Ca dao, tục ngữlà tiếng nói của dân gian Việt, trải qua nhiều 
thời đại, từthời xưa và đến cảthời nay. Ca dao, tục ngữphản ảnh 
tâm tư, tình cảm của người dân trong sinh hoạt hằng ngày, không 
chỉ ởnơi đồng nội mà còn ởthành thị, kinh đô. Tuy là ngôn ngữ
dân gian, nhưng ca dao, tục ngữkhông phải là tiếng nói bình 
thường mà là ngôn ngữcó vần điệu, ngắn gọn và vì ngắn gọn, có 
vần điệu nên dễphổbiến rộng rãi trong quần chúng. 
Từtrước, người ta thường có quan niệm rằng ca dao, tục ngữlà 
văn chương bình dân, phát xuất từnông thôn, thật sựca dao tục 
ngữlà tiếng nói của nhiều tầng lớp dân chúng, và có lẽphần lớn 
tác giảlà những kẻsĩ, cưngụ ởkhắp nơi, từthành thị đến nông 
thôn. 
Ca dao, tục ngữlà loại văn chương truyền khẩu, biểu hiện nhiều 
mặt sinh hoạt của quần chúng Việt Nam, nhất là vềmặt tình cảm, 
nên trong ca dao rất phong phú khúc hát trữtình. Ngoài ra, đặc biệt 
ca dao, tục ngữcòn biểu lộnhững nhận định của dân chúng đối với 
những hành vi tốt, xấu của con người trong xã hội khi giao tiếp với 
nhau, hay bình luận, phê phán giới lãnh đạo trong chính quyền 
hiện tại, hoặc trong quá khứ, tức là những nhân vật lịch sửvà các 
biến cốliên quan đến vận mệnh dân tộc và đất nước.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
13 trang | 
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2330 | Lượt tải: 1
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Ca dao và lịch sử, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ca Dao và Lịch Sử 
Phương Nghi 
Ca dao, tục ngữ là tiếng nói của dân gian Việt, trải qua nhiều 
thời đại, từ thời xưa và đến cả thời nay. Ca dao, tục ngữ phản ảnh 
tâm tư, tình cảm của người dân trong sinh hoạt hằng ngày, không 
chỉ ở nơi đồng nội mà còn ở thành thị, kinh đô. Tuy là ngôn ngữ 
dân gian, nhưng ca dao, tục ngữ không phải là tiếng nói bình 
thường mà là ngôn ngữ có vần điệu, ngắn gọn và vì ngắn gọn, có 
vần điệu nên dễ phổ biến rộng rãi trong quần chúng. 
Từ trước, người ta thường có quan niệm rằng ca dao, tục ngữ là 
văn chương bình dân, phát xuất từ nông thôn, thật sự ca dao tục 
ngữ là tiếng nói của nhiều tầng lớp dân chúng, và có lẽ phần lớn 
tác giả là những kẻ sĩ, cư ngụ ở khắp nơi, từ thành thị đến nông 
thôn. 
Ca dao, tục ngữ là loại văn chương truyền khẩu, biểu hiện nhiều 
mặt sinh hoạt của quần chúng Việt Nam, nhất là về mặt tình cảm, 
nên trong ca dao rất phong phú khúc hát trữ tình. Ngoài ra, đặc biệt 
ca dao, tục ngữ còn biểu lộ những nhận định của dân chúng đối với 
những hành vi tốt, xấu của con người trong xã hội khi giao tiếp với 
nhau, hay bình luận, phê phán giới lãnh đạo trong chính quyền 
hiện tại, hoặc trong quá khứ, tức là những nhân vật lịch sử và các 
biến cố liên quan đến vận mệnh dân tộc và đất nước. 
Trường hợp này, ca dao, tục ngữ có thể xem là một hình thức 
ngôn luận của quần chúng ở thời đại xưa, khi xã hội chưa phát 
triển, chưa có điều kiện phổ biến dư luận của người dân như là báo 
chí hoặc các hình thức thông tin trong thời đại mới, mặc dù từ 
trước đã có thư tịch nhưng chỉ là để chuyển tải văn chương, sử 
liệu, mô phạm (thánh mô hiền phạm) v...v... 
Bài viết này chỉ đề cập đến phần ca dao, tục ngữ có liên hệ với 
các vấn đề lịch sử Việt Nam. 
