Lịch sử Việt Nam là lịch sử của một dân tộc gắn liền dựng nước với giữ nước. Ngay từ thủa sơ khai, nhân dân ta đã phải đấu tranh chống giặc ngoại xâm để giành được độc lập, và thắng lợi của cách mạng tháng Tám 1945 chính là một minh chứng hào hùng cho điều đó. Với thắng lợi to lớn này, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – nhà nước Dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á – đã được ra đời, dân tộc Việt Nam từ thân phận nô lệ đã đứng lên làm chủ vận mệnh, làm chủ đất nước. Để đạt được thành quả trên, nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương và Mặt trận Việt Minh đã đấu tranh để “lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật”, bởi từ tháng 9 – 1940, Nhật đã đánh chiếm vào Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng. Nhưng đề tài không tập trung vào nghiên cứu quá trình đấu tranh của nhân dân ta chống phát xít Nhật giành chính quyền mà đề cập đến vấn đề: Từ khi Nhật vào nước ta đã xuất hiện những tổ chức chính trị thân Nhật nào, hoạt động của các tổ chức đó ra sao và bản chất của các tổ chức đó đối với việc tuyên truyền những chính sách lừa bịp “Đại Đông Á” của Nhật đối với nhân dân ta như thế nào. Bởi vì, chưa có một công trình nghiên cứu nào tập hợp và nghiên cứu một cách đầy đủ và hệ thống về các tổ chức, đảng phái chính trị thân Nhật trong giai đoạn 1940 – 1945 và bản chất của các tổ chức chính trị này.
66 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2491 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các Đảng phái chính trị thân nhật ở Việt Nam (1940–1945), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CÁC ĐẢNG PHÁI CHÍNH TRỊ THÂN NHẬT Ở VIỆT NAM
(1940–1945) MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Lịch sử Việt Nam là lịch sử của một dân tộc gắn liền dựng nước với giữ nước. Ngay từ thủa sơ khai, nhân dân ta đã phải đấu tranh chống giặc ngoại xâm để giành được độc lập, và thắng lợi của cách mạng tháng Tám 1945 chính là một minh chứng hào hùng cho điều đó. Với thắng lợi to lớn này, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – nhà nước Dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á – đã được ra đời, dân tộc Việt Nam từ thân phận nô lệ đã đứng lên làm chủ vận mệnh, làm chủ đất nước. Để đạt được thành quả trên, nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương và Mặt trận Việt Minh đã đấu tranh để “lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật”, bởi từ tháng 9 – 1940, Nhật đã đánh chiếm vào Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng. Nhưng đề tài không tập trung vào nghiên cứu quá trình đấu tranh của nhân dân ta chống phát xít Nhật giành chính quyền mà đề cập đến vấn đề: Từ khi Nhật vào nước ta đã xuất hiện những tổ chức chính trị thân Nhật nào, hoạt động của các tổ chức đó ra sao và bản chất của các tổ chức đó đối với việc tuyên truyền những chính sách lừa bịp “Đại Đông Á” của Nhật đối với nhân dân ta như thế nào. Bởi vì, chưa có một công trình nghiên cứu nào tập hợp và nghiên cứu một cách đầy đủ và hệ thống về các tổ chức, đảng phái chính trị thân Nhật trong giai đoạn 1940 – 1945 và bản chất của các tổ chức chính trị này.
Nghiên cứu đề tài này còn có giá trị khoa học và thực tiễn sâu sắc. Về khoa học, đề tài góp phần hệ thống hóa những sử liệu, những sự kiện quan trọng về hoạt động của các tổ chức thân Nhật ở Việt Nam giai đoạn trước cách mạng tháng Tám năm 1945 để ta có thể hiểu về bản chất của các tổ chức này như thế nào, có phải là “ái chủng, ái quốc” như chúng đã từng tuyên bố hay không, cũng như quá trình đấu tranh của nhân dân ta chống lại lực lượng này như thế nào. Về thực tiễn, đề tài góp phần đóng góp những sử liệu về giai đoạn lịch sử 1940 – 1945 ở nước ta cho công tác dạy và học lịch sử nói chung và hoàn thiện kiến thức cho bản thân tôi nói riêng. Đây chính là những lý do chính giúp tôi tập trung nghiên cứu đề tài này.
Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Về nội dung “Hoạt động của các tổ chức chính trị ở Việt Nam giai đoạn 1940 – 1945” cũng đã được các tác giả, sử gia Việt Nam đề cập đến trong một vài tác phẩm nghiên cứu lịch sử đại cương. Đó là các tác phẩm “Đại cương lịch sử Việt Nam” (Tập 2) do Đinh Xuân Lâm (Chủ biên), tác phẩm “Đại cương lịch sử Việt Nam” do Nguyễn Khánh Toàn (Chủ biên), Nguyễn Công Bình, Văn Tạo biên soạn…Trong nhóm các tác phẩm Đại cương lịch sử này, hầu hết các tác phẩm nói đến quá trình phát xít Nhật vào xâm lược Đông Dương nói chung, Việt Nam nói riêng và sự xuất hiện một số đảng phái, tổ chức chính trị thân Nhật: Phục Quốc, Đại Việt, Cao Đài, Hòa Hảo…nhưng chỉ nói qua về các tổ chức này chứ không tập trung sâu vào nghiên cứu một cách chi tiết về các tổ chức thân Nhật ở nước ta.
Tác giả nghiên cứu sâu hơn về các tổ chức chính trị này có Giáo sư Trần Văn Giàu. Hầu hết trong các tác phẩm của mình như :“Giai cấp công nhân Việt Nam từ Đảng Cộng sản thành lập đến cách mạng Tháng Tám thành công” (Tập III), NXB Sử học, Hà Nội, 1963; “Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến cách mạng tháng Tám” in trong “Trần Văn Giàu – tác phẩm được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh”, NXB Khoa học xã hội 2003….ông nêu lên quá trình Nhật vào Việt Nam, tìm người và lập phe đảng. Trong mỗi giai đoạn, tác giả đều nêu lên qua về sự hoạt động và tan rã của một số đảng phái chính trị thân Nhật, và ông đặc biệt chú trọng đến Nội các Trần Trọng Kim, nhưng đây cũng chưa phải là các tác phẩm chuyên sâu mà chỉ nằm trong dòng của lịch sử đại cương.
Tác giả Trần Huy Liệu cũng có nhiều tác phẩm đề cập đến giai đoạn lịch sử từ 1940 – 1945 nói về sự bóc lột, những chiêu bài lừa bịp về chính trị của Nhật như “Hồi Ký Trần Huy Liệu”, NXB Khoa học xã hội, 1991; Trần Huy Liệu, Nguyễn Khắc Đạm trong cuốn “Tài liệu tham khảo cách mạng cận đại Việt Nam” (các tập 8; 9; 10), NXB Văn Sử Địa, 1957. Tác giả Phạm Khắc Hòe có tác phẩm “Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc. NXB Thuận Hóa, Huế, 1987….Nhìn chung, các tác phẩm nghiên cứu một cách đại cương với những sự kiện chung chung về các tổ chức thân Nhật ở nước ta giai đoạn 1940 – 1945 chứ chưa nêu bật được các hoạt động của chúng. Đáng chú ý là tác giả Phạm Hồng Tung với hàng loạt các bài nghiên cứu, bài báo, bài viết về giai đoạn lịch sử này, là chuyên gia nghiên cứu về Nhật Bản – Việt Nam với các tác phẩm như “Về Cường Để và tổ chức Việt Nam phục quốc Đồng minh Hội trong thời kỳ thế chiến thứ hai” (Tạp chí nghiên cứu lịch sử số 3 – 2003), “Về mối quan hệ cộng tác, cộng trị Nhật – Pháp trong thế chiến thứ hai và nguyên nhân của cuộc đảo chính ngày 9 – 3 – 1945” (Tạp chí nghiên cứu lịch sử số 8 – 2005)…đặc biệt là tác phẩm “Nội các Trần Trọng Kim – bản chất, vai trò và vị trí lịch sử”, NXB Chính trị quốc gia, 2010 đã nêu lên bản chất, vai trò của chính phủ được dựng lên từ sau cuộc đảo chính Nhật – Pháp.
