Đề tài Các giải pháp nhằm triển khai dịch vụ bao thanh toán tại ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín

Kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển và hướng tới mục tiêu trở thành một nền kinh tế thị trường. Để đạt được mục tiêu đó, Việt Nam đã nổ lực rất nhiều và để chứng minh cho những nổ lực đó là kể từ ngày 7/11/2006 Việt Nam đã trở thành viên của Tổ chức thương mại quốc tế - WTO. Tuy nhiên, việc gia nhập WTO đòi hỏi Việt Nam phải có những thay đổi về thể chế từ việc phải tạo ra một sân chơi bình đẳng hơn cho các doanh nghiệp đến việc mở rộng cạnh tranh trong những lĩnh vực dịch vụ quan trọng, đặc biệt là lĩnh vực tài chính – ngân hàng. Từ nay đến năm 2008, ngành tài chính – ngân hàng Việt Nam sẽ mở cửa hội nhập mạnh mẽ với khu vực và thế giới. Chính vì thế, đa dạng hóa và phát triển sản phẩm mới là một trong những chiến lược để tồn tại và phát triển của bất kỳ ngân hàng nào. Để đạt được mục tiêu đó, các ngân hàng phải nhanh chóng đưa vào áp dụng những sản phẩm tài chính mới đã được phát triển trên thế giới, trong đó có nghiệp vụ bao thanh toán – Factoring. Thật ra bao thanh toán không phải là một nghiệp vụ hoàn toàn mới lạ, những lợi ích mà bao thanh toán mang lại cho thương mại trong phạm vi quốc gia và trên thế giới ngày càng được khẳng định và công nhận rộng rãi. Nghiệp vụ này có thể giúp cho các doanh nghiệp giải quyết phần nào tình trạng thiếu vốn trong ngắn hạn và trung hạn. Với những kiến thức về nghiệp vụ bao thanh toán mà tôi đã học ở giảng đường và qua tiếp xúc thực tế ở ngân hàng, tôi thật sự muốn đóng góp một phần nhỏ của mình vào việc thúc đẩy sự phát triển của ngân hàng nói chung và ngân hàng Sài Gòn Thương Tín nói riêng. Điều đó được thể hiện qua đề tài “Các giải pháp nhằm triển khai dịch vụ bao thanh toán tại ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín”. Đề tài gồm có 3 chương: - Chương 1: Giới thiệu tổng quan về ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín - Chương 2: Nói về thực trạng dịch vụ bao thanh toán tại Việt Nam và tại ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín. - Chương 3: Đưa ra những kiến nghị nhằm góp phần triển khai dịch vụ BTT tại Sacombank.

doc39 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1137 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các giải pháp nhằm triển khai dịch vụ bao thanh toán tại ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BAO THANH TOÁN: 2.1.1 Lịch sử hình thành sản phẩm bao thanh toán (BTT) Nghiệp vụ BTT có lịch sử phát triển lâu dài, xuất phát từ hoạt động đại lý hưởng hoa hồng khoảng 2000 năm trước dưới thời đế chế La Mã, phát triển ở Anh vào thế kỷ 15 dưới hình thức ứng trả trước một phần cho người ủy nhiệm (nhà cung ứng sản phẩm), và phát triển mạnh từ thế kỷ 19 thông qua các nhà đại lý thanh toán ngành dệt may của Mỹ, ngành công nghiệp điện, hóa chất, sợi tổng hợp…Với lịch sử lâu đời nên định nghĩa nghiệp vụ BTT cũng hết sức đa dạng.  Theo công ước về BTT quốc tế của UNIDROIT 1988, nghiệp vụ BTT được định nghĩa như là một dạng tài trợ bằng việc mua bán các khoản nợ ngắn hạn trong giao dịch thương mại giữa tổ chức tài trợ và bên cung ứng. Theo đó, tổ chức tài trợ thực hiện tối thiểu hai trong số các chức năng sau: Tài trợ bên cung ứng (gồm cho vay và ứng trước tiền), quản lý sổ sách liên quan đến các khoản phải thu, thu nợ các khoản phải thu, bảo đảm rủi ro không thanh toán của bên mua hàng.  