Nho giáo từ Trung Quốc truyền sang đất Việt, qua giới nho sĩ, từ 
trước thường có quan niệm trọng nam khinh nữ (nhất nam viết 
hữu, thập nữ viết vô). Nhưng đối với người dân Việt thì không có 
quan niệm kỳ thị đó, nhất là đối với hạng anh thư nữ kiệt. 
Muốn coi lên núi mà coi 
Coi bà quản tượng cỡi voi bành vàng 
Rõ ràng câu ca dao này đã ca ngợi công đức chống ngoại xâm 
của Triệu Nữ Vương (tức là Triệu Thị Trinh - mà sử Tàu miệt thị 
gọi là Triệu Ẩu : Bà vú Triệu). Sau cuộc nổi dậy chống Tô Định 
của Hai Bà Trưng bị thất bại, Bà Triệu noi gương anh dũng đó đã 
phất cờ khởi nghĩa chống quân Đông Ngô. Khi Bà đánh giặc, mặc 
áo giáp vàng cỡi voi xông vào quân địch như vào chỗ không 
người, xưng danh hiệu là Nhụy Kiều tướng quân. 
Sau một thời gian dài bị lệ thuộc Trung Hoa, Việt Nam giành 
được độc lập và Ngô Quyền thiết lập một vương triều tự chủ, sau 
hơn 10 thế kỷ chịu nhục của người dân dưới ách đô hộ. Nhưng 
cuối đời nhà Ngô, vì thế lực suy yếu, nên đã có 12 sứ quân nổi dậy, 
đánh lẫn nhau, làm cho dân tình khổ sở. Các sứ quân đó, trong hơn 
20 năm, vẫn xưng hùng xưng bá, không ai chịu phục ai. Kết cuộc, 
họ phải khuất phục dưới tay Vạn Thắng Vương Đnh Bộ Lĩnh, tức 
Đinh Tiên Hoàng sáng lập ra vương triều nhà Đinh. Phán xét sự 
tranh giành quyền lực của các sứ quân và cuộc chiến thắng của 
Đinh Bộ Lĩnh, dân gian đã tóm gọn trong câu ca dao : 
Ở đời muôn sự của chung 
Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi 
Thật vậy, ở đời muôn sự của chung, nhưng của chung đó không 
phải là ai cũng có thể chiếm hữu dễ dàng. Phải có tài năng hay 
mưu lược quyền biến. 
Ngôi vua cuối cùng của nhà Lý thuộc về Lý Chiêu Hoàng, tức là 
Chiêu Thánh công chúa, con vua Lý Huệ Tôn, mới lên 7 tuổi. 
Quyền hành lúc đó ở trong tay Trần Thủ Độ. Và Thủ Độ đã làm 
chủ hôn cho cháu là Trần Cảnh lấy Chiêu Hoàng, để chuyển vương 
quyền qua nhà Trần. Quần chúng có lòng lưu luyến nhà Lý đã tỏ 
lòng công phẫn và mỉa mai trong câu ca truyền khẩu : 
Trống chùa ai đánh thì thùng 
Của chung ai khéo vẫy vùng thành riêng 
Dưới đời vua Trần Anh Tông, vì lý do chính trị, đã gả em gái là 
Huyền Trân công chúa cho vua Chiêm là Chế Mân để đổi lấy 2 
châu Ô, Lý (tức Địa Lý và Bố Chính), sau đổi tên là Thuận Châu 
và Hóa Châu. Người Việt vẫn có tinh thần kỳ thị chủng tộc, cho 
người Chiêm là giống man di, lên tiếng phản đối việc làm này của 
triều đình nhà Trần 
Tiếc thay cây quế giữa rừng 
Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo 
Quần chúng còn tiếc thương cho thân phận một vị công chúa, lá 
ngọc cành vàng, phải lấy chồng man rợ ở phương xa, qua ca khúc 
Nam Bình , vẫn lưu truyền ở cố đô Huế : "Nước non ngàn dặm ra 
đi...". 