Qua các tác phẩm, bài nghiên cứu đại cương hay chuyên sâu của các sử gia, các nhà nghiên cứu, đề tài là sự tổng hợp để làm rõ những hoạt động, bản chất của các tổ chức thân Nhật ở nước ta giai đoạn 1940 – 1945 để giúp ta hiểu về lịch sử Việt Nam giai đoạn này và hiểu hơn về chủ trương, sách lược của Đảng ta trong quá trình đấu tranh chống phát xít Nhật và tay sai thân Nhật.
Nhiệm vụ của đề tài
Đề tài có ba nhiệm vụ chính
- Trình bày bối cảnh lịch sử và quá trình hình thành các tổ chức thân Nhật giai đoạn 1940 – 1945.
- Nêu sự hoạt động của các tổ chức thân Nhật ở Việt Nam giai đoạn 1940– 1945.
- Đặc điểm, thực chất, tầm ảnh hưởng của các tổ chức thân Nhật ở Việt Nam trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở nước ta.
Phạm vi nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài có phạm vi nghiên cứu:
Về thời gian : Tập trung nghiên cứu về các tổ chức chính trị thân Nhật ở Việt Nam trong khoảng thời gian từ năm 1940 đến năm 1945 – giai đoạn phát xít Nhật xâm lược Việt Nam đến khi nội các Trần Trọng Kim – Biểu tượng quyền lực cao nhất của các tổ chức thân Nhật sụp đổ, cách mạng tháng Tám 1945 thành công, nhân dân ta giành được chính quyền.
Về không gian : Đề tài nghiên cứu hoạt động của các tổ chức chính trị thân Nhật ở Việt Nam trong phạm vi cả nước : Bắc, Trung, Nam để có cái nhìn toàn diện về hoạt động cũng như bản chất và tầm ảnh hưởng của các tổ chức thân Nhật ở Việt Nam.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chính mà đề tài sử dụng là phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng các phương pháp khác như : phương pháp tổng hợp và phân tích sử liệu, phương pháp so sánh…để làm sáng tỏ vấn đề.
Đóng góp của khoá luận
Khoá luận nghiên cứu về “Hoạt động của các tổ chức chính trị thân Nhật ở Việt Nam (1940 - 1945)” góp phần đóng góp thêm những sử liệu, những sự kiện về một giai đoạn lịch sử sôi động của cách mạng Việt Nam: từ 1940 – 1945. Khoá luận cũng góp phần có cái nhìn đúng đắn và đầy đủ hơn về các tổ chức chính trị, các đảng phái xuất hiện ở nước ta trong giai đoạn từ khi phát xít Nhật vào xâm lược nước ta đến khi cách mạng tháng Tám thành công. Bằng cách trình bày quá trình ra đời, sự hoạt động để nói lên bản chất cũng như tầm ảnh hưởng của các tổ chức chính trị thân Nhật, khoá luận đóng góp cho công tác khoa học lịch sử một cách nhìn mới về các tổ chức chính trị này, qua đây cũng làm sáng tỏ thêm về những chủ trương, sách lược của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn này.
Bố cục của của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận thì khóa luận gồm có 3 chương chính sau :
Chương 1. Bối cảnh lịch sử và quá trình hình thành các tổ chức chính trị thân Nhật ở Việt Nam (1940 – 1945)
Chương 2. Hoạt động của các tổ chức chính trị thân Nhật ở Việt Nam (1940 – 1945)
Chương 3. Đặc điểm, thực chất và tầm ảnh hưởng của các tổ chức chính trị thân Nhật ở Việt Nam ( 1940 – 1945)
CHƯƠNG 1
BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ THÂN NHẬT Ở VIỆT NAM ( 1940 – 1945)
Bối cảnh lịch sử dẫn tới sự hình thành các tổ chức thân Nhật ở Việt Nam ( 1940 – 1945)
Bối cảnh thế giới
Sau thời gian phát triển thịnh đạt, chủ nghĩa tư bản trong những năm 1929– 1933 bước vào thời kỳ khủng hoảng trầm trọng. Cuộc khủng hoảng không những tàn phá về kinh tế mà còn gây ra những hậu quả nặng nề về chính trị - xã hội. Sau cuộc khủng hoảng, mâu thuẫn trong lòng các nước tư bản chủ nghĩa và các các nước đế quốc ngày càng gay gắt. Trong bối cảnh đó, một số nhà cầm quyền của các nước tư bản đã đối phó bằng cách đưa đất nước đi theo con đường phát xít hóa. Chúng chuyển toàn bộ nền kinh tế phục vụ cho các cuộc chiến tranh, chuẩn bị các cuộc chiến tranh nô dịch, áp bức, bóc lột các dân tộc khác.
