Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp bình đẳng cạnh tranh với nhau trong khuôn khổ pháp luật. Mỗi doanh nghiệp có các giải pháp khác nhau để sản phẩm của mình chiếm thị phần lớn trên thị trường. Một trong những vấn đề quan tâm chính hiện nay của các doanh nghiệp Việt nam trong thời buổi này là hạ giá thành sản phẩm, giảm các chi phí đầu vào.
83 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1415 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các giải pháp cơ bản góp phần hạ giá thành xây dựng công trình xây dựng ở Công ty xây dựng và phát triển nhà Hai Bà Trưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp bình đẳng cạnh tranh với nhau trong khuôn khổ pháp luật. Mỗi doanh nghiệp có các giải pháp khác nhau để sản phẩm của mình chiếm thị phần lớn trên thị trường. Một trong những vấn đề quan tâm chính hiện nay của các doanh nghiệp Việt nam trong thời buổi này là hạ giá thành sản phẩm, giảm các chi phí đầu vào.
Thời gian gần đây ngành xây dựng nước ta có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, vốn đầu tư hàng năm chiếm khoảng 40- 50% ngân sách Nhà nước. Và hơn thế với tính chất phức tạp của hoạt động, của sản phẩm xây dựng thì vấn đề về sử dụng và quản lý nguồn vốn, các chi phí đầu vào rất phức tạp. Do đó làm thế nào để tránh lãng phí thất thoát và tiết kiệm các nguòn lực nâng cao hiệu quả kinh tế trở nên cấp thiét hơn bao giờ hết.
Song song với các công ty trong cả nước, công ty xây dựng và phát triển nhà hai Bà Trưng thuộc Tổng Công ty đầu tư và xây dựng Hà Nội đã từng bước thay đổi trang thiết bị tự hoàn thiện nâng cao trình độ, phương pháp quản lý các công trình xây dựng để theo kịp sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Đồng thời hạ gía thành để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và khả năng trúng thầu.
Nhận thấy tầm quan trọng của công tác hạ gía thành và thực trạng của Công ty xây dựng và phát triển nhà Hai Bà Trưng, được sự đồng ý và hướng dẫn tận tình của thầy giáo Đỗ Văn Lư cùng toàn thể các cô chú cán bộ công nhân viên công ty em xin chọn đề tài: “Các giải pháp cơ bản góp phần hạ giá thành xây dựng công trình xây dựng ở Công ty xây dựng và phát triển nhà Hai Bà Trưng”.
Với mong muốn vận dụng kín thức đã học vào thực tế và góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty.
Luận văn gồm 3 phần
(Không kể mở đầu và kết luận)
phần I. Phấn đấu hạ giá thành sản phẩm là một biện pháp cơ bản góp
phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp.
Phần II. Phân tích thực trạng công tác phấn đấu hạ giá thành xây
dựng tại Công ty xây dựng và phát triển nhà Hai Bà Trưng
Phần III. Một số biện pháp góp phần hạ giá thành xây dựng
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Đỗ Văn Lư và các cô chú, các anh chị cán bộ công nhân viên tại Công ty xây dựng và phát triển nhà Hai Bà Trưng đã giúp đỡ em trong quá trình thực tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Chương I:
Phấn đấu hạ giá thành sản phẩm là một biện pháp
cơ bản góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của các
doanh nghiệp.
I. khái niệm giá thành, các loại giá thành, mối quan hệ giá thành, giá trị, giá cả và chi phí
1. Khái niệm giá thành sản phẩm
Quá trình sử dụng các yếu tố cơ bản trong sản xuất cũng đồng thời là doanh nghiệp phải chi ra những chi phí sản xuất tương ứng. Sự tương ứng với việc sử dụng tài sản cố định là chi phí về khấu hao tài sản cố định; Tương ứng với việc sử dụng nguyên liệu, nhiên liệu là những chi phí về nguyên vật liệu; Tương ứng với việc sử dụng lao động là tiền lương, tiền trích Bảo hiểm Xã hội và y tế…. Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường thì mọi chi phí đều được biểu hiện bằng tiều trong đó chi phí tiền công được biểu hiện bằng tiền của hao phí lao động sống (v) còn chi phí khấu hao tài sản cố định, chi phí về nguyên vật liệu, nhiên liệulà biểu hiện bằng tiền của hao phí về lao động vật hoá (C).
