Việc có được nguồn cung ứng thực phẩm an toàn, đáng tin cậy và bổ dưỡng là một nhu cầu cơ bản đối với tất cả mọi người. Các Chính phủ có trách nhiệm đảm bảo cho nhu cầu đó được đáp ứng. Sản xuất thực phẩm an toàn và chất lượng còn là điều kiện tiên quyết đối với sự phát triển thành công và bền vững các nguồn lực nông nghiệp quốc gia và thúc đẩy phát triển nền thương mại thực phẩm trong nước và quốc tế.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 68 trang
68 trang | 
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1914 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các nguyên tắc và kinh nghiệm thực tiễn về kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 1 
LỜI NÓI ĐẦU 
Việc có được nguồn cung ứng thực phẩm an toàn, đáng tin cậy và bổ dưỡng là một 
nhu cầu cơ bản đối với tất cả mọi người. Các Chính phủ có trách nhiệm đảm bảo cho 
nhu cầu đó được đáp ứng. Sản xuất thực phẩm an toàn và chất lượng còn là điều kiện 
tiên quyết đối với sự phát triển thành công và bền vững các nguồn lực nông nghiệp 
quốc gia và thúc đẩy phát triển nền thương mại thực phẩm trong nước và quốc tế. 
Trong thời gian gần đây, thế giới đang ngày càng đạt được nhiều tiến bộ trong việc 
kiểm soát các nguy cơ phát sinh do thực phẩm cũng như những cải tiến trong các hệ 
thống thanh tra và giám sát an toàn thực phẩm. Tổ chức Nông lương của Liên hiệp 
quốc (FAO) và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) hiện đang chú trọng mạnh mẽ đến việc 
xúc tiến các hệ thống quản lý an toàn thực phẩm quốc gia được dựa trên các nguyên 
tắc và các hướng dẫn khoa học nhằm vào tất cả các lĩnh vực trong dây chuyền thực 
phẩm. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với các nước đang phát triển khi cố gắng đạt 
được sự an toàn, chất lượng và bổ dưỡng thực phẩm, đòi hỏi một mức độ cam kết cao 
về chính trị và chính sách. 
Các hệ thống quản lý an toàn thực phẩm quốc gia có hiệu quả là điều thiết yếu để 
bảo vệ sức khoẻ và sự an toàn của người tiêu dùng trong nước. Đây cũng là yếu tố 
quyết định trong việc cho phép các nước có thể đảm bảo tính an toàn và chất lượng 
của hàng hoá thực phẩm của mình khi tham gia vào thương mại quốc tế. Để phản ánh 
về một xu thế mới toàn cầu trong hoạt động quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm, Trung 
tâm Thông tin KH&CN Quốc gia xin giới thiệu cùng độc giả tổng quan mang tên: 
"CÁC NGUYÊN TẮC VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ KIỂM SOÁT VỆ SINH 
AN TOÀN THỰC PHẨM". Hy vọng rằng tài liệu này có thể mang đến cho độc giả 
kinh nghiệm hữu ích về các cách tiếp cận mới đối với một hệ thống quản lý vệ sinh an 
toàn thực phẩm hiệu quả, hiện đại. 
Xin trân trọng giới thiệu. 
TRUNG TÂM THÔNG TIN KH&CN QUỐC GIA 
 2 
I. HỆ THỐNG QUẢN LÝ VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM QUỐC TẾ 
1. Các khái niệm cơ bản 
Thực phẩm có nghĩa là bất cứ một loại vật chất nào, đã chế biến, bán chế biến hay 
còn là nguyên liệu thô, được dự định sử dụng để phục vụ cho tiêu thụ ở người, kể cả 
các loại đồ uống, kẹo cao su và bất kỳ một loại chất nào được sử dụng trong sản xuất, 
chuẩn bị hay xử lý thức ăn, nhưng không bao gồm các loại mỹ phẩm, thuốc lá hay các 
chất sử dụng để làm thuốc. 