Ngày 30 – 1- 1933, sự kiện Adolf Hitler (1889 – 1945) thủ lĩnh Đảng Quốc xã Đức (Đảng phát xít), lên nắm chính quyền tại nước Đức là mốc lịch sử quan trọng mở đầu cho sự hình thành đế chế phát xít, lò lửa chiến tranh lớn nhất trong lịch sử thế giới hiện đại. Sau khi lên nắm quyền, Hitler đã lập tức thủ tiêu chế độ đại nghị ở Đức, thiết lập chế độ thống trị quân phiệt, độc tài và sử dụng vũ lực tối đa để tiêu diệt bất cứ lực lượng đối lập nào. Hai đối tượng ở trong nước mà Hitler tập trung tiêu diệt, trước hết là những người Cộng sản và Do Thái. Đồng thời, Hitler và Chính phủ Quốc xã đã dồn sức chuẩn bị cho một cuộc “chiến tranh tổng lực” để mở rộng “không gian sinh tồn” (Lebensraum) và khẳng định vị trí bá chủ của “chủng tộc thượng đẳng” Arier.
Cũng trong thời gian đó, xu thế quân phiệt đã chiếm được thế áp đảo trong chính giới Nhật Bản. Sau khi đánh bại nước Nga trong cuộc chiến tranh Nga - Nhật ( 1904- 1905), Nhật Bản đã khẳng định được vai trò của mình trong thế giới của các cường quốc tư bản. Kể từ đó và đặc biệt là sau cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, Nhật Bản ra sức chạy đua cho một cuộc xâm lược đại quy mô để xâm chiếm toàn cõi Á Đông. Ngày 18 – 9 – 1931, Nhật Bản cho quân tấn công xâm chiếm Mãn Châu làm bàn đạp chuẩn bị cho các bước bành chướng tiếp theo.
Để cố kết cùng nhau trong một liên minh hiếu chiến, phản động, tháng 10 và tháng 11- 1936, Đức, Nhật và Italia đã ký kết một hiệp ước liên minh chống Quốc tế Cộng sản. Từ đây, trục phát xít thế giới Đức – Italia - Nhật Bản đã hình thành, trở thành nguy cơ chiến tranh đe doạ hoà bình và số phận của toàn nhân loại.
Trong bối cảnh đó, Đại hội lần VII của Quốc tế Cộng sản có ý nghĩa hết sức quan trọng. Đại hội diễn ra từ ngày 25 – 7 đến 20 – 8 – 1935 tại Matxcơva (Liên Xô) với sự tham gia của 65 đoàn đại biểu đại diện cho các Đảng Cộng sản đến từ khắp các châu lục. Tại Đại hội lịch sử này, Geogi Dimitrov đã đọc một báo cáo chính trị quan trọng, chỉ rõ bản chất chính trị của chủ nghĩa phát xít. Theo Dimitrov: “Chủ nghĩa phát xít nắm chính quyền là nền chuyên chính khủng bố công khai của những phần tử phản động nhất, sô vanh nhất, đế quốc chủ nghĩa nhất của tư bản tài chính”.[2; 219]
Trên cơ sở đó, Quốc tế Cộng sản đã xác định mục tiêu chiến lược trước mắt của phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế không phải là tiến hành chiến tranh cách mạng vô sản, lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, thiết lập nền chuyên chính vô sản và xây dựng xã hội cộng sản mà ngược lại, tập trung ngọn lửa đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, bảo vệ hoà bình, ngăn chặn chiến tranh thế giới mới.