Như vậy, quá trình sản xuất là một quá trình thống nhất hai mặt, mặt hao phí sản xuất và mặt kết quả sản xuất. Tất cả các chi phí phát sinh (kể cả phát sinh trong kỳ và kỳ trước chuyển sang) và các chi phí trích trước có liên quan đến sản phẩm lao vụ đã hoàn thành trong kỳ sẽ tạo nên chỉ tiêu giá thành sản phẩm.
Giá thành sản phẩm là một phạm trù của sản xuất hàng hoá, phản ánh lượng hao phí lao động sống và lao động vật hoáđã thực sự chi ra cho sản xuất và tiêu thụ phải được bồi hoàn để tái sản xuất ở doanh nghiệp mà không bao gồm những chi phí phát sinh trong kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. Những chi phí đưa vào giá thành sản phẩm phản ánh được giá trị thực của các tư liệu sản xuất và tiêu dùng cho sản xuất, tiêu thụ và các khoản chi phí khác có liên quan tới việ bù đắp giản đơn hao phí lao động sống. Mọi cách tính toán chủ quan không phản ánh đúng các yếu tố giá trị trong giá thành đều có thể dẫn đến việc phá vỡ quan hệ hàng hoá- tiền tệ, không xác định được hiệu quả kinh doanh và không thực hiện được tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng.
Tóm lại, giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí về lao động sống (v) và lao động vật hoá (C) có liên quan đến khối lượng công tác, sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành.
2. Các phương pháp phân loại chi phí trong giá thành
Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm nhiều loại, nhiều khoản mục khác nhau, chúng khác biệt về nội dung kinh tế, tính chát đặc điểm các khoản chi ra, về vai trò trong trong việc hình thành thực thể sản phẩm và giá cả sản phẩm. Để phân tích và quản lý các chi phí đạt hiệu quả cao, các chà quản lý phaỉ biết phân loại các khoản mục chi phí nói trên nhưng các nhà quản trị không phải chỉ biết chi phí là bao nhiêu mà còn phải biết chi phí hình thành như thế nào?, ở đâu?, có chi phí liên quan như thế nào tới quyết định xem xét?, có thể tác động tới chúng như thế nào. Việc nhận định thấu hiểu cách phân loại chi phí cho phép nhà kinh doanh tiến hành quản lý, giám sát các khoản chanra kịp thời dự kién phân bổ luồng tiền ủa doanh nghiệp trong tương lai, tiến hành phân tích và lập kế hoạch giá thành một cách đúng đắn, chính xác, phù hợp với sự biến động của thị trường. Đồng thời phân loại các khoản mục chi phí còn có tác dụng phân tích các khả năng tiềm tàng về hạ giá thành, cung cấp thông tin kịp thời để xây dựng chính sách giá cả hợp lý, đủ sức cạnh tranh trên thị trường…
- Căn cứ vào nội dung kinh tế của chi phí, chi phí sản xuất chia làm 8 yếu tố:
Nguyên vật liệu chính mua ngoài
Vật liệu phụ ua ngoài
Nhiên liệu mua goài
Năng lượng mua goài
Tiền lương nhân viên
Bảo hiểm xã hội công nhânviên
Khấu hao Tài sản cố định
Các chi phí khác bằng tiền
Những yếu tố chi phí nay được sử dụng khi lập dự toán chi phí sản xuất, lập kế hoạch cung ứng vật tư, quỹ lương, tính nhu cầu vốn lưu động định mức. Phân loại chi phí sản xuất teo nội dung kinh tế đảm bảo tính nguyên vẹn của từng yếu tố chi phí, mỗi yếu tố đếu là chi phí ban đầu của doanh nghiệp chi ra không thể tách rời được nữa. Mỗi yếu tố gồm mọi khoản chi ra có cùng nội dung kinh tế và tác dụng kinh tế khác nhau không kể nó được chi ra ở đâu và quan hệ của nó với quá trình sản xuất.