Còn hiệp hội BTT thế giới FCI thì định nghĩa BTT là một loại hình dịch vụ tài chính trọn gói bao gồm sự kết hợp giữa tài trợ vốn hoạt động, bảo hiểm rủi ro tín dụng, theo dõi các khoản phải thu và dịch vụ thu hộ. Đó là một sự thỏa thuận giữa người cung cấp dịch vụ BTT (factor) với người cung ứng hàng hóa dịch vụ hay còn gọi là người bán hàng trong quan hệ mua bán hàng hóa (seller). Theo như thỏa thuận factor sẽ mua lại các khoản phải thu của người bán dựa trên khả năng trả nợ của người mua trong quan hệ mua bán hàng hóa (buyer) hay còn gọi là con nợ trong quan hệ tín dụng (debtor).  Ngoài ra, đối với một số tổ chức cung cấp dịch vụ BTT khác thì nghiệp vụ BTT được định nghĩa là việc mua lại các khoản phải thu, hay việc cung cấp tài trợ tài chính ngắn hạn thông qua việc trả các khoản phải thu ngay lập tức bằng tiền mặt để cải thiện dòng ngân lưu của khách hàng (clients) đồng thời nhận lấy rủi ro tín dụng. Các dịch vụ đi kèm gồm có quản lý nợ, quản lý sổ cái bán hàng, xếp hạng hạn mức tín dụng và thu hộ.  Trong một nghiệp vụ BTT thông thường sẽ có sự xuất hiện của ít nhất ba bên: tổ chức BTT (factor), khách hàng của tổ chức BTT (client hay seller) và con nợ của tổ chức BTT (debtors hay buyers). Đối với các loại BTT xuất nhập khẩu thì sẽ có hai đơn vị BTT, một đơn vị ở nước của nhà xuất khẩu và một đơn vị ở nước của nhà nhập khẩu. Ngoài ra, khi một khách hàng ký kết hợp đồng thực hiện nghiệp vụ BTT đối với factor, họ sẽ bán không phải là một mà một số các khoản phải thu từ nhiều khách hàng khác nhau, cho nên trong một nghiệp vụ BTT có thể có rất nhiều con nợ của factor. 2.1.2 Khái niệm và chức năng của nghiệp vụ bao thanh toán 2.1.2.1 Khái niệm: Theo Hiệp hội BTT quốc tế (FCI), BTT là một dịch vụ tài chính trọn gói, kết hợp việc tài trợ vốn lưu động, phòng ngừa rủi ro tín dụng, theo dõi công nợ và thu hồi nợ. Đó là sự thỏa thuận giữa đơn vị BTT và người bán, trong đó đơn vị BTT sẽ mua lại khoản phải thu của người bán, thường là không truy đòi, đồng thời có trách nhiệm đảm bảo khả năng chi trả của người mua. Nếu người mua phá sản hay mất khả năng chi trả vì những lý do tín dụng thì đơn vị BTT sẽ thay người mua trả tiền cho người bán. Khi người mua và người bán ở hai nước khác nhau thì dịch vụ này được gọi là BTT quốc tế. Theo Điều 1 Những quy định chung về hoạt động BTT quốc tế ấn bản tháng 06/2004 của FCI (General Rules for International Factoring Verion FCI June 2004), hợp đồng BTT là một hợp đồng, theo đó nhà cung cấp sẽ chuyển nhượng các khoản phải thu (hay một phần của các khoản phải thu) cho một đơn vị BTT, có thể vì hoặc không vì mục đích tài trợ, để thực hiện ít nhất một trong các chức năng sau đây: - Kế toán sổ sách các khoản phải thu; - Thu nợ các khoản phải thu; - Phòng ngừa rủi ro nợ xấu. Theo điều 2 Chương I Công ước UNIDROIT về BTT quốc tế (UNIDROIT Convention on International Factoring) định nghĩa: BTT là một dạng tài trợ bằng việc mua bán các khoản nợ ngắn hạn trong giao dịch thương mại giữa tổ chức tài trợ và bên cung ứng, theo đó tổ chức tài trợ thực hiện tối thiểu hai trong số các chức năng sau: tài trợ bên