Để thực hiện mục tiêu nói trên, Quốc tế Cộng sản chủ trương rằng các đảng cộng sản ở tất cả các nước phải thiết lập cho được một liên minh dân chủ rộng rãi, cùng với mọi giai tầng tiến bộ trong xã hội cùng đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, vì “tự do, cơm áo, hoà bình”. Đường lối chiến lược và sách lược đấu tranh mới của Quốc tế Cộng sản đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân yêu chuộng hoà bình, các trào lưu dân chủ và cách mạng rộng khắp.
Mặc dù vậy, phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít và ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh thế giới mới đã phát triển rộng khắp ở nhiều nước nhưng vẫn không đủ sức dập tắt những lò lửa chiến tranh đã hình thành ở Tây Âu và Đông Á. Nhà nước Quốc xã Đức, sau khi đã thiết lập được liên minh với các nhà nước phát xít Italia, Tây Ban Nha và Nhật Bản càng đẩy mạnh hơn nữa việc chuẩn bị “chiến tranh tổng lực” để phân chia lại thế giới. Từ năm 1935 đến giữa năm 1939, trục phát xít Đức – Italia - Nhật liên tiếp tiến hành các hoạt động, nhằm khiêu khích, tạo không khí căng thẳng với Liên Xô và các cường quốc Tây Âu và Bắc Mỹ, đồng thời cũng là thăm dò thái độ và khả năng phản ứng của các nước này một khi chiến tranh nổ ra.
Trong năm 1935 và 1936, Hitler cho quân chiếm lại các khu vực thuộc đế chế Đức bị đặt dưới quyền kiểm soát của Hội Quốc liên, nhất là vùng sông Rhein, trái tim của nền công nghiệp Đức. Tháng 10 – 1935, Mussolini cũng cho quân tấn công Ethiopia (Abyssinie) và tới tháng 5 – 1936 thì chiếm được xứ này. Ở Châu Á, ngay từ năm 1931, Nhật Bản đã xâm chiếm Mãn Châu và không ngừng chuẩn bị cho cuộc “Chiến tranh của người Châu Á”. Tháng 7 – 1937, Nhật chính thức phát động chiến dịch xâm lược đại quy mô để chinh phục Trung Hoa. Tháng 3 – 1938, Hitler trực tiếp dẫn quân xâm chiếm nước Áo, tuyên bố sáp nhập Tổ quốc của ông ta vào đế chế phát xít Đức.
Trước những hành động khiêu khích trắng trợn đó của Đức và Italia, các cường quốc Tây Âu và Bắc Mỹ nhiều lần tỏ thái độ phản đối nhưng chỉ là sự phản đối suông, không được thể hiện bằng những biện pháp quân sự, kinh tế hay ngoại giao có hiệu quả. Thậm chí, ngày 30- 9- 1938, tức là ngay sau khi nước Đức đã nuốt gọn nước Áo, nguyên thủ các nước Anh và Pháp đã ký tại Munich một bản “ Hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau” với Hitler. Ngay sau đó, tháng 3 – 1939, Đức tiến quân vào chiếm đóng vùng Sudeten thuộc nước Tiệp Khắc. Một tháng sau, Italia chiếm Anbania.
Để củng cố khả năng phòng vệ, ngày 23 – 8 – 1939, Liên Xô ký với Đức hiệp ước không tấn công lẫn nhau. Sau đó, Hồng quân Liên Xô được lệnh tiến vào chiếm đóng ba nước ven bờ biển Baltique là Latvia, Litva và Estonia.
Thái độ của các cường quốc tư bản Tây Âu lúc đó không những đã không góp phần ngăn ngừa thảm họa chiến tranh, mà trên thực tế càng khuyến khích tham vọng và dã tâm gây chiến của Hitler cùng các nhà nước phát xít và quân phiệt. Sau khi thất bại trong âm mưu lôi kéo Ba Lan vào một liên minh chống Liên Xô, ngày 1 – 9 – 1939, Hitler ra lệnh cho quân Đức tràn vào biên giới, tấn công các nước láng giềng. Ngày 3 – 9, Anh và Pháp tuyên chiến với Đức. Chiến tranh thế giới thứ hai chính thức bùng nổ.