- Căn cứ vào công dụng cụ thể của chi phí trong sản xuất, chia chi phí thành 11 khoản mục:
Nguyên vật liệu chính
Vật liệu phụ
Nhiên liệu dùng vào sản xuất
Năng lượng dùng vào sản xuất
Tiền lương công nhân sản xuất
Bảo hiểm xã hội công nhân sản xuất
Khấu hao Tài sản cố định dùng vào sản xuất
Chi phí phân xưởng
Chi phí quản lý doanh nghiệp
Thiệt hạo về ngừng sản xuất và sản phẩm hỏng
Các chi phí ngoài sản xuất
Các khoản mục này được dùng trong quá trình xác định giá thành phẩm cũng như giá thành sản phẩm hàng hoá. Ngoài ra cách phân loại chi phí này cho ta thấy ảnh hưởng của từng khoản mục chi phí tới kết cấu và sự thay đổi của giá thành. Từ đó cho phép tiến hành phân tích định ra những biện pháp chủ yếu để hạ giá thành sản phẩm.
- Căn cứ vào mối quan hệ giữa chi phí và sản lượng hàng hoá chi phí chia ra làm 2 loại:
+ Chi phí biến đổi (biến phí) là chi phí tăng (giảm) tỷ lệ thuân với khối lượng sản phẩm hoàn thành
+ Chi phí cố định (định phí) là những chi phí không thay đổi theo khối lượng sản phẩm hoàn thành trong giới hạn đầu tư. Đó là tổng chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra trong thời kỳ nhất định dù có tiến hành sản xuất trên thực tế hay không.
Qua cách phân loại này ta có thể xem tính hợp lý của chi phí sản xuất chi ra mặt khác đó là cơ sở quan trọng để xác định khối lượng tối đa, xây dựng chính sách giá cả hợp lý, linh hoạt trong cơ chế thị trường.
- Căn cứ vào phương pháp phân bổ chi phí vào giá thành sản phẩm gồm có:
+ Chi phí trực tiếp: là những loại chi phí có quan hệ trực tiếp với giá thành sản xuất, được tính trực tiếp vào giá thành của từng loại sản phẩm, bao gồm:
Nguyên vật liệu chính
Vật liệu phụ vào sản xuất
Nhiên liệu dùng vào sản xuất
Động lực dùng vào sản xuất
Tiền lương dùng vào sản xuất
Bảo hiểm xã hội của công nhân sản xuất
+ Chi phí gián tiếp: là những khoản chi phí có liên quan tới hoạt động của nhiều phân xưởng sản xuất, của toàn bộ doanh nghiệp và được tính vào giá thành một cách gián tiếp dựa trên các chỉ số phân bổ.
Cách phân loại này tương đối linh hoạt được nhiều đơn vị sử dụng bởi vì nó cho phép áp dụng vào đặc điểm cụ thể của doanh nghiệp. Tuy nhiên, với mỗi phương thức phân bổ khác nhau sẽ dem lại những kết quả tính toán trên sổ sách khác nhau.
Ngoài các cách phân loại chính trên, trong thực tế còn nhiều cách phân loại khác nhau như căn cứ vào cấu thành chi phí, cách thức kết chuyển chi phí, (chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ)…Mỗi cách phân loại khác nhau cho phép nhà quản lý tận dụng ưu điểm của mỗi phương pháp nhằm đạt được những hiệu quả cao hơn. Đảm bảo nguyên tắc tính đúng, đủ các loại chi phí vào giá thành sản xuất. Xác định được các yếu tố hợp lý và bất hợp lý trong giá thành để từ đó đưa ra các giải pháp hữu hiệu nhằm giảm giá thành trong doanh nghiệp.
3. Phân loại giá thành sản phẩm
Nhằm đáp ứng nhu cầu của quản lý hạch toán và kế hoạch hạ giá thành sản phẩm cũng như yêu cầu xây dựng giá cả hàng hoá, giá thành được xem ở nhiều góc độ khác nhau và có 2 cách chủ yếu sau:
a. Phân loại giá thành sản phẩm theo cơ sở số liệu và thời điểm tính giá thành.