cung ứng gồm cho vay và ứng trước tiền, quản lý sổ sách liên quan đến các khoản phải thu, thu nợ của các khoản phải thu, bảo đảm rủi ro không thanh toán của bên mua hàng. Đối với một số tổ chức cung cấp dịch vụ BTT khác thì nghiệp vụ này được định nghĩa là việc mua lại các khoản phải thu hay việc cung cấp tài trợ tài chính ngắn hạn thông qua việc trả các khooản phải thu ngay lập tức bằng tiền mặt để cải thiện dòng ngân lưu của khách hàng (client) đồng thời nhận lấy rủi ro tín dụng (rủi ro khi người mua không thanh toán, người mua không nhận hàng…). Các dịch vụ đi kèm gồm có: quản lý nợ, quản lý sổ cái bán hàng, xếp hạng hạn mức tín dụng và thu hộ. Theo Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ban hành ngày 06/09/2004 của Thống đốc NHNN, BTT là một hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho bên bán hàng thông qua việc mua bán các khoản phải thu phát sinh từ việc mua bán hàng hóa giữa bên bán hàng và bên mua hàng thỏa thuận trong hợp đồng mua bán. BTT là sự tổng hợp tính chất của các hoạt động tài trợ cho người bán, tài trợ dựa trên hóa đơn, tài trợ thương mại hay chiết khấu hóa đơn. Về cơ bản, BTT là hình thức cho vay ngắn hạn, trong đó người cho vay được đảm bảo bằng cách nắm giữ quyền được đòi khoản phải thu của người đi vay. Nói tóm lại, BTT được hiểu là sự chuyển nhượng nợ của người mua hàng (con nợ) từ người bán hay cung ứng dịch vụ (chủ nợ cũ) sang đơn vị BTT (chủ nợ mới). Đơn vị BTT đảm bảo việc thu nợ, tránh các rủi ro không trả nợ hoặc không có khả năng trả nợ của người mua. Đơn vị BTT có thể trả trước toàn bộ hay một phần các khoản nợ của người mua cùng với một khoản hoa hồng tài trợ và phí thu nợ. Mọi rủi ro không thu được tiền hàng đều do người tài trợ gánh chịu. Ngoài ra, nghiệp vụ BTT còn bao gồm một số dịch vụ như quản lý tài khoản phải thu của khách hàng, cung cấp các thông tin kinh tế, tiền tệ, tín dụng và thương mại nhằm tăng thu và giữ tốt quan hệ với khách hàng lâu dài. 2.1.2.2 Chức năng: Nghiệp vụ BTT có 3 chức năng cơ bản là chức năng dịch vụ thanh toán, chức năng tài chính và chức năng bảo hiểm rủi ro tín dụng. a/ Chức năng dịch vụ thanh toán Tổ chức BTT sẽ đảm bảo mọi nhiệm vụ BTT cho người mua về những khoản thanh toán chuyển nhượng, đảm nhiệm nghiệp vụ nhờ thu hoặc thông báo cho người mua giải quyết những vướng mắc trong hoạt động BTT. Như vậy tổ chức BTT phải thực hiện tất cà những nghiệp vụ ngân hang phục vụ cho khách hang (người bán). Tổ chức BTT còn thực hiện chức năng kiểm tra và giám sát khả năng thanh toán của người mua, thống kê kế hoạch sản xuất và doanh thu cho người bán, xác định thuế suất và thuế doanh thu. Qua đó chúng ta có thể coi BTT như là một nhà tài chính, NH phục vụ đắc lực cho người bán. b/ Chức năng tài chính Tổ chức BTT đảm nhiệm chức năng tài chính tín dụng cung ứng cho người mua. Cụ thể là tổ chức BTT sẽ thực hiện 2 nghiệp vụ tài chính ứng trước và chiết khấu. Nghiệp vụ ứng trước: cho dù hợp đồng BTT được ký kết từ trước, nhưng ngày có hiệu lực là ngày thanh toán theo định kỳ thanh toán của người mua. Do đó muốn sử dụng vốn trước ngày này, người bán có thể vay tín dụng của tổ chức BTT. Tổng mức tín dụng này không phụ thuộc vào khả năng thanh toán của người mua, trung bình từ 70 – 90% giá trị khoản phải thu. Đây