Sau khi chiếm được Ba Lan, Hitler cho quân xâm lược các nước Bắc Âu như: Nauy, Đan Mạch (4 – 1940), Bỉ, Hà Lan, Lucxambua (5 – 1940). Trong khi đó, mặc dù đã tuyên chiến với Đức, nhưng Anh và Pháp không hề có hành động quân sự nào nhằm kiên quyết chặn bước tiến công của quân Đức. Họ đoán chắc rằng với cách đó có thể lái hướng tấn công của quân phát xít vào Liên bang Xô Viết. Nhưng đó chỉ là một tính toán chiến lược sai lầm mà cả Anh và Pháp phải trả giá đắt.
Ngày 10– 6 –1940, quân Đức ào ạt tấn công nước Pháp. Quân đội Pháp kháng cự yếu ớt và nhanh chóng bị đánh tan tác. Ngày 14 – 6, Pari được tuyên bố là “thành phố bỏ ngỏ”, quân Đức chiếm được Thủ đô nước Pháp tương đối dễ dàng. Phòng tuyến Maginot, niềm hy vọng cuối cùng của nước Pháp cũng bị quân Đức đè bẹp vào ngày 18 – 6. Chính phủ Pháp do Paul Reynaud cầm đầu chạy về Bordeaux rồi sụp đổ. Ngày 19 – 6, Chính phủ mới được thành lập do Thống chế Philippe Petain cầm đầu vội vã xin hàng. Ngày 22 – 6, Hiệp định đình chiến được kí kết. Ba phần năm lãnh thổ nước Pháp bị quân Đức chiếm đóng, phần còn lại thuộc quyền quản lý của Chính phủ Pháp do Petain đứng đầu với thủ phủ đóng ở Vichy. Một bộ phận quân đội Pháp do tướng Chasles De Gaulle chạy sang Angerie thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Pháp. Việc nước Pháp bị đánh bại, đầu hàng phát xít Đức và bị quân Đức chiếm đóng là một biến cố đặc biệt quan trọng trong lịch sử nước Pháp, có tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến tiến trình lịch sử các xứ thuộc địa của Pháp, trong đó có Việt Nam nằm trong Liên bang Đông Dương.
Bối cảnh trong nước
1.1.2.1. Đông Dương và Việt Nam - Mục tiêu chiến lược của Nhật
Mặc dù đã có quan hệ thương mại và văn hóa với Việt Nam từ khá lâu nhưng cho tới đầu những năm 30 của thế kỳ trước nhưng chính giới, thương gia và các nhà cai trị quân phiệt Nhật Bản chưa thực sự quan tâm đến Việt Nam nằm trong xứ thuộc địa Đông Dương. Quan hệ kinh tế giữa Nhật Bản và Đông Dương cho đến trước năm 1940 rất yếu. Giá trị hàng nhập khẩu từ Đông Dương từ năm 1919 đến 1940 thường chỉ chiếm khoảng 0.5 % và chưa bao giờ vượt quá 0.9% tổng giá trị hàng nhập khẩu của Nhật. Chỉ từ khi chính phủ quân phiệt Nhật Bản bắt đầu chuẩn bị kế hoạch bành chướng, phát động chiến tranh xâm lược ở Châu Á với chủ nghĩa “Đại Đông Á” thì Đông Dương mới được họ thực sự lưu tâm đến một cách nghiêm túc.