Về sau, Chế Mân chết, vua Trần sai Trần Khắc Chung sang 
Chiêm tìm cách đưa Huyền Trân về nước để khỏi bị hỏa thiêu theo 
chồng (theo tục lệ Chiêm). Dư luận quần chúng có vẻ khắc nghiệt 
khi nghi ngờ về tình cảm của Trần Khắc Chung đối với công chúa 
Huyền Trân trên chặng đường thủy dài ngày đưa công chúa về 
nước. Người ta xót xa thân phận Huyền Trân, một lần nữa, qua tay 
Trần Khắc Chung. 
Tiếc thay hột gạo trắng ngần 
Đem vò nước đục lại vần lửa rơm 
Nhưng đó chỉ là chuyện đồn đại trong dân gian, không có bằng 
chứng gì xác thực. 
Khi Lê Lợi dấy binh chống Minh, khởi đầu ở vùng Thanh Hóa, 
sau chiếm lĩnh Nghệ An để mở rộng khu vực chiến đấu, nhân dân 
đã phấn khởi ca ngợi vùng đất tự do ấy và cổ võ cuộc di dân vào 
vùng này : 
Đường vô xứ Nghệ quanh quanh 
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ 
Ai vô xứ Nghệ thì vô 
Các biến cố lịch sử ảnh hưởng rất lớn đến đời sống dân chúng, 
nhất là loạn lạc. Chiến tranh gây cảnh điêu tàn, chết chóc, nhà tan 
cửa nát. Nhân dân chỉ biết kêu trời, bày tỏ nỗi oán thán : 
Cái cò lặn lội bờ sông 
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non 
-- Em về nuôi cái cùng con 
Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng 
Ấy là thảm cảnh của người dân phải thi hành nghĩa vụ tòng quân 
dưới thời Nam Bắc Triều, xảy ra cuộc chiến tranh Trịnh - Mạc. 
Cao Bằng là căn cứ địa trọng yếu của nhà Mạc. Người lính trong 
câu ca dao trên thuộc hàng ngũ quân Trịnh, được lệnh lên đường 
đánh quân Mạc, vỗ về vợ con trong buổi chia ly. 
Từ khi Trịnh Tùng diệt được nhà Mạc, dù với danh nghĩa phù 
Lê, nhưng tập trung mọi quyền hành vào tay mình rồi xưng Chúa, 
vua Lê chỉ còn giữ hư vị. 
Trong lúc họ Trịnh xưng chúa ở miền Bắc, thì Nguyễn Hoàng 
được Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ Thuận Hóa từ trước, gây dần thế 
lực, đến lúc vững mạnh cũng xưng chúa ở miền Nam. Rồi đôi bên 
gây nên cuộc Nam Bắc phân tranh, kéo dài đến non nửa thế kỷ. Họ 
đánh nhau liên miên, xây thành đắp lũy kiên cố, hiểm trở để phòng 
chống nhau, nên có câu tục ngữ : 
Hiểm nhất lũy Thầy 
Thứ nhì đồng lầy Võ Xá 
Lũy Thầy tức là lũy Trường Dục, do Đào Duy Từ chỉ huy xây 
cất. Nhờ lũy này, quân Nguyễn mới chống cự được lâu dài với 
quân Trịnh, phải lặn lội đường xa, vất vả nên ở thế bất lợi trong 
việc tiến quân đánh Nguyễn. Cuộc nội chiến Nam Bắc giữa hai 
nhà Trịnh - Nguyễn kéo dài, nhưng hai phe cũng liên tục kế truyền 
nghiệp Chúa. Và cũng vì chiến tranh quá lâu dài nên sau cuộc 
ngưng chiến, với sông Gianh làm giới hạn hai miền Nam Bắc, họ 
Trịnh tổ chức một xã hội gần như thanh bình ở Bắc. Các vua chúa 
cũng như quần thần có mức sống xa xỉ, trụy lạc. Theo tập "Vũ 
Trung Tùy Bút" của Phạm Đình Hổ, đời chúa Trịnh thứ 12 là Trịnh 
Sâm thường tổ chức nhiều cuộc vui chơi ở ly cung trên Tây Hồ, sai 
người xây cất luôn mãi. Mỗi lần vui chơi thì lại có binh lính hầu 
quanh hồ, các nội thần thì giả làm đàn bà và dân thì bày bán hàng 
hóa như ở chợ để vua quan mua sắm. 
