Đề tài Các biện pháp nhằm mở rộng thị trường và thúc đẩy tiêu thụ một số sản phẩm chính của Công ty xăng dầu hàng không Việt Nam

Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của bất cứ doanh nghiệp nào cũng cần được đánh giá, xem xét từ hai quan điểm: Đó là quan điểm xã hội và quan điểm kinh tế. Từ quan điểm xã hội, các doanh nghiệp phải đảm bảo cung ứng một sản lượng sản phẩm nhất định với những yêu cầu cụ thể về chủng loại, chất lượng cho nhu cầu xã hội

doc71 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1335 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các biện pháp nhằm mở rộng thị trường và thúc đẩy tiêu thụ một số sản phẩm chính của Công ty xăng dầu hàng không Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của bất cứ doanh nghiệp nào cũng cần được đánh giá, xem xét từ hai quan điểm: Đó là quan điểm xã hội và quan điểm kinh tế. Từ quan điểm xã hội, các doanh nghiệp phải đảm bảo cung ứng một sản lượng sản phẩm nhất định với những yêu cầu cụ thể về chủng loại, chất lượng cho nhu cầu xã hội. Bao gồm cả nhu cầu tiêu dùng trong sản xuất và nhu cầu tiêu dùng trong đời sống sinh hoạt hàng ngày. Việc thực hiện chức năng này được thực hiện thông qua công tác mở rộng thị trường và tiêu thụ sản phẩm. Từ quan điểm kinh tế, các doanh nghiệp không thể thực hiện chức năng xã hội bằng mọi giá, mà phải lấy thu nhập từ tiêu thụ sản phẩm để bù đắp cho toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh đã bỏ ra và đảm bảo thu được lợi nhuận. Như vậy, có lợi nhuận hay không có lợi nhuận là phản ánh việc thực hiện hay không thực hiện được chức năng kinh tế của doanh nghiệp. Mở rộng thị trường và tiêu thụ sản phẩm là vấn đề quan trọng đối với các doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay. Nói cách khác thị trường và tiêu thụ sản phẩm có mối quan hệ chặt chẽ đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Có đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp mới có điều kiện bù đắp được toàn bộ chi phí đã bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh, bảo đảm được quá trình tái sản xuất giản đơn ( thu hồi được giá trị hao mòn của tài sản cố định, thu mua nguyên vật liệu mới, trả lương công nhân để tiếp tục sản xuất,...). Mặt khác, thông qua tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp mới thực hiện được giá trị của lao động thặng dư, nghĩa là thu được lợi nhuận từ các hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ vấn đề trên ta thấy: Để đứng vững trên thị trường, các doanh nghiệp phải coi trọng vấn đề mở rộng thị trường và thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, ưu tiên cho nó một vị trí cao trong chiến lược sản xuất kinh doanh và coi vấn đề tiêu thụ sản phẩm là sự sống còn của mỗi doanh nghiệp. Hàng không dân dụng là ngành kinh tế kỹ thuật, dịch vụ thuộc khối cơ sở hạ tầng và còn là ngành kinh tế đối ngoại của mỗi quốc gia. Trong điều kiện nền kinh tế mở cửa, ngành Hàng không dân dụng của nước ta đóng vai trò hết sức quan trọng trong sự giao lưu phát triển kinh tế của đất nước, là cầu nối giữa các lục địa, rút ngắn khoảng cách và thời gian cho việc đi lại buôn bán, vận chuyển, chuyển giao thông tin giữa các quốc gia, các tổ chức và cá nhân hoạt động văn hoá - kinh tế - xã hội. Xăng dầu là nguồn nguyên liệu chính cho các thiết bị hàng không hoạt động cả trên không và mặt đất. Để ngành Hàng không có thể hoạt động bình thường, ổn định trong lĩnh vực vận chuyển hàng không thì việc cung cấp, vận chuyển đầy đủ nguồn nhiên liệu cho các thiết bị hàng không một