Giá thành kế hoạch: là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở chi phí sản xuất kế hoạch và sản lượng kế hoạch. Việc tính giá thành kế hoạch do bộ phận kế hoạch của doanh nghiệp làm và được tiến hành trước khi bắt đầu quá trình sản xuất chế tạo sản phẩm. Giá thành kế hoạch là mục tiêu phấn đấu của mọi doanh nghiệp, là căn cứ để so sánh, đánh giá, phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành của doanh nghiệp. Có một số chi phí không được tính vào giá thành kế hoạch nhưng được tính vào giá thành thực tế như: Thiệt hạido ngừng sản xuất, thiệt hại trong quá trình áp dụng công nghệ mới, thiệt hại do sản phẩm hỏng…
Giá thành định mức là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở định mức chi phí hiện hành và chỉ tính cho đơn vị sản phẩm. Việc tính giá thành định mức cũng được thực hiện trước khi tiến hành sản xuất cế tạo sản phẩm. Tuy nhiên khác với giá thành kế hoạch được xây dựng trên cơ sở các định mức tiên tiến và không thay đổi tong suốt thời kỳ kế hoạch, giá thành định mức lại được xây dựng trên cơ sở các định mức chi phí hiện hành tại từng thời điểm trong kế hoạch. Do đó giá thành định mức luôn thay đổi phù hợp với sự thay đổi của các định mức chi phí đạt được trong quá trình thực hiện kế hoạch giá thành.
Giá thành định mức là công cụ quản lý định mức của doanh nghiệp, là thước đo chính xác để xác định kết quả sử dụng tài liệu, vật tư lao động trong quá trình hoạt động sản xuất đạt hiệu quả kinh tế cao.
Giá thành thực tế là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở số liệu chi phí sản xuất thực tế đã phát sinh và tập hợp được trong kỳ cũng như sản lượng thực tế sản xuất trong kỳ. Giá thành thực tế chỉ có thể tính toán được sau khi kết thúc quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm sản phẩm và được tính toán cho cả chỉ tiêu tổng giá thành và giá thành đơn vị. Giá thành thực tế là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh kết quả phấn đấu của doanh nghiệp trong việc tổ chức và và sử dụng các giải pháp kinh tế- kỹ thuật- tổ chức và công nghệ để thực hiện quá trình sản xuất sản phẩm là cơ sở để xác định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và nghĩa vụ của doanh nghiệp với Nhà nước và các đối tác có liên doanh liên kết.
Phân chia giá thành 3 loại: Giá thành kế hoạch; Giá thành định mức và Giá thành thực tế có ý nghĩa quan trọng trong lập kế hoạch và so sánh kiểm tra thực tế kết quả hoạt động cảu doanh nghiệp trong thời kỳ kinh doanh. Giá thành kế hoạch là cơ sở để doanh nghiệp định hướng phát triển phấn đấu đạt được các mục tiêu đề ra. Giá thành thực tế đạt được là thực tế kiểm nghiệm hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cho biết doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả không để từ đó đưa ra các biện pháp giải quyết kịp thời nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn.
b. Phân loại giá thành theo phạm vi tính toán và phát sinh chi phí
Giá thành phân xưởng: bao gồm toàn bộ chi phí trực tiếp, chi phí quản lý phân xưởng, chi phí chi phí sử dụng máy móc. Hay giá thành phân xưởng bao gồm những chi phí phân xưởng và tất cả những chi phí của phân xưởng khác phục ụ cho quá trình sản xuất tại phân xưởng đó.
Giá thành công xưởng bao gồm giá thành phân xưởng và chi phí quản lý doanh nghiệp. Có thể nói giá thành công xưởng là giá thành sản xuất bao gồm tất cả những chi phí để sản xuất ra sản phẩm trong toàn doanh nghiệp.
Giá thành toàn bộ bao gồm giá thành công xưởng và chi phí tiêu thụ. Giá thành toàn bộ chỉ được tính khi sản phẩm, công việc hoặc lao vụ được tiêu thụ Đây là cơ sở để tính toán, xác định lợi nhuận trước thuế và sau thuế.
Chia giá thành làm 3 loại có ý nghĩa trong việc phân tích sát thực các chi phí phát sinh. Các nhà quản lý giám sát một cách đầy đủ, chính xác, biết được mức độ sử dụng các nguồn lực đầu vào trong quá trình sản xuất sản phẩm, dịch vụ. Xác định được yếu tố nào sử dụng hợp lý, yếu tố nào sử dụng không hợp lý cũng như tạo cơ sở cho quá trình lên kế hoạch thu mua cung ứng.