cũng là điều khác với các loại tín dụng ứng trước thong thường. Hình thức tín dụng này được thực hiện như tín dụng luân chuyển và người bán trả lãi suất cho khoản tín dụng này như lãi suất luân chuyển thông thường và hạn mức từ 70 – 90% khoản thanh toán. Nhưng vì đây là hợp đồng mua bán các khoản thanh toán, nếu xét về lý thì sau khi xuất hang ngưới bán có quyền bán các khoản phải thu này theo giá thỏa thuận nhưng làm như vậy người bán sẽ phải trả một cái giá quá đắt. Thông thường để tạo diều kiện cho người bán đồng thời khuyến khích người bán sử dụng dịch vụ BTT, các tổ chức BTT đưa số lượng thanh toán còn lại tử 10 – 30% của các khoản phải thu vào tài khoản tiền gửi của người bán. Người bán cũng được hưởng lãi suát từ khoản tiền gửi này cho đến khi người mua thanh toán. Khi người mua thanh toán và tổ chức BTT nhận được khoản thanh toán này thì khi đó tổ chức BTT sẽ thu hồi khoản tín dụng ứng trước cộng với lệ phí BTT (bao gồm lệ phí hợp đồng, lệ phí dịch vụ, lệ phí rủi ro) và lãi suất tín dụng ứng trước nếu có. Số còn lại cộng với lãi suất từ các khoản tiền gửi sẽ được trả cho người bán. Qua đó cho thấy, BTT thể hiện ưu thế của nó hơn các khoản tín dụng khác. Nó tạo điều kiện thuận lợi cho người bán trong vấn đề vốn kinh doanh. Phần lãi từ tài khoản tiền gửi đã giảm bớt lãi suất vốn vay – một khoản tiền gửi thực chất là chưa có nguồn. Đó là điều vô lý. Nhưng không có nó thì không xảy ra hành vi mua bán các khoản thanh toán nữa, phải chăng đây là một nghệ thuật NH. Hơn thế nữa, tài khoản tiền gửi là cơ sở bảo đảm an toàn cho NH (tổ chức BTT) một khi sự cung ứng không bảo đảm đủ điều kiện của hợp đồng thương mại. Nghiệp vụ chiết khấu: Với hình thức này, người bán có thể bán tất cả các chứng từ thanh toán và vận chuyển cho tổ chức BTT và nhận tiền ngay tức khắc. Nhưng tỷ lệ chiết khấu khá cao (từ 10 – 30%) và phụ thuộc vào khả năng thanh toán của người mua. Hay nói cách khác tỷ lệ này bao hàm cả lệ phí rủi ro và lãi tín dụng kể từ ngày mua cho tới ngày định kỳ thanh toán. Để được chiết khấu các khoản thanh toán, người bán phải thực hiện các biện pháp cần thiết để chống lại các rủi ro có thể xảy ra và phải nộp lệ phí cho dịch cụ này. Do đó nghiệp vụ chiết khấu không ưu việt như nghiệp vụ ứng trước tài chính và không phải thong dụng trong hoạt động BTT. Tuy vậy nó cũng có ưu thế hơn nghiệp vụ chiết khấu của tín dụng chứng từ, vì đây là nghiệp vụ chiết khấu không bảo lưu, trong khi chiết khấu hối phiếu trong hoạt động tín dụng thư được phép truy đòi người phát hành hối phiếu. c/ Bảo hiểm rủi ro tín dụng Với chức năng này, các tổ chức BTT đảm nhiệm những rủi ro do khả năng không thanh toán của người mua. Nhưng rủi ro này xảy ra một khi người mua không có đủ khả năng thanh toán trong một thời hạn quy định và khi đó tổ chức BTT không có quyền truy đòi đối với người bán. Khác với bảo hiểm hàng hóa khác, các nhà BTT phải gánh chịu mọi rủi ro (ví dụ rủi ro phá sản…) mà không được đòi hỏi người bán phải gánh chịu một phần. Do đó chúng ta có thể coi đây là sự bảo đảm tuyệt đối. Nhưng tổ chức BTT chỉ gánh chịu những rủi ro do người mừ a gây ra mà không gánh chịu những rủi ro về chính trị cũng như những rủi ro chủ quan về người bán. 2.1.3 Các loại hình bao thanh toán 2.1.3.1 Theo phạm vi thực