An toàn thực phẩm là một khái niệm khoa học diễn giải sự sản xuất, chế biến và lưu 
kho thực phẩm theo các cách có thể phòng tránh được bệnh tật do thức ăn gây ra. Khái 
niệm này bao hàm một số các thông lệ cần tuân thủ nhằm tránh các mối nguy hiểm 
tiềm tàng đối với sức khoẻ. Thực phẩm có thể truyền bệnh tật từ người sang người 
cũng như có thể là một môi trường sinh trưởng đối với vi khuẩn gây ngộ độc thực 
phẩm. 
Khái niệm an toàn thực phẩm và chất lượng thực phẩm đôi khi gây nhầm lẫn. An 
toàn thực phẩm nhằm vào các mối nguy hiểm, kể cả kinh niên hay cấp tính có thể làm 
cho thực phẩm gây tổn hại đến sức khoẻ của người tiêu dùng. Đây là vấn đề không thể 
thương lượng. Khái niệm chất lượng bao gồm tất cả các thuộc tính có thể làm cho giá 
trị của một sản phẩm ảnh hưởng đến người tiêu dùng. Khái niệm này bao gồm cả các 
thuộc tính tiêu cực như hư hỏng, ô nhiễm, không ngon, biến màu, mất mùi và các 
thuộc tính tích cực như xuất xứ, màu sắc, hương vị, độ mịn (kết cấu) và phương pháp 
chế biến thực phẩm. Sự khác biệt giữa an toàn và chất lượng thực phẩm có những tác 
động đến các chính sách công, đến bản chất và nội dung của hệ thống quản lý thực 
phẩm như thế nào cho phù hợp nhất đáp ứng các mục tiêu đã được quyết định của 
quốc gia. 
Quản lý thực phẩm (Food control) được định nghĩa là hoạt động điều khiển có 
tính bắt buộc của các cơ quan có thẩm quyền quốc gia hoặc địa phương nhằm tạo 
nên sự bảo vệ người tiêu dùng và đảm bảo rằng tất cả các loại thực phẩm trong khi 
sản xuất, vận chuyển, lưu kho, chế biến và phân phối đều an toàn, lành mạnh 
(không độc hại) và thích hợp cho tiêu thụ ở người; phù hợp với các yêu cầu về an 
toàn và chất lượng; được dán nhãn một cách trung thực và chuẩn xác như đã được 
quy định bởi luật pháp. 
Trách nhiệm trên hết của hoạt động quản lý an toàn thực phẩm đó là việc thi hành các 
luật lệ về thực phẩm bảo vệ người tiêu dùng tránh khỏi các loại thực phẩm không an toàn, 
không thuần khiết (kém chất lượng) và gian lận bằng cách nghiêm cấm việc bán các loại 
thực phẩm về bản chất, chất lượng không phù hợp với yêu cầu của người mua. 
Sự tin cậy vào độ an toàn và tính trung thực của hoạt động cung ứng thực phẩm là 
một yêu cầu quan trọng đối với người tiêu dùng. Sự bùng phát bệnh tật do thức ăn liên 
quan đến các tác nhân như vi khuẩn Escherichia Coli, Salmonella và các hoá chất gây 
 3 
ô nhiễm càng làm nổi bật các vấn đề về an toàn thực phẩm và làm tăng mối lo ngại của 
công chúng rằng các hệ thống trồng trọt hiện đại, các dây chuyền chế biến thực phẩm 
và marketing không tạo ra được sự đảm bảo thích hợp đối với sức khoẻ cộng đồng. 
Các yếu tố góp phần vào các mối nguy hiểm tiềm tàng trong thực phẩm bao gồm các 
thực tiễn nông nghiệp không thích hợp; kém vệ sinh ở tất cả các công đoạn của dây 
chuyền chế biến thực phẩm; thiếu sự kiểm soát phòng ngừa trong chế biến thực phẩm 
và các công đoạn chuẩn bị; sử dụng không đúng các hoá chất; nguyên liệu thô, các phụ 
phẩm và nước bị ô nhiễm; bảo quản kém hoặc không phù hợp, ... 