Cũng dưới triều Trịnh Sâm, phế bỏ con cả là Trịnh Khải, lập con 
thứ là Trịnh Cán làm thế tử (con của sủng phi Đặng Thị Huệ, 
thường gọi là Bà Chúa Chè), giao cho Huy Quận Công Hoàng 
Đình Bảo làm phụ chính. Khi Trịnh Sâm mất, đảng Trịnh Khải 
mưu với quân tam phủ nổi loạn, giết Quận Huy và được tam quân 
(thường gọi là loạn kiêu binh - hạng lính được ưu đãi, tuyển mộ ở 
Thanh Nghệ = Thanh cậy thế, Nghệ cậy thần) lập lên làm Chúa, 
tức là Đoan Nam Vương. Khi Trịnh Sâm còn sống, ham vui thú ăn 
chơi, nên mọi quyền hành ở tay Quận Huy. Ông này tự do ra vào 
cung cấm và có mối liên hệ bất chính với Tuyên phi Đặng Thị 
Huệ. Việc này không tránh khỏi búa rìu của dư luận quần chúng : 
Ba quân có mắt như mờ 
Để cho Huy Quận vào sờ chính cung 
Khi viết tập "Vũ Trung Tùy Bút", về việc chúa Trịnh ham mê 
hưởng lạc, bày cảnh vui chơi làm khổ dân với nhiều sai dịch, Phạm 
Đình Hổ đã cho là có sự bất tường. Cho nên hết đời Trịnh Sâm, các 
con ông là Trịnh Khải và Trịnh Cán vì tranh quyền đã gây rối loạn 
ở kinh thành. Trịnh Cán (con Tuyên phi Đặng Thị Huệ) mới được 
lập lên, với sự hỗ trợ của Quận Huy, chưa được hai tháng, thì bị 
anh là Trịnh Khải trừ diệt. Và các chúa Trịnh từ đó về sau cũng vì 
lý do nữ họa mà mất nghiệp : 
Sự này chỉ tại Bà Chè 
Cho Chúa mất nước cho Nghè làng xiêu 
Về chuyện hai anh em họ Trịnh tương tàn, dân gian đã cố lời bàn 
tán : 
Đục cùn thì giữ lấy tông 
Đục long cán gãy còn mong nỗi gì 
"Tông" ám chỉ tước hiệu của Trịnh Cán (Tông Đô Vương). 
"Đục long cán gãy" là nghiệp chúa của Trịnh Cán không tồn tại 
bao lâu. 
Lịch sử Việt Nam từ thế kỷ thứ 17 đến đầu thế kỷ thứ 19, suốt 
200 năm là một chuỗi biến cố đẫm máu. Hết cuộc chiến tranh 
Trịnh Nguyễn, đến cuộc tương tranh Nguyễn - Tây Sơn. Từ lúc 
anh em Tây Sơn khởi nghĩa, chủ yếu là vua Quang Trung, lập nên 
một triều đại huy hoàng với nhiều võ công oanh liệt, nhưng khá 
ngắn ngủi : 
Đầu cha lấy làm đuôi con 
Mười bốn năm tròn hết số thì thôi 
Tương truyền đây là một câu sấm ứng vào việc triều Tây Sơn mất 
nghiệp sau 14 năm. Đầu chữ Quang ( - Quang Trung) lấy làm 
đuôi chữ Cảnh ( - Cảnh Thịnh). 
Một câu ca dao khác , cũng cùng ý nghĩa : 
Cha nhỏ đầu con nhỏ chân 
Đến năm Nhâm Tuất (1802) thì thân chẳng còn 
Chữ "tiểu" ở trên đầu chữ Quang, ở chân chữ Cảnh. 
Trong xã hội Việt Nam ngày trước, có hạng sĩ phu, ở lẫn trong 
dân chúng, thường nhận định về các hoạt động của giới cầm quyền 
đương thời và đề xuất những câu sấm để tuyên truyền cho một phe 
phái nào đó. Câu sấm được truyền trong dân gian bằng cách dạy 
cho trẻ con hát khi nô đùa ở các nơi công cọng. Chẳng hạn câu sấm 
sau đây, dưới hình thức ca dao, được truyền là của các cựu thần 
nhà Mạc tổ chức chống Trịnh làm ra để liên lạc với các đồng chí 
tìm đến cơ sở ở mạn Bắc : 
Ai lên Phố Cát Đại Đồng 
Hỏi thăm cô Tú có chồng hay chưa ? 