hiện a/ Bao thanh toán nội địa: là hình thức cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại hay công ty tài chính chuyên nghiệp cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua bán hàng hoá, trong đó bên bán hàng và bên mua hàng là người cư trú trong phạm vi một quốc gia. Quy trình thực hiện: 1. Hôïp ñoàng baùn haøng 2. Yeâu caàu tín duïng Ngöôøi baùn (Khaùch haøng) Ngöôøi mua (Con nôï) Ñôn vò bao thanh toaùn 4. Traû lôøi tín duïng 7. Chuyeån nhöôïng hoùa ñôn BTT 8. Thanh toaùn tröôùc 11Thanh toaùn öùngtröôùc 3. Thaåm ñònh tín duïng 9. Thu nôï khi ñeán haïn 10. Thanh toaùn 6. Giao haøng 5. .Kí HÑ BTT Người bán và người mua tiến hành thương lượng trên hợp đồng mua bán hàng hoá. Người bán đề nghị đơn vị BTT tài trợ với tài sản đảm bảo chính là khoản phải thu trong tương lai từ hợp đồng mua bán hàng hoá. Đơn vị BTT tiến hành thẩm định khả năng thanh toán tiền hàng của người mua. Nếu xét thấy có thể thu được tiền hàng từ người mua theo đúng hạn hợp đồng mua bán, đơn vị BTT sẽ thông báo đồng ý tài trợ cho người bán. Đơn vị BTT và người bán thoả thuận và ký kết hợp đồng BTT. Người bán giao hàng cho người mua theo đúng thoả thuận trong hợp đồng mua bán hàng hoá. Người bán chuyển nhượng hoá đơn, chứng từ bán hàng và các chứng từ khác liên quan đến các khoản phải thu cho đơn vị BTT. Đơn vị BTT ứng trước một phần tiền hàng cho hợp đồng BTT. Khi đến hạn thanh toán, đơn vị BTT tiền hành thu hồi nợ từ người mua. (10)Người mua thanh toán tiền hàng cho đơn vị BTT. (11)Sau khi đã thu hồi tiền hàng từ phía người mua, đơn vị BTT thanh toán nốt tiền chuyển nhượng khoản phải thu cho người bán. b/ Bao thanh toán xuất nhập khẩu: là nghiệp vụ BTT dựa trên hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hoá, các khách hàng và con nợ là những doanh nghiệp ở các nước khác nhau. Đơn vị bao thanh tán cấp tín dụng cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua bán hàng hoá, trong đó bên bán hàng và bên mua hàng vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia. Quy trình thực hiện: 12.Thanh toaùn, baùo caùo chuyeån tieàn Ñôn vò BTT XK Nhaø XK (Ngöôøi baùn) Nhaø NK (Ngöôøimua) Ñôn vò BTT NK 1. HÑ baùn haøng 7. Giao haøng 11Thanh toaùn 10Thu nôï khi ñeán haïn 4Thaåm ñònh HÑ 13.Thanh toaùn öùng tröôùc 9.Thanh toaùn tröôùc 8.Chuyeån nhöôïng HÑ BTT 6.Kí HÑ BTT 5.Traû lôøi tín duïng 2.Yeâu caáu tín duïng 3.Yeâu caàu tín duïng 8.Chuyeån nhöôïng 5.Traû lôøi tín duïng Người bán và người mua tiến hành thương lượng trên hợp đồng mua bán hàng hoá. Người bán đề nghị đơn vị bao thanh toán xuất khẩu tài trợ với tài sản đảm bảo chính là khoản phải thu trong tương lai từ hợp đồng mua bán hàng hoá. Đơn vị BTT xuất khẩu đề nghị đơn vị BTT nhập khẩu cùng thực hiện hợp đồng BTT. Đơn vị BTT nhập khẩu thực hiện phân tích các khoản phải thu, tình hình hoạt động và khả năng tài chính của bên mua hàng. Đơn vị BTT nhập khẩu đồng ý tham gia giao dịch BTT với đơn vị BTT xuất khẩu. Đơn vị BTT chấp thuận tài trợ cho người bán. Đơn vị BTT xuất khẩu và người bán thoả thuận và ký hợp đồng BTT. Người bán giao hàng cho người mua theo đúng thoả thuận trong hợp đồng mua bán hàng hoá. Đơn vị xuất khẩu chuyển nhượng hoá đơn cho đơn vị BTT xuất khẩu và đơn vị BTT xuất khẩu chuyển nhượng hoá đơn cho đơn vị BTT