Các mối quan tâm chủ yếu về nguy hại thực phẩm thường chú trọng vào các yếu tố 
dưới đây: 
. Các mối nguy hiểm do vi khuẩn; 
. Dư lượng từ thuốc trừ sâu; 
. Sử dụng không đúng quy cách các phụ gia thực phẩm; 
. Các hoá chất gây ô nhiễm, trong đó có các độc tố sinh học; 
. Sự làm giả mạo. 
Danh sách các mối nguy hiểm trên còn có thể bao gồm cả các sinh vật biến đổi gen, 
các chất gây dị ứng, dư cặn thuốc thú y và hoocmôn kích thích sinh trưởng được sử 
dụng trong sản xuất các loại thực phẩm từ động vật. 
Hệ thống quản lý an toàn thực phẩm 
Người tiêu dùng trông đợi được bảo vệ trước các mối nguy hiểm phát sinh từ toàn bộ 
dây chuyền thực phẩm, tức là từ nhà sản xuất ban đầu cho đến người tiêu dùng (thường 
được gọi là farm-to-table continuum (dây chuyền liên tục từ trang trại đến bàn ăn). Sự bảo 
vệ sẽ chỉ có hiệu quả nếu tất cả các bộ phận của dây chuyền hoạt động theo một cách thức 
hợp nhất và các hệ thống quản lý thực phẩm được nhằm vào tất cả các công đoạn của dây 
chuyền này. Sự tuân thủ luật lệ trong lĩnh vực này sẽ không thể đạt được mục tiêu một 
cách đầy đủ nếu thiếu sự hợp tác và sự tham gia tích cực của tất cả các cổ đông, tức là nhà 
nông, ngành công nghiệp và người tiêu dùng, thuật ngữ hệ thống quản lý an toàn thực 
phẩm được sử dụng để diễn tả sự hợp nhất của cách tiếp cận kết hợp các quy định bắt 
buộc với các chiến lược phòng tránh và giáo dục nhằm bảo vệ toàn bộ dây chuyền thực 
phẩm. Như vậy, một hệ thống quản lý thực phẩm lý tưởng sẽ bao gồm việc thực thi có 
hiệu lực các yêu cầu bắt buộc, cùng với sự đào tạo và giáo dục, các chương trình với tới 
cộng đồng và sự khuyến khích tuân thủ tình nguyện. 
2. Codex Alimentarius - Tập hợp các tiêu chuẩn và quy định quốc tế về thực 
phẩm, chế biến thực phẩm và an toàn thực phẩm 
Codex Alimentarius 
Tên "Codex Alimentarius - Tiêu chuẩn thực phẩm quốc tế" có nguồn gốc từ tiếng 
Latinh và được dịch sát nghĩa là "Tiêu chuẩn về thực phẩm" hay "Luật về thực phẩm". 
 4 
Tiêu chuẩn thực phẩm quốc tế là một tập hợp các tiêu chuẩn, các quy chuẩn thực 
hiện, nguyên tắc hay các đề nghị về thực phẩm, sản xuất thực phẩm và an toàn 
thực phẩm được công nhận trên phạm vi quốc tế. Một số tiêu chuẩn này mang tính 
chất tổng quát, một số lại rất cụ thể. Một số thể hiện những yêu cầu cụ thể về một loại 
thực phẩm hoặc một nhóm thực phẩm, một số lại có nội dung quy định về hoạt động 
và quản lý các quy trình sản xuất hoặc hoạt động của các hệ thống điều tiết của Chính 
phủ về an toàn thực phẩm và bảo vệ người tiêu dùng. Các tài liệu này được phát triển 
và duy trì bởi Uỷ ban Tiêu chuẩn thực phẩm quốc tế (Codex Alimentarius 
Commission - sau đây gọi tắt là Uỷ ban Codex) , một cơ quan được Tổ chức Nông 
lương của Liên hiệp Quốc (FAO) và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) thành lập vào năm 
1963. Các mục tiêu chính của Uỷ ban là bảo vệ sức khoẻ của người tiêu dùng và đảm 
bảo các tập quán lành mạnh trong thương mại thực phẩm quốc tế. Tiêu chuẩn thực 
phẩm quốc tế được Cơ quan Thương mại Thế giới công nhận là đầu mối tham khảo 
quốc tế về giải quyết các tranh chấp về an toàn thực phẩm và bảo vệ người tiêu dùng. 