Có chồng năm ngoái năm xưa 
Năm nay chồng bỏ như chưa có chồng 
Dù chiến tranh xảy ra giữa hai miền Nam Bắc hết sức khốc liệt, 
nhưng hai họ Trịnh Nguyễn vẫn thực hiện những công cuộc phúc 
lợi ở vùng họ cai trị. 
Ở Nam, các chúa Nguyễn nhiều đời trấn thủ, mưu cầu an cư lạc 
nghiệp cho dân chúng. Dưới đời chúa Hiển Tông Nguyễn Phúc 
Chu, đường đi qua vùng Hồ Xá - Quảng Trị (tức truông nhà Hồ) 
thường có bọn cướp ẩn núp, cướp bóc kẻ qua đường. Năm 1722, 
Chúa sai ông Nguyễn Khoa Đăng, làm Nội Tán, đi đánh dẹp bọn 
cướp đó. Người dân ca tụng việc ấy, qua câu ca dao quen thuộc : 
Nhớ em anh cũng muốn vô 
Sợ truông nhà Hồ sợ phá Tam Giang 
Phá Tam Giang ngày rày đã cạn 
Truông nhà Hồ, Nội Tán cấm nghiêm 
Phá Tam Giang ở huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên, nơi có 3 
sông lớn của Huế (sông Ô Lâu, sông Bồ,sông Hương) chảy về rồi 
đổ ra cửa biển Thuận An. Phá này nhiều sóng lớn, thuyền bè qua 
lại khó khăn, về sau cạn đi. 
Sau một thời gian dài, suốt 25 năm, đấu tranh gian khổ, Chúa 
Nguyễn AÙnh đã có thế vững mạnh, tiến quân ra Trung để chiến 
thắng Tây Sơn. Nhân dân miền Nam vốn có cảm tình với nhà 
Nguyễn đã truyền câu hát : 
Lạy trời cho chóng gió nồm 
Để cho Chúa Nguyễn giong buồm thẳng ra 
Khi Chúa Nguyễn còn ở trong Nam, tổ chức cuộc Nam tiến vào 
đất Gia Định, khẩn hoang lập ấp. Dân chúng đồng lòng cổ võ : 
Nhà Bè nước chảy rẽ hai 
Ai về Gia Định Đồng Nai thì về 
Vua Gia Long thống nhất sơn hà, lập nên triều Nguyễn, truyền 
được 13 đời vua. Kế tục sự nghiệp mở nước của Thế Tổ Gia Long, 
vua Minh Mạng đã có công dẹp các vụ nổi loạn ở Bắc và Nam, 
cũng như chống cự ngoại xâm (Xiêm), chiếm Chân Lạp, bảo hộ Ai 
Lao. 
Về nội trị, vua chấn chỉnh luật pháp, chế độ, làm thành một nước 
có kỷ cương, văn hiến. Trong việc bảo vệ phong tục, vua đã chạm 
đến tinh thần bảo thủ của người dân miền Bắc, tức là cấm đàn bà 
mặc váy : 
Tháng sáu có chiếu vua ra 
Cấm quần không đáy người ta hãi hùng 
Không đi thì chợ không đông 
Đi thì phải lột quần chồng sao đang ? 
Dưới triều vua Tự Đức, nhiều biến cố trọng đại đã xảy ra. Từ 
những vụ nổi loạn ở miền Bắc, chủ trương phù Lê, như giặc Châu 
Chấu (có Cao Bá Quát làm quốc sư), Cai Tổng Vàng ở Bắc Ninh, 
giặc Khách ở Cao Bằng. Ở triều đình, có người anh vua Tự Đức là 
Hồng Bảo, âm mưu đoạt ngôi nhưng thất bại. Năm 1886, nhân dịp 
vua Tự Đức cho xây Khiêm Lăng ở Vạn Niên (Huế), ba anh em họ 
Đoàn (Đoàn Trưng, Đoàn Trực, Đoàn Ái) khai thác nỗi oán hận 
của người dân phải đi làm phu gian lao vất vả, nổi dậy chống triều 
đình. Họ khích động dân bằng câu ca dao : 
Vạn niên là Vạn niên nào 
Thành xây xương lính, hào đào máu dân. 
