kết luận thiên tài. C.Mác đã tìm được ở Ăngghen một người cùng tư tưởng, một người bạn, người đồng chí trung thành, người trợ lực gắn bó mật thiết trong sự nghiệp khoa học và đấu tranh cách mạng. Nói về tình bạn vĩ đại này Lênin viết: "Giai cấp vô sản châu âu có thể nói rằng khoa học của mình là tác phẩm sáng tạo của hai nhà bác học kiêm chiến sĩ mà tình bạn đã vượt xa tất cả những gì là cảm động nhất trong những truyền thuyết của đời xưa kể về tình bạn của con người”.
Trước khi học thuyết của Mác và Ăngghen xuất hiện phong trào công nhân châu âu còn mang tính chất tự phát, không có tổ chức. Giai cấp vô sản chưa giác ngộ về địa vị thực sự của mình, chưa thấy con đường và biện pháp đấu tranh đúng đắn chống áp bức bóc lột tư bản. Sống trong phong trào công nhân được tận mắt chứng kiến sự bất công giữa ông chủ tư bản và người lao động và thông cảm với họ nên Mác và Ăngghen đã đứng về phía những người cùng khổ, đấu tranh không mệt mỏi vì lợi ích của họ, trang bị cho họ một công cụ sắc bén để nhận thức và cải tạo thế giới với thiên tài khoa học, lập trường giai cấp vô sản kiên định và tình bạn vĩ đại. Mác và Ăngghen đã làm cho tư tưởng xã hội chủ nghĩa từ không tưởng trở thành khoa học.
Tóm lại: Triết học Mác cũng như toàn bộ chủ nghĩa Mác đã ra đời như một tất yếu lịch sử, không những vì nó là là sự phản ánh thực tiễn xã hội, nhất là thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân mà còn là sự phát triển hợp lôgíc cua rlichj sử tư tưởng nhân loại.
2 - Thực chất bước ngoặt cách mạng do Mác và ăngghen thực hiện trong lĩnh vực triết học.
Sự ra đời của triết học Mác tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng trong lịch sử phát triển của nhân loại.
Mác và ăngghen đã kế thừa một cách có phê phán những thành tựu của tư duy nhân loại, sáng tạo nên chủ nghĩa duy vật triết học triệt để, không điều hoà với chủ nghĩa duy tâm siêu hình.
Triết học Mác đã khắc phục sự tách rời thế giới quan duy vật và phép biện chứng trong lịch sử phát triển của triết học. Cố nhiên, trong các học thuyết triết học duy vật trước Mác đã chứa đựng không ít những luận điểm riêng biệt thể hiện tinh thần biện chứng, song do sự hạn chế của điều kiện xã hội và trình độ phát triển của khoa học nên tính siêu hình vẫn là một nhược điểm chung của chủ nghĩa duy vật triết học trước Mác. Trong khi đó, phép biện chứng lại được phát triển trong cái vỏ duy tâm thần bí của một số đại biểu triết học cổ điển Đức, đặc biệt là trong triết học của Hêghen. Tuy nhiên, chủ nghĩa duy vật biện chứng không phải là sự “lắp ghép” giữa phép biện chứng của Hêghen với chủ nghĩa duy vật của Phơbach, mà để xây dựng nên triết học duy vật biên chứng, Mác đã phải cải tạo cả chủ nghĩa duy vật cũ lẫn phép biện chứng duy tâm của Hêghen, đúng như Mác nói: “Phương pháp biện chứng của tôi không những khác với phương pháp của Hêghen về cơ bản, mà còn đối lập hẳn với phương pháp ấy nữa...”. Giải thoát chủ nghĩa duy vật khỏi tính hạn chế siêu hình, Mác đã làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên “hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người, chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học”. Đó là một cuộc cách mạng thực sự trong triết học về xã hội, yếu tố chủ yếu của bước ngoặt cách mạng do Mác và ăngghen thực hiện trong lĩnh vực triết học.
Với sự ra đời của triết học Mác, Vai trò xã hội của triết học cũng như vị trí của triết học trong hệ thống tri thức khoa học cũng biến đổi. Lần đầu tiên trong lịch sử triết học của nhân loại, triết học Mác đã khai phá ra bản chất của thực tiễn, đặc biệt là thực tiễn cách mạng. Chỉ ra vai trò của thực tiễn đối với lý luận nhận thức, đối với sự phát triển của tất cả các khoa học, đối với tiến trình lịch sử nói chung. Cho nên sự khác nhau cơ bản giữa triết học Mác với tất cả những học thuyết triết học trước kia là ở chỗ “Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”. Luận điểm này của Mác đã nói lên sự khác nhau về chất giữa triết học của ông với các học thuyết triết học trước đó, kế cả những học thuyết triết học duy vật trước Mác. Tuy nhiên, Mác không hề phủ nhận, mà trái lại Mác đánh giá cao vai trò của các nhà triết học và các học thuyết triết học tiến bộ trong sự ph