nhập khẩu. Đơn vị BTT xuất khẩu chuyển tiền ứng trước cho người bán theo thoả thuận trong hợp đồng BTT. Khi đến hạn thanh toán, đơn vị BTT nhập khẩu tiến hành thu hồi nợ từ người mua. Người mua thanh toán tiền hàng cho đơn vị BTT nhập khẩu. Đơn vị BTT nhập khẩu trích từ phí và lãi (nếu có) rồi chuyển số tiền cón lại cho đơn vị BTT xuất khẩu. Đơn vị BTT xuất khẩu trích trừ phí rồi chuyển số tiền còn lại cho người bán. 2.1.3.2 Theo ý nghĩa bảo hiểm rủi ro: a/ Bao thanh toán truy đòi: là hình thức BTT, trong đó đơn vị BTT có quyền truy đòi lại số tiền đã ứng trước cho bên bán hàng khi bên mua hàng không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ thanh toán khoản phải thu. Vì vậy, trong BTT truy đòi, tổn thất chỉ thực sự xảy ra trong trường hợp khoản phải thu không được thanh toán và người bán không thể bù đắp khoản thiếu hụt. b/ Bao thanh toán miễn truy đòi: là hình thức BTT, trong đó đơn vị BTT chịu toàn bộ rủi ro khi bên mua hàng không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ thanh toán khoản phải thu. Đơn vị BTT chỉ có quyền đòi lại số tiền đã ứng trước cho bên bán hàng trong trường hợp bên mua từ chối thanh toán khoản phải thu do bên bán giao hàng không đúng hợp đồng hoặc vì lý do khác không liên quan đến khả năng thanh toán của bên mua hàng. 2.1.3.3 Theo thời hạn: a/ Bao thanh toán ứng trước (BTT chiết khấu): là loại hình BTT trong đó đơn vị BTT chiết khấu các khoản phải thu trước ngày đáo hạn và ứng trước tiền cho đơn vị bán hàng (có thể đến 80% trị giá hoá đơn). b/ Bao thanh toán khi đến hạn: là loại BTT theo đó đơn vị BTT sẽ trả cho các khách hàng của mình (người bán hàng) số tiền bằng giá mua của các khoản bao thanh toán khi đáo hạn. 2.1.3.4 Theo phương thức bao thanh toán: a/ Bao thanh toán từng lần: đơn vị BTT và ben bán hàng thực hiện các thủ tục cần thiết và ký hợp đồng BTT đối với các khoản phải thu của bên bán hàng. b/ Bao thanh toán theo hạn mức: đơn vị BTT và bên bán hàng thoả thuận và xác định một hạn mức BTT duy trì trong một khoảng thời gian nhất định. c/ Đồng bao thanh toán: hai hay nhiều đơn vị BTT cùng thực hiện hoạt động BTT cho một hợp đồng mua bán hàng, trong đó một đơn vị BTT làm đầu mối thực hiện việc tổ chức đồng BTT. 2.1.4 Lợi ích khi sử dụng dịch vụ bao thanh toán 2.1.4.1 Đối với người bán: Thứ nhất, cải thiện dòng lưu chuyển tiền tệ nhờ thu được tiền hàng nhanh hơn. Lượng tiền mặt sẵn có tại doanh nghiệp tăng lên, góp phần thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển. BTT là một quá trình chuyển hóa các khoản phải thu thành tiền mặt. Đối với bất kỳ một người bán nào, tiền mặt là quyền lực và sức mạnh. Không có tiền mặt, người bán không thể tồn trữ nhiều hàng hơn, cũng không có tiền để trả lương cho công nhân viên. BTT không phân biệt khách hàng là ai, đó có thể là một công ty in ấn, một cửa hàng bán công cụ máy móc, một nhà máy dệt may, một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực thương mại dịch vụ hay bất cứ một chủ thể nào của nền kinh tế. Mỗi một đơn vị BTT, với kinh nghiệm dày dạn trong rất nhiều lĩnh vực, sẽ là một cộng tác đắc lực hỗ trợ cho công việc làm ăn của khách hàng ngày càng thuận lợi và phát triển hơn. Người bán có thể yên tâm vì các đơn vị BTT hoàn toàn có đủ năng lực chuyên môn, hệ thống