Tiêu chuẩn thực phẩm quốc tế, hay bộ luật quốc tế về thực phẩm, là đầu mối tham 
khảo mang tính toàn cầu cho người tiêu dùng, người sản xuất hay chế biến thực phẩm, 
các cơ quan kiểm soát thực phẩm quốc gia và thương mại thực phẩm quốc tế. Bộ luật 
có tác động rất lớn tới cách tư duy của các nhà sản xuất và chế biến thực phẩm cũng 
như nhận thức của người tiêu dùng. Ảnh hưởng của nó lan toả tới tất cả các châu lục 
và sự đóng góp của nó vào việc bảo vệ sức khoẻ cộng đồng và các tập quán lành mạnh 
trong thương mại thực phẩm là vô hạn. 
Hệ thống Tiêu chuẩn thực phẩm quốc tế là cơ hội độc nhất vô nhị để tất cả các nước 
gia nhập vào cộng đồng quốc tế qua việc hình thành và làm đồng bộ hoá các tiêu 
chuẩn thực phẩm và đảm bảo sự hoạt động trên phạm vi toàn cầu của họ. Nó cũng cho 
phép các nước này có vai trò trong việc phát triển các quy định về các phương pháp xử 
lý vệ sinh và các đề xuất về việc tuân thủ theo các tiêu chuẩn này. 
Tầm quan trọng của bộ luật thực phẩm đối với việc bảo vệ sức khoẻ người tiêu 
dùng được nhấn mạnh vào năm 1985 bằng Nghị quyết 39/248 của Liên Hiệp quốc, 
theo đó thông qua các nguyên tắc nhằm chi tiết hoá và củng cố các chính sách bảo vệ 
người tiêu dùng. Các nguyên tắc này quy định rằng "Khi hình thành nên các chính 
sách và kế hoạch quốc gia về thực phẩm, các Chính phủ nên tính tới nhu cầu của toàn 
bộ người tiêu dùng về an ninh lương thực; nên ủng hộ và áp dụng, càng chi tiết càng 
tốt, các tiêu chuẩn của Tiêu chuẩn thực phẩm quốc tế hoặc, trong trường hợp không có 
Tiêu chuẩn này, thì thông qua các tiêu chuẩn khác về thực phẩm được chấp nhận 
chung trên phạm vi quốc tế". 
Tiêu chuẩn thực phẩm quốc tế rất phù hợp với thương mại thực phẩm quốc tế. Đặc 
biệt, trong bối cảnh thị trường toàn cầu đang ngày càng phát triển hơn bao giờ hết, lợi 
thế của việc có các tiêu chuẩn thực phẩm thống nhất trên toàn cầu để bảo vệ người tiêu 
dùng là hiển nhiên. Vì vậy, không ngạc nhiên khi Hiệp định về Ứng dụng các Phương 
 5 
pháp Vệ sinh và Kiểm dịch Thực vật (Hiệp định SPS) và Hiệp định về các Hàng rào 
Kỹ thuật Thương mại (Hiệp định TBT) đều khuyến khích đồng bộ hoá các tiêu chuẩn 
thực phẩm trên phạm vi thế giới. Là thành quả của các cuộc đàm phán thương mại đa 
quốc gia thuộc Vòng đàm phán Uruguay, những Hiệp định này trích dẫn các tiêu 
chuẩn, nguyên tắc và các đề xuất quốc tế như là các biện pháp ưu đãi để tạo điều kiện 
thuận lợi cho thương mại thực phẩm quốc tế. Như vậy, các tiêu chuẩn Codex đã trở 
thành các điểm chuẩn để đánh giá các quy định và các tiêu chuẩn thực phẩm quốc gia 
theo các thông số hợp pháp của Các Hiệp định của WTO. 