cách liên tục là rất cần thiết. Công ty xăng dầu hàng không là một đơn vị kinh doanh dịch vụ với chức năng chính là cung ứng vật tư xăng dầu cho các hoạt động bay trong nước và quốc tế, mặt hàng chủ yếu của công ty là dầu JET - A1. Một trong những vấn đề đặt ra hiện nay của Công ty là làm thế nào để mở rộng thị trường và đẩy mạnh việc tiêu thụ sản phẩm của Công ty. Qua quá trình thực tập tốt nghiệp tại Công ty xăng dầu hàng không, với sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô giáo trong khoa Kinh tế và kinh doanh quốc tế, em đã nhận thức rằng việc mở rộng thị trường và đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm tại Công ty xăng dầu hàng không là mục tiêu chiến lược quan trọng có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại và phát triển của Công ty trong giai đoạn hiện nay cũng như trong tương lai, đang được các cán bộ quản lý và kinh doanh của Công ty quan tâm cả về tính lý luận và thực tiễn. Vì vậy, em quyết định chọn đề tài: " Các biện pháp nhằm mở rộng thị trường và thúc đẩy tiêu thụ một số sản phẩm chính của Công ty xăng dầu hàng không Việt nam" Chương I: Một số vấn đề chung về thị trường và vai trò của việc tiêu thụ những sản phẩm chính của Công ty xăng dầu hàng không Việt nam. Chương II: Phân tích, đánh giá thực trạng thị trường và tiêu thụ sản phẩm chính của Công ty xăng dầu hàng không. Chương III: Phương hướng và giải pháp mở rộng thị trường, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm chính của Công ty xăng dầu hàng không trong thời gian tới. Luận văn tốt nghiệp chắc chắn còn nhiều thiếu sót, kính mong nhận được sự giúp đỡ góp ý của các thầy cô giáo, các cấp lãnh đạo trong Công ty và những người quan tâm. Qua đây, em xin chân thành cảm ơn các cấp, phòng ban của Công ty xăng dầu hàng không Việt nam, cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Kinh tế và kinh doanh quốc tế thuộc Trường đại học kinh tế quốc dân và đặc biệt là thầy giáo Đỗ Đức Bình đã tận tình giúp đỡ để em hoàn thành luận văn này. Chương I Một số vấn đề chung về thị trường và vai trò của việc tiêu thụ những sản phẩm chính của Công ty xăng dầu hàng không Việt nam I-/ Khái niệm, nội dung và vai trò của thị trường đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Vào cuối chế độ công xã nguyên thuỷ, khi các bộ tộc đã có sản phẩm dôi dư, từ đó xuất hiện nhu cầu trao đổi sản phẩm giữa các bộ tộc với nhau. Ban đầu, sự trao đổi sản phẩm chỉ thực hiện bằng những hiện vật và chỉ xảy ra ở các vùng giáp ranh giữa các bộ tộc, sau đó sự trao đổi sản phẩm thâm nhập trực tiếp vào sâu trong các bộ tộc. Để có những sản phẩm để trao đổi, phương thức sản xuất được hình thành, thời kỳ này được gọi là thời kỳ nền kinh tế hiện vật. Sản phẩm được trao đổi giữa các bộ tộc dần dần tạo nên thị trường gọi là thị trường trao đổi. ở nền kinh tế hiện vật, hình thức trao đổi hiện vật ( H - H ) có những hạn chế về không gian, thời gian và số lượng sản phẩm. Người tham gia trao đổi kinh tế hiện vật ứng với một xã hội có nhu cầu không lớn về khối lượng sản phẩm và đơn giản về mặt lưu thông hàng hoá. Đến chế độ phong kiến, với sự phát triển của lực lượng sản xuất, hình thức giao lưu buôn bán không còn giới hạn trong một bộ tộc, một vùng hay một lãnh thổ mà nó đã phát triển rộng ra giữa các nước với nhau trên thế giới nên hình thức trao đổi bằng hiện vật không còn phù hợp, từ đó nền kinh tế hàng hoá được hình thành. Trong kinh tế hàng hoá, người ta trao đổi với nhau những hàng hoá và lấy tiền tệ làm môi giới, phương tiện cho trao đổi lưu thông ( H - T - H ). Chính sự trao đổi hàng hoá lấy tiền tệ làm môi giới đã khắc phục những hạn chế của trao đổi hiện vật nói trên. Lưu thông hàng hoá mở rộng không gian trao đổi, có thể bán ở nơi này và mua ở nơi khác, mở rộng thời gian trao đổi, mua lúc này bán lúc khác và mở rộng cá nhân, các doanh nghiệp tham gia trao đổi, đồng thời làm phong phú thêm sản phẩm trao đổi. Lưu thông hàng hoá tiến bộ hơn so với trao đổi hiện vật. Tuy nhiên, điều đó có nghĩa là hàng hoá không nhất thiết phải được chuyển thành tiền và tiền chuyển thành hàng hoá. Bản thân sự trao đổi không phải đương nhiên thực hiện được, giải quyết mâu thuẫn này không phải chỉ qua trao đổi mà phải thông qua giao dịch mua bán với những quan hệ trên thị trường. 1-/ Khái niệm: Thị trường là một phạm trù kinh tế của sản xuất hàng hoá, được biểu hiện bằng các hoạt động trao đổi, cùng với các quan hệ do chúng sinh ra, được biểu diễn trong không gian và thời gian nhất định. Theo C. Mác: Thị trường là lĩnh vực của sự trao đổi hàng hoá. Hành vi cơ bản của thị trường là hành vi mua và bán. Bởi vậy, trên thị trường có hai chủ thể tham gia là người bán và người mua. Người bán đại diện cho yếu tố cung còn người mua đại diện cho yếu tố cầu trên thị trường. Theo quan điểm kinh doanh: Thị trường là một loạt tập hợp nhu cầu về một loại hàng hóa dịch vụ cụ thể, là nơi diễn ra hành vi mua bán bằng tiền. Nói cách khác, thị trường là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu của một sản phẩm. Các doanh nghiệp cung ứng sản phẩm của họ cho người tiêu dùng nhằm thoả mãn nhu cầu của họ dưới dạng cầu. Các nhà doanh nghiệp xuất hiện trên thị trường lúc thì với tư cách người mua, lúc thì với tư cách người bán. Cung là số lượng của cải hoặc dịch vụ mà người bán đã sẵn sàng nhượng lại với một giá nào đó. Cầu là số lượng của cải hoặc dịch vụ mà những người mua đã sẵn sàng chấp nhận với một giá nào đó. Cung và cầu tự gặp nhau ở một giá cân bằng. Để cho một thị trường tồn tại và phát triển cần phải: - Cầu phải có khả năng thanh toán, tức là nó phải phù hợp với sức mua. - Sản phẩm phải khá cần để doanh nghiệp có lợi khi đưa sản phẩm đó ra thị trường ( người ta thường gọi là sức hấp dẫn của sản phẩm ) - Nếu mức giá P cung, gây lên hiện tượng thiếu hụt hàng hoá trên thị trường. Do giá bán thấp, các doanh nghiệp không đầu tư vào sản xuất dẫn đến tình trạng dư thừa. Đây là nguyên nhân gây lên thất nghiệp. - Nếu mức giá P > P, thì cầu < cung, gây lên hiện tượng dư thừa hàng hoá trên thị trường. Do hàng hóa không tiêu thụ hết, các chủ doanh nghiệp chỉ sử dụng một phần năng lực của mình vào sản xuất dẫn đến tình trạng dư thừa sức lao động. Đây là nguyên nhân gây lên thất nghiệp và ảnh hưởng đến thu nhập của người lao động. 2. Nội dung của thị trường: Nghiên cứu người tiêu dùng và những tiến triển theo thói quen của họ trong tiêu dùng, đó là sự cần thiết sống còn mà các doanh nghiệp phải thích nghi nhanh chóng. Doanh nghiệp biến đổi trên thị trường, tức là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu của một sản phẩm. Doanh nghiệp không chỉ một mình trên thị trường mà họ phải đối mặt với nhiều đối thủ cạnh tranh và phải tìm cách lôi kéo khách hàng đến với sản phẩm của họ. Hiểu biết rõ thị trường của mình, biết ai là những đối thủ và bước đi của họ như thế nào là những điều kiện cần thiết cho thành công của doanh nghiệp. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp phụ thuộc một phần vào chất lượng nghiên cứu tiến hành trước khi hành động. Thu thập và xử lý thông tin có liên quan đến thị trường là cần thiết đối với tất cả các doanh nghiệp cho dù quy mô, bản chất hoạt động của chúng như thế nào. Doanh nghiệp không phải lúc nào cũng đến với khách hàng của mình bằng một cách giống nhau, nó cần phải hiểu biết khách hàng của mình nhiều hơn nữa. 3. Vai trò và chức năng của thị trường: a. Vai trò: Trong quá trình sản xuất hàng hoá, thị trường nằm trong khâu lưu thông. Thị trường là chiếc cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng, là mục tiêu của quá trình sản xuất hàng hoá. Thị trường chính là nơi hình thành và xử lý các mối quan hệ giữa doanh nghiệp này với các doanh nghiệp khác, giữa doanh nghiệp với Nhà nước và cả nền kinh tế quốc dân. Thị trường là bộ phận chủ yếu của môi trường kinh tế - xã hội của doanh nghiệp. Nó vừa là môi trường kinh doanh vừa là tấm gương để các doanh nghiệp nhận biết nhu cầu của xã hội và đánh giá hiệu quả kinh doanh của mình. Mặt khác, thị trường là nơi các nhà doanh nghiệp kiểm nghiệm các chi phí sản xuất và chi phí lưu thông, góp phần thực hiện các yêu cầu của quy luật tiết kiệm. Trong quản lý nền kinh tế quốc dân, thị trường vừa là đối tượng vừa là căn cứ của kế hoạch hoá. Nó là công cụ bổ sung cho các công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước. Thị trường là nơi mà thông qua đó Nhà nước tác động vào quá trình kinh doanh của các đơn vị cơ sở. Đồng thời thị trường sẽ kiểm nghiệm tính chất đúng đắn của các chủ trương chính sách do Đảng và Nhà nước ban hành. b. Chức năng: Chức năng của thị trường là những biểu hiện khách quan vốn có bắt nguồn từ bản chất của nó và bao gồm các chức năng cơ bản sau đây: * Chức năng thừa nhận: Việc tiêu thụ hàng hoá của doanh nghiệp thực hiện thông qua chức năng thừa nhận của thị trường. Thị trường thừa nhận chính là sự chấp nhận của người mua đối với hàng hoá và dịch vụ của doanh nghiệp. Thị trường thừa nhận tổng khối lượng hàng hoá cung ứng ra thị trường, cơ cấu của cung và cầu, quan hệ cung - cầu từng loại hàng hoá. Thị trường thừa nhận giá trị sử dụng và giá trị của hàng hoá và nó chuyển thành giá trị xã hội. Thị trường thừa nhận hành vi buôn bán, trao đổi. * Chức năng thực hiện: Hành vi mua bán là hành vi cơ bản bao trùm thị trường. Hoạt động này là cơ sở quan trọng có tính chất quyết định đối với thực hiện các quan hệ và hoạt ddộng khác. Thị trường thực hiện hành vi trao đổi hàng hoá, thực hiện cung và cầu, thực hiện cân bằng cung và cầu từng loại hàng hoá, thực hiện giá trị thông qua giá cả, thực hiện việc trao đổi giá trị. * Chức năng điều tiết, kích thích: Trên thị trường có sự hoạt động của các quy luật kinh tế của sản xuất và trao đổi hàng hoá, vì vậy thị trường có chức năng này. Thông qua cạnh tranh giữa các ngành, thị trường điều tiết việc di chuyển sản phẩm từ các ngành ít có lợi sang các ngành có lợi. Thông qua cạnh tranh trong nội bộ ngành, thị trường sẽ khuyến khích các doanh nghiệp tận dụng các lợi thế và thời cơ kinh doanh, đồng thời nó cũng khuyến khích các doanh nghiệp không có lợi thế phải vươn lên để thoát khỏi phá sản. Thị trường kích thích việc tiết kiệm các chi phí sản xuất và chi phí lưu thông, hướng dẫn người tiêu dùng trong việc mua hàng hóa, dịch vụ. 4. Phân loại thị trường: Thị trường là một lĩnh vực huyền bí đối với các nhà kinh doanh, song đó là một thực thể có khả năng nhận thức được. Để nhận dạng được các loại, các hình thái của thị trường mà doanh nghiệp tham gia, đặc điểm và xu hướng phát triển của từng loại, cần phải tiến hành phân loại thị trường. Nhờ việc phân loại thị trường đúng đắn, doanh nghiệp có thể biết được