Trong cuộc khởi nghĩa nầy, họ Đoàn tôn Đinh Đạo (con của 
Hồng Bảo - cải họ Đinh, sau khi Hồng Bảo bị tội, tự thắt cổ chết) 
làm minh chủ. Vụ này cũng không thành công. Ngoài các vụ nổi 
loạn, triều vua Tự Đức còn phải đối phó với cuộc xâm lăng của 
người Pháp. 
Tự Đức là ông vua có tinh thần bảo thủ, từ khước đề nghị canh 
tân của các sĩ phu, nhất là Nguyễn Trường Tộ, nên vận nước có 
chiều suy vong. Vua Tự Đức chỉ là một nho sĩ thuần túy, có tiếng 
hay chữ nhất triều Nguyễn, ưa thích thi văn, ngâm vịnh. Dưới triều 
vua, có ông Lê Ngô Cát là một danh sĩ, đã soạn một bộ sử bằng 
văn vần là "Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca". Soạn xong, ông dâng lên 
vua Tự Đức ngự lãm. Vua xem rồi ban thưởng cho ông Cát : 
Vua khen thằng Cát nó tài 
Ban một cái khố với hai đồng tiền 
Việc ban thưởng này, có lẽ do chuyện bàn tán giữa các đồng liêu 
với ông Cát ở triều đình, nhưng lại lọt ra ngoài, nên dân gian đã có 
lời phẩm bình mỉa mai trên, cho rằng vua Tự Đức không quí trọng 
văn tài của người khác. 
Sau khi vua Tự Đức mất, quyền hành ở triều đình Huế thuộc về 
hai ông Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường. Hai ông này 
trong bốn tháng đã phế và lập 3 vua : Dục Đức, Hiệp Hòa và Kiến 
Phúc. Cho nên thời đó, trong dân gian có câu, giữa lúc có sự tranh 
chấp giữa Pháp và Việt : 
Nhất giang lưỡng quốc nan phân THUYẾT 
Tứ nguyệt tam vương triệu bất TƯỜNG 
Nghĩa là : Một sông hai nước (Việt - Pháp) không thể thương 
thuyết, bốn tháng ba vua điềm chẳng lành. (cuối 2 câu có tên hai 
ông Thuyết và Tường). 
Thời gian triều đình Huế khởi xướng công cuộc chống Pháp với 
các đại thần và các tướng lãnh, dù có tâm huyết nhưng thiếu kinh 
nghiệm lãnh đạo chiến tranh, nên dân chúng đã có lời bình phẩm 
có phần khắc nghiệt : 
Nước Nam có bốn anh hùng 
Tường gian Viêm dối Khiêm khùng Thuyết ngu 
Tường là Nguyễn Văn Tường, trước sát cánh với Tôn Thất 
Thuyết chống Pháp, sau ra hàng. Viêm là Hoàng Kế Viêm, trước 
cũng chống Pháp, sau được vua Đồng Khánh phục chức và sai đi 
dụ hàng vua Hàm Nghi. Khiêm là Ông Ích Khiêm, một vị quan 
thời Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường chuyên quyền, vì tính 
khẳng khái, không luồn cúi cấp trên, làm phật ý hai ông Tường, 
Thuyết nên bị giam vào ngục. Dân gian nói ông Khiêm "khùng" vì 
có tính khí khác thường, ngang bướng, không chịu khuất phục 
cường quyền. Và "Thuyết ngu", ngụ ý cho rằng ông Thuyết là một 
kẻ "hữu dũng vô mưu". Dù sao, dư luận quần chúng cũng chê hai 
kẻ gian dối và khen hai người trung can, nghĩa khí. 
Thời Pháp xâm lược nước ta, người dân không khỏi buồn lòng 
nhìn thế sự rối reng : 
Đêm đêm chớp bể mưa nguồn 
Hỏi người quân tử có buồn chăng ai ? 
Nhất là cảnh quốc phá gia vong với một triều đại suy tàn : 
Một nhà sinh đặng ba vua 
Vua còn (Đồng Khánh) vua mất (Kiến Phúc) vua thua chạy dài 
(Hàm Nghi) 
Tuy thua chạy dài, nhưng vua Hàm Nghi với sự phù trợ của Tôn 
Thất Thuyết và các trung thần, nghĩa sĩ đã phát hịch kêu gọi nhân 
dân hưởng ứng chống Pháp, khởi xướng phong trào Cần Vương ở 
khắp nơi. Tình trạng trong nước Việt lúc bấy giờ đã phân hóa làm 
hai : 
Gẫm xem thế sự thêm rầu Ở giữa Đồng Khánh, hai đầu Hàm 
Nghi 
Ở giữa, tức là kinh đô Huế, hai đầu là Nghệ Tĩnh và Nam Ngãi, 
nơi phát triển phong trào Cần Vương. 