mạng lưới rộng khắp cũng như là sự hiểu biết thông thái về từng lĩnh vực chuyên môn để có thể thực hiện tốt công việc của mình ở một số tổ chức BTT chuyên nghiệp, người bán thậm chí có thể nhận được tiền ngay trong ngày đề nghị BTT. Nói một cách ngắn gọn, các tổ chức BTT giúp người bán lấp được lỗ hỗng thiếu hụt tiền mặt trong khoảng thời gian từ khi giao hàng đến khi được người mua thanh toán. Thứ hai, điều kiện cấp tín dụng thương mại dễ dàng, hấp dẫn làm mãi lực tăng mạnh, từ đó nhà cung cấp nguyên vật liệu đầu vào càng sẵn sàng hỗ trợ nhiều hơn. Là một đối tác tài chính, các tổ chức BTT sẽ đem lại cho người bán nguồn lực tài chính để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, tồn trữ thêm nhiều hàng tồn kho, cung ứng nhiều đơn hàng hay chỉ đơn giản là tìm kiếm các cơ hội làm ăn mới. Các tổ chức BTT luôn khẳng định mình sẽ luôn sát cánh với khách hàng, thấu hiểu mọi nhu cầu của họ, và thiết lập một chương trình hỗ trợ tài chính để giúp đỡ họ. Rất nhiều chủ thể kinh tế rơi vào tình trạng càng phát triển kinh doanh lại càng thiếu tiền. Khi đó, BTT sẽ là phương tiện rất hiệu quả giúp họ vượt qua khó khăn. Người mua nào cũng mong muốn mua hàng từ một người bán đưa ra giá thấp nhất mà lại có nguồn hàng dồi dào nhất. Nhưng chính điều đó lại đẩy người bán vào tình thế khó xử, càng phát triển lại càng phải bán chịu nhiều hơn. Thật không may là phần lớn người bán không thể nào xoay xở được với tất cả các khoản bán chịu này. Dù việc buôn bán có phát đạt đến thế nào thì tới một lúc người bán cũng nhận thấy rằng mình đang rơi vào một tình thế rất nguy hiểm. Các tổ chức BTT sẽ giảm thiểu rủi ro này bằng cách chuyển các hóa đơn chưa thu được tiền thành tiền mặt, nhờ đó mà người bán có thể tiếp tục cấp tín dụng thương mại cho người mua mà không cần phải lo rủi ro thanh khoản nữa. Hệ quả trực tiếp của việc này là người bán nâng cao được năng lực cạnh tranh của mình nhờ sẵn sàng chấp nhận khoảng thời gian bán chịu hấp dẫn người mua hơn. Các tổ chức BTT cam kết tận dụng sự thông thạo trong lĩnh vực tín dụng, thu hồi nợ, cung ứng nguồn tiền mặt hay tài trợ giúp cho người bán nâng cao được hiệu quả hoạt động, vừa tăng doanh số vừa giảm được mất mát do không thu hồi được nợ, đồng thời cải thiện rõ rệt dòng lưu chuyển tiền tệ. Nhờ mọi rắc rối kể trên đã được chuyển sang cho tổ chức BTT nên người bán có thể toàn tâm toàn ý tập trung vào việc sản xuất hay cung ứng hàng hóa. Nói tóm lại, người bán càng thêm có nhiều cơ hội làm ăn nhờ: - Sẵn sàng bán chịu cho người mua mà không sợ ảnh hưởng đến dòng lưu chuyển tiền tệ; - Tăng doanh số; - Tăng tồn trữ hàng tồn kho; - Cải thiện hiệu quả hoạt động nội bộ; - Tận dụng thế mạnh của chiết khấu thương mại; - Nâng hạng tín nhiệm; - Tìm kiếm nhiều cơ hội mới. Thứ ba, nâng cao hiệu quả hoạt động nhờ chuyên môn hóa sản xuất. Bên cạnh việc sản xuất kinh doanh mặt hàng chính yếu, người bán còn phải mất thời gian quản lý các khoản phải

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docchuong 2b.doc
  • docbang bieu.doc
  • docBìa.doc
  • docc1.doc
  • docc2.doc
  • docc3.doc
  • docchuong 1.doc
  • docchuong 3.doc
  • docket luan.doc
  • docmo dau.doc
  • docmuc luc b.doc
  • docNXGVHD.doc
  • docTL thamkhao.doc
  • docviet tat.doc
Tài liệu liên quan