những đặc điểm chủ yếu ở lĩnh vực của mình. Từ đó doanh nghiệp sẽ định hướng đúng đắn được về chiến lược thị trường và xác định được những phương thức ứng xử cho phù hợp, đạt hiệu quả cao và tăng cường thế lực trên thị trường. Người ta có thể phân loại thị trường theo nhiều tiêu thức khác nhau. Dưới đây là một số cách phân loại chủ yếu: a. Căn cứ vào hình thái vật chất của đối tượng trao đổi: * Thị trường hàng hoá: ở thị trường này đối tượng trao đổi là hàng hoá, vật phẩm tiêu dùng với mục tiêu thoả mãn những nhu cầu về vật chất. Thị trường hàng hoá bao gồm nhiều thị trường bộ phận khác nhau. Điển hình của loại thị trường này là thị trường các yếu tố sản xuất và thị trường hàng tiêu dùng. - Thị trường các yếu tố sản xuất ( lao động, đất đai, tư bản). Người mua chủ yếu là các đơn vị sản xuất kinh doanh, số lượng có hạn, phân bổ ở các địa điểm xác định, nhu cầu biến động chậm. Người bán ở thị trường này thường là các gia đình, cá nhân hoặc cũng có thể là các doanh nghiệp. - Thị trường hàng tiêu dùng. Có số lượng người mua rất đông và nhu cầu đa dạng, diễn biến của nhu cầu phức tạp và có đòi hỏi cao, có sự khác nhau giữa các vùng và giữa các tầng lớp khách hàng khác nhau. Người bán thường là đơn vị sản xuất kinh doanh, họ cạnh tranh với nhau rất gay gắt. Nhìn chung thì cả cung và cầu ở thị trường này đều cơ động và biến động nhanh, đòi hỏi các nhà kinh doanh phải có khả năng thích ứng cao. * Thị trường dịch vụ: Chủng loại dịch vụ ít, không có sản phẩm tồn tại dưới hình thức vật chất, không có các trung gian phân phối mà sử dụng các kênh phân phối trực tiếp. Mạng lưới phân bố của các doanh nghiệp dịch vụ thường tuỳ thuộc vào nhu cầu của thị trường và đặc điểm riêng của từng loại hoatj động kinh doanh. b. Căn cứ vào mối quan hệ cung cầu: * Thị trường thực tế: Là một bộ phận thị trường mà trong đó yêu cầu tiêu dùng đã được đáp ứng thông qua cung ứng hàng hoá, dịch vụ. Khách hàng ở bộ phận thị trường này bao gồm những người có nhu cầu và khả năng thanh toán về một loại hàng hoá dịch vụ, trên thực tế họ đã mua được hàng. * Thị trường tiềm năng: Bao gồm thị trường thực tế và một bộ phận thị trường có yêu cầu tiêu dùng song chưa được đáp ứng. Khách hàng ở bộ phận thị trường này ngoài những khách hàng thực tế còn có những khách hàng có yêu cầu tiêu dùng và khả năng thanh toán về một loại hàng hoá, dịch vụ song chưa mua được hàng. * Thị trường lý thuyết: Bao gồm tất cả các nhóm dân cư trên thị trường, kể cả những người chưa có yêu cầu tiêu dùng hoặc không có khả năng thanh toán. Đối với các doanh nghiệp, khi nghiên cứu thị trường cần chủ ý trước hết đến thị trường tiềm năng. Tuy nhiên, chiến lược thị trường trong phát triển lâu dài cần được quan tâm thoả đáng và cụ thể tới các bộ phận của toàn bộ thị trường lý thuyết. c. Căn cứ vào vai trò, số lượng người mua và người bán trên thị trường: * Thị trường độc quyền: Có thị trường độc quyền bán và thị trường độc quyền mua. ở hình thái thị trường này các nhà độc quyền chi phối rất lớn đến các quan hệ kinh tế và giá cả thị trường. Nhìn chung, các nhà kinh doanh đều mong muốn và tìm mọi thủ pháp để trở thành độc quyền hoặc liên minh độc quyền hòng chi phối thị trường, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Tuy vậy, đối với cả nền kinh tế quốc dân, độc quyền không khuyến khích việc khai thác các nguồn tiềm năng để đưa vào sản xuất và không thoả mãn được tiêu dùng ở mức độ cao. Độc quyền không khuyến khích việc đổi mới kỹ thuật công nghệ, gây nên sự bất bình đẳng của việc phân chia nguồn lợi tức xã hội. Vì