Tinh thần ái quốc của người Việt vẫn liên tục sôi nổi. Dù công 
cuộc chống Pháp của vua Hàm Nghi bị thất bại, nhưng đến đời vua 
Thành Thái, âm mưu chống Pháp vẫn âm thầm trong trí vị vua đã 
từng giả điên giả cuồng để tránh mắt dò xét của người Pháp.Dân 
gian phát hiện một hành động của vị vua yêu nước này, mà người 
ta tưởng lầm là hành vi bất chính, khi vua vốn mang tiếng điên 
khùng : 
Kim Long có gái mỹ miều 
Trẫm thương trẫm nhớ trẫm liều trẫm đi 
Tương truyền vua Thành Thái có tổ chức một đội nữ binh ở 
ngoại thành, một địa điểm bí mật ở vùng Kim Long và giao cho 
một vị tướng phụ trách huấn luyện để chờ dịp khởi nghĩa. Nhiều 
đêm vua xuất cung vi hành để đến xem xét kết quả của việc huấn 
luyện đó. 
Vua Duy Tân lên làm vua lúc mới 8 tuổi, nhưng lớn lên có chí 
khí và có lòng yêu nước mãnh liệt. Cũng như vua Thành Thái, vua 
Duy Tân có ý chống Pháp. Vua thường ra ngoài cung điện để xem 
xét dân tình và tìm cách liên lạc với các nhân sĩ. Đi dạo chơi trên 
bãi biển, tay vấy cát, người hầu lấy nước cho vua rửa. Vua nói : 
"Tay nhớp (bẩn) lấy nước rửa, thế nước nhớp lấy gì mà rửa ?". 
Phong trào Văn Thân bí mật liên lạc với vua để tìm phương cứu 
quốc. Năm 1915, đảng Việt Nam Quang Phục cử Trần Cao Vân và 
Thái Phiên hợp tác với vua mưu đồ khởi sự. Họ hẹn gặp nhau trên 
bờ sông Ngự Hà, giả làm người đi câu để tránh tai mắt địch. Rồi 
mưu đồ phục quốc của vua Duy Tân cũng bị thất bại và vua phải đi 
đày. Người dân Huế thương tiếc vua cùng các nghĩa sĩ Trần Cao 
Vân và Thái Phiên đã hiến thân vì nước : 
Chiều chiều ông Ngự ra câu 
Cái ve cái chén cái bầu sau lưng 
Và trên dòng Hương Giang, nhiều năm sau, trên các chuyến đò 
dọc, người ta còn nghe mấy câu hò trầm thống, bi đát, đầy tâm sự 
của kẻ mang hoài bão cứu nước không thành : 
Trước bến Văn Lâu 
Ai ngồi ai câu 
Ai sầu ai thảm 
Ai thương ai cảm 
Ai nhớ ai mong 
Thuyền ai thấp thoáng bên sông 
Nghe câu mái đẩy chạnh lòng nước non. 
 o0o 
 Như trên đã nói, ca dao là phản ảnh một phần nào dư luận của 
quần chúng Việt Nam đối với các hiện tượng trong xã hội ở thời kỳ 
các phương tiện truyền thông bằng văn tự chưa phát triển. 
Với người dân, các hành vi của giới cầm quyền, cũng như hành 
động của các nhân vật trong nước, đều phải chịu sự bình phẩm, 
phán xét của công luận. Những hành vi có đạo đức, thiện tâm được 
khen ngợi, ca tụng, trái lại xấu xa, đê tiện đều bị chê bai, nguyền 
rủa. 
Trăm năm bia đá cũng mòn 
Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ 
Ca dao, nhất là loại ca dao có liên quan đến lịch sử Việt Nam là 
tấm bia miệng để đời cho người ta ghi nhớ, là tấm gương cho nhiều 
thế hệ soi chung và bản thân những câu ca dao đócũng là những 
phán xét của lịch sử./.