Mối quan hệ giữa 3 loại giá thành này được biều hiện dưới sơ đồ sau:
Chi phí trực tiếp
Chi phí quản lý phân xưởng
Chi phí sử dụng máy móc
Giá thành phân xưởng
Chi phí quản
lý doanh nghiệp
Giá thành công xưởng
Chi phí tiêu
thụ sản phẩm
Giá thành toàn bộ
4. Phương pháp xác định các loại chi phí trong giá thành
a. Đối tượng tính giá thành
Xác định đối tương tính giá thành là công việc đầu tiên trong toàn bộ công việc tính giá thành sản phẩm của kế toán. Bộ phận tính giá thành phải căn cứ vào tính chất, đặc điểm của doanh nghiệp, các loại sản phẩm lao vụ mà doanh nghiệp sản xuất để xác định đối tượng tính giá thành cho phù hợp. Vậy đối tượng tính giá thành là các loại sản phẩm, công việc, lao vụ do doanh nghiệp sản xuất ra cần phải tính được tổng giá thành và giá thành đơn vị.
Nếu doanh nghiệp tổ chức sản xuất đơn chiếc thì đối tượng tính giá thành là từng đơn vị sản phẩm, từng công việc sản xuất. Nếu doanh nghiệp tổ chức sản xuất hàng loạt thì đối tượng là từng loạt sản phẩm.
VD: - Công ty xây dựng đối với tượng là công trình xây dựng.
- Công ty sản xuất bánh kẹo thì đối tượng là mẻ kẹo, bánh.
Ngoài ra trên thực tế thì công nghệ sản xuất cũng ảnh hưởng tới việc xác định đối tượng giá thành. Công nghệ giản đơn thì đối tượng tính giá thành chỉ có thể là sản phẩm đã hoàn thành ở khâu cuối của quy trình sản xuất, nếu quy trình công nghệ phức tạp kiểu liên tục thi đối tượng tính giá thành có thể là thành phẩm ở giai đoạn cuối cùng hoặc cũng có thể là loại nửa thành phẩm hoàn thành ở giai đoạn sản xuất.
Tóm lại, việc xác định đúng đối tượng tính giá thành là căn cứ để tập hợp chi phí và tính giá thành tổ chức các bảng tính giá thành sản phẩm. Lựa chọn phương pháp tính thích hợp, tổ chức công việc tính giá thành hợp lý phục vụ công việc quản lý và kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch giá thành và tính toán hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Trong việc tính giá thành phải xác định được thời kỳ tính giá thành thích hợp, có như vậy giá thành sản phẩm mới mang tính khoa học, hợp lý, đảm bảo cung cấp số liệu thông tin về giá thành thực tế của sản phẩm lao vụ kịp thời trung thực, phát huy được vai trò kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch hạ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp.
b:Nguyên tắc tính giá thành:
Giá thành sản phẩm làchỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh chất lượng hoạt động sản suất kinh doanh. Giá thành là công cụ quan trọng để các nhà quản lý nâng cao hiệu quả kinh tế của quá trình sản suất.Vì vậy phải tính đúng, tính đủ chi phí vào giá thành của các loại sản phấm do doanh nghiệp sản xuất ra.
Tính đúng là tính chính xácvà hoạch toán đúng nội dung kinh tế của chi phí đã chi rađể sản xuât ra sản phẩm.Muốn vậy phải xác định đối tượng tính giá thành, vận dụng đúng phương pháp tính giá thành thích hợp .Giá thành phái được tính trên cơ sở số liệu chi phí sản xuất được tập hợp một cách chính xác kịp thời.
Tính đủ là tính toán đầy đủ mọi chi phí đã bỏ ra trên tinh thần hạch toán kinh doanh thực sự, loạI bỏ mọi yếu tố bao cấp đẻ tính đủ đầu vào theo chế độ quy định.Tính đủ cung đòi hỏi phải loại bỏ nhữmg chi phí không liên quan đến quá thình sản xuất kinh doanh những chi phí mang tính chất tiêu cực lãng phí không hợp lý.