vậy, các nước thường sử dụng vai trò của Chính phủ để điều tiết hoặc hạn chế mức độ độc quyền. * Thị trường cạnh tranh hoàn hảo: Do số lượng người mua và người bán đông, làm cho không một nhà kinh doanh nào chi phối được giá cả thị trường. Điều đó làm cho các quan hệ kinh tế diễn ra khách quan và tương đối ổn định hơn. Các doanh nghiệp tham gia vào hình thái thị trường cạnh tranh hoàn hảo không ngừng đổi mới kỹ thuật và công nghệ, góp phần thoả mãn nhu cầu ở mức độ cao và khuyến khích lực lượng sản xuất phát triển. Tuy nhiên, trên thực tế rất hiếm có doanh nghiệp tham gia vào hình thái thị trường cạnh tranh hoàn hảo. * Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo: Phần lớn các doanh nghiệp đều ở hình thái thị trường vừa có cạnh tranh vừa có độc quyền, gọi là thị trường cạnh tranh không hoàn hảo. ở hình thái này các doanh nghiệp vừa phải tuân theo các yêu cầu của quy luật cạnh tranh vừa phải đi tìm các giải pháp hòng trở thành độc quyền, chi phối thị trường. Ngoài ra, người ta còn nhiều cách phân loại thị trường khác như: Thị trường được phân theo khu vực ảnh hưởng và đặc điểm của các mối quan hệ kinh tế; Phân loại theo vai trò của người mua, người bán; Phân loại theo vị trí của từng khu vực thị trường. II. Nội dung và phương pháp nghiên cứu thị trường thế giới: 1. Nội dung nghiên cứu thị trường thế giới: a. Nghiên cứu thị trường: Bất kỳ một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh loại hàng hoá nào cũng phải nghiên cứu thị trường. Nghiên cứu thị trường là việc cần thiết đầu tiên đối với các doanh nghiệp khi bắt đầu kinh doanh, đang kinh doanh hoặc muốn mở rộng và phát triển kinh doanh. Mục đích của việc nghiên cứu thị trường là nghiên cứu, xác định khả năng tiêu thụ loại mặt hàng hoặc nhóm mặt hàng trên địa bàn xác định. Trên cơ sở đó nâng cao khả năng cung cấp để thoả mãn nhu cầu của thị trường. Quá trình nghiên cứu thị trường hàng hoá được thực hiện thông qua 3 bước: - Thu thập thông tin. - Xử lý thông tin. - Ra quyết định. Mỗi loại hàng hoá có nguồn gốc sản xuất, đặc tính cơ, lý, hoá học và phục vụ cho một nhu cầu tiêu dùng nhất định. Do đó, chúng có những đặc điểm riêng, đặc thù không giống nhau. Khi nghiên cứu thị trường loại sản phẩm hàng hoá mà doanh nghiệp kinh doanh, cần xác định: - Quan hệ mua bán, vai trò của từng khu vực thị trường, đặc tính kỹ thuật và nhu cầu sử dụng. - Phạm vi địa bàn doanh nghiệp đã, đang và sẽ hoạt động, đặc biệt khối lượng cơ cấu loại sản phẩm hàng hoá đã và sẽ tiêu thụ, khối lượng và cơ cấu của nguồn hàng của doanh nghiệp phù hợp với nhu cầu tiêu thụ của thị trường. b. Trình tự của nghiên cứu thị trường: Nghiên cứu thị trường ở một doanh nghiệp có thể theo trình tự sau: Nghiên cứu khái quát thị trường rồi nghiên cứu chi tiết thị trường. Tuy nhiên, cũng có thể đi theo trình tự ngược lại, tức là nghiên cứu chi tiết thị trường rồi nghiên cứu khái quát thị trường. Trình tự trước sau này không có gì cản trở lẫn nhau, mỗi giai đoạn đều đạt một yêu cầu nhất định về thông tin và đều cần thiết cho doanh nghiệp. Đối với những doanh nghiệp kinh doanh quy mô lớn, khi mở rộng thị trường, tham gia thị trường mới thì thường theo trình tự nghiên cứu khái quát thị trường sau đó mới nghiên cứu chi tiết thị trường. Những doanh nghiệp nhỏ và vừa khi tham gia thị trường thường nghiên cứu chi tiết thị trường sau đó mới nghiên cứu khái quát thị trường. Nghiên cứu khái quát thị trường chủ yếu là nghiên cứu quy mô, cơ cấu, xu hướng vận động, các nhân tố ảnh hưởng nhằm giúp doanh nghiệp xác địn
Tài liệu liên quan