Khoảng giữa những năm 30 của thế kỷ XX, một số người Nhật xuất hiện ngày càng nhiều ở Việt Nam. Năm 1936 đã có tổng số 231 người Nhật đăng ký cư trú ở Đông Dương. Trong số họ, không ít người cộng tác với tình báo Nhật, thu thập các thông tin mọi mặt ở xứ sở này. Dựa vào đó, năm 1937, Sở tình báo Nhật Bản đã hoàn thành một bộ tổng hợp tin tức về Đông Dương gồm 371 trang. Tháng 7 – 1937, Nhật Bản chính thức phát động chiến tranh xâm lược Trung Quốc. Chỉ sau một thời gian ngắn, quân Nhật đã nhanh chóng tiến xuống phía Nam. Tháng 10 – 1938, quân Nhật chiếm được Quảng Châu, áp sát biên giới Việt – Trung. Cũng từ chính thời điểm này, giới quân phiệt Nhật Bản chính thức đặt vấn đề xâm chiếm Đông Dương .
Với nỗ lực chiến tranh của Nhật Bản ở Châu Á lúc đó, Đông Dương trở nên quan trọng trước hết vì tuyến đường sắt Hải Phòng – Hà Nội - Vân Nam là một trong hai huyết mạch giao thông chính cung cấp viện trợ quân sự từ bên ngoài cho Chính phủ Trùng Khánh của Tưởng Giới Thạch. Để đánh gục sự kháng cự của Trùng Khánh, Nhật Bản phải bằng mọi giá cắt đứt tuyến đường viện trợ này. Việc xâm chiếm Đông Dương còn giúp quân đội Nhật đoạt được những nguồn lợi quý giá của xứ thuộc địa này, phục vụ cho các nỗ lực chiến tranh của nước Nhật tại Châu Á. Trong số những nguồn tài nguyên chiến lược mà quân Nhật muốn chiếm đoạt thì lúa gạo Việt Nam giữ vai trò quan trọng đặc biệt. Mục đích thứ ba – không kém phần quan trọng - của quân đội Nhật Bản khi chiếm Đông Dương là tạo ra một bàn đạp chiến lược cho các bước tấn công xâm lược tiếp theo ở khu vực Đông Nam Á.
Để tìm cách xâm lược Đông Dương, Nhật tìm cách gây sức ép với Pháp cả về chính trị, kinh tế và ngoại giao với chính phủ Pháp. Sau khi chiếm được Quảng Châu, đầu năm 1939, quân Nhật chiếm đảo Hải Nam và sau đó chiếm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Để xoa dịu quân Nhật, Pháp đã nhượng bộ bằng cách ra lệnh cấm các hàng hóa quân sự qua biên giới Việt – Trung. Nắm được bản chất nhu nhược đó của Pháp, Nhật càng lấn tới. Sau khi phát xít Đức tấn công quân Pháp và Pari thất thủ, quân Nhật liền chụp ngay cơ hội này, ép thực dân Pháp ở Đông Dương chấp nhận những nhượng bộ quyết định. Ngày 19 – 6 – 1940, quân Nhật gửi cho Toàn quyền Georges Catroux một bản tối hậu thư đòi Nhật phải đóng cửa hoàn toàn biên giới Việt - Trung. Đồng thời phía Pháp phải chấp nhận một phái đoàn quân sự Nhật đến Đông Dương để kiểm soát việc thực hiện đóng cửa biên giới nói trên. Trong tình thế hoang mang dao động và không nhận được sự giúp đỡ của chính phủ Mỹ hay Anh, Catroux đã chấp nhận tối hậu thư của Nhật, tuyên bố đóng cửa hoàn toàn biên giới Việt – Trung và ngày 29 – 6 – 1940, một phái đoàn quân sự Nhật do tướng Issaku Nishihara cầm đầu đã đến Hà Nội để kiểm soát việc đóng cửa biên giới.
Để “trừng phạt” hành động này của Catroux, ngày 20 – 7 – 1940, Chính phủ Vicky do Thống chế Philippe Petain cầm đầu đã cách chức y và cử đô đốc Jean Decoux sang làm toàn quyền mới. Đây cũng là lúc giới toàn quyền chóp bu của Nhật Bản quyết định tiếp tục gia tăng sức ép, đàm phán trực tiếp với Chính phủ Vichy về việc đưa quân vào chiếm đóng Đông Dương. Ngày 30 – 8 – 1940, Chính phủ Vichy đã ký với Chính phủ Nhật t