Vậy tính đúng tímh đủ chi phí vào giá thành sản phẩm sẽ làm cho giá thành là tấm gương thật, phản ánh đầy đủ tình hình và kết quả hoạt đông sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong kì kinh doanh xác định đúng kết quả tàI chính khắc phục được hiện tượng “lãi giả ,lỗ thật” Chính vì vậytính đúng, tính đủ chi phí vào tronh giá thành sản phẩm là việc làm cấp bách và thiết thực đối với các doanh nghiệp công nghiệp sang cơ chế thị trường.
c:Phương pháp tính giá thành đơn vị;
Trong tính toán giá thành sản phẩm có nhiều phương pháp tính khác nhau nhưng phương pháp được áp dụng phổ biến nhất là phương pháp tính giáthành theo khoản mục tính toán. Nội dung được căn cứ vào cách phân loại phân bổ chi phí.
Chi phí trực tiếp
Chi phí gín tiếp
+Tính các chi phí trực tiếp vào tronh giá thành .
Chi phí trực tiếp là khoản chi phí liên quan đến từng đơn vị sản phẩm và tính vào giá thành như : nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ , ….Có thể chia
*Lao động quá khứ bao gồm NVL chính , VLphụ, …Khi tính vào giá thành theo công thức
Định mức tiêu hao cho một đơn vị sản phẩm *Giá cả của một đơn vị
*Lao động sống
. Đối với tiền lương chính của công nhân sản xuất chính
Đinh mức tiêu hao thời gian để sản xuất ra 1 đơn vị * tiền lương bình quân của môt đơn vị thời gian
. Đối với tiền lương phụ thông thường xác định bằng 10% so với tiền lương chính
. BHXH của công nhân chínhbằng 15-17% so với tiền lương chính và phụ
+Tinh các chi phí gián tiếp vào trong giá thành
Chi phí gián tiếp là các khoản chi phí không liên quan trực tiếp đến từng đơn vị sản phẩm mà nó liên quan đến việc sản xuất , quản lý chung cho cả phân xưởng và toàn doanh nghiệp.
* Chi phí phân xưởng vào giá thành
Chi phí phân xưởng là khoản chi phí nó không liên quan đến từng đơn vị sản phẩm mà nó liên quan đéen việc sản xuất của toàn phân xưởng
Phương pháp phân bổ chi phí phân xưởng hiện nay vào trong giá thànhphổ biến nhất hiện nay là phân bổ theo tỷ lệ với tiền lương chính của công nhân sản xuất chính
Chi phí phân xưởng Tổng chi phí phân xưởng tiền lương chính
p hân bổ vào trong = * của một sản phẩm
giá thành Tỏng quỹ lương chính px
*Chi phí quản lý doanh nghiệp vào giá thành.
Chi phí quản lý doanh nghiệp là khoản chi phí nó không liên quan trực tiếp đến từng đơn vị sản phẩm và cũng không liên quan gì đến việc sản xuất và quản lý phân xưởng mà liên quan sản xuất , quản lý chính của toàn bộ doanh nghiệp
Phương pháp phân bổ sử dụng rộng rãi rất đó là phân bổ theo tỷ lệ của tiền lương công nhân sản xuất chính
Chi phí quản lý doanh nghiệp Tổng chi phí quản lý dn Tiền lương
phân bổ vào trong giá thành = * chính một
Tổng quỹ lương chính của dn sản phẩm
d : ý nghĩa chỉ tiêu giá thành sản phẩm
Giá thành là thước đo hao phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm là căn cứ để xác định hiệu quả kinh doanh. Để quyết định lựa chọn sản xuất một loạt sản phẩm nào đó ,doanh nghiệp cần nắm được nhu cầu thị trường ,giá cả thị trường vàmức hao phí sản xuất, tiêu thụ sản phấm đó. Trên cơ sở như vậy mới xác định được hiệu quả sản xuất các loại sản phẩm để từ đó quyết định lựa chọn và khối lượng sản xuất nhằm lợi nhuận tối đa.
Giá thành là một công cụ quan trọng của doanh nghiệp để kiểm soát tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, xem xét hiệu quảcủa các biện pháp tổ chức kĩ thuật . Thông qua tình hình thực tế kế hoach giá thành , doanh nghiệp c