Các tiêu chuẩn, quy chuẩn thực hiện, quy định và các đề xuất khác 
Các tiêu chuẩn Codex: thường là về các đặc điểm của sản phẩm và có thể liên quan 
tất cả các đặc điểm được Chính phủ quy định phù hợp với mặt hàng đó, hoặc chỉ một 
đặc điểm. Các giới hạn dư lượng tối đa (MRLs) về các dư lượng của thuốc trừ sâu 
hoặc các loại thuốc thú y ở thực phẩm là các ví dụ về các tiêu chuẩn áp dụng cho chỉ 
một đặc điểm. Có các tiêu chuẩn Codex chung quy định cho các chất phụ gia thực 
phẩm, các độc tố và chất gây ô nhiễm ở thực phẩm, bao gồm các điều khoản chung và 
cụ thể về hàng hoá. Tiêu chuẩn Codex chung đối với việc Dán nhãn Thực phẩm đóng 
gói sẵn bao gồm toàn bộ thực phẩm trong phân loại này. Do các tiêu chuẩn áp dụng 
cho các đặc điểm sản phẩm, nên chúng có thể được áp dụng ở bất cứ nơi nào những 
sản phẩm này được bán tới. Các Phương pháp phân tích và lấy mẫu Codex, bao gồm 
những phương pháp về các chất gây ô nhiễm, dư lượng thuốc trừ sâu và thú y ở thực 
phẩm cũng được coi là các tiêu chuẩn Codex. 
Các quy chuẩn thực hiện Codex: bao gồm các quy chuẩn về vệ sinh - xác định các 
tập quán sản xuất, chế biến, chế tạo, vận chuyển và tích trữ đối với từng loại thực 
phẩm hoặc các nhóm thực phẩm - được coi là thiết yếu để đảm bảo mức độ an toàn và 
phù hợp của thực phẩm đối với tiêu dùng. Đối với vệ sinh thực phẩm, phần quy định 
cơ bản là Các quy tắc Codex chung về Vệ sinh thực phẩm, đưa ra khuyến cáo về việc 
sử dụng Hệ thống Phân tích nguy hiểm và Điểm kiểm soát tới hạn (Hazard Analysis 
Critical Control Point System - HACCP). Quy chuẩn thực hiện kiểm soát việc sử dụng 
các loại thuốc thú y sẽ đưa ra hướng dẫn chung trong lĩnh vực này. 
Các nguyên tắc Codex được chia thành hai loại: 
- Các quy tắc để hoạch định chính sách trong các lĩnh vực chủ chốt cụ thể, 
- Các nguyên tắc để truyền tải các quy tắc này hoặc để truyền tải các điều khoản của 
các tiêu chuẩn chung Codex. 
Trong trường hợp các chất phụ gia thực phẩm, các chất ô nhiễm, vệ sinh thực phẩm 
và vệ sinh thịt các loại, các quy tắc cơ bản để điều tiết các vấn đề này được xây dựng 
thành các tiêu chuẩn và các quy chuẩn thực hiện phù hợp. 
- Các quy tắc Codex độc lập áp dụng cho: 
+ Bổ sung các chất dinh dưỡng cơ bản vào thực phẩm; 
 6 
+ Kiểm tra và cấp chứng nhận thực phẩm xuất - nhập khẩu; 
+ Thiết lập và áp dụng tiêu chuẩn vi sinh đối với thực phẩm; 
+ Thực hiện đánh giá nguy cơ vi sinh; 
+ Phân tích nguy cơ của thực phẩm được sản xuất từ công nghệ sinh học hiện đại. 
Các nguyên tắc Codex giải thích bao gồm những nguyên tắc về việc dán nhãn, đặc 
biệt là quy định về các xác nhận ghi trên nhãn. Nhóm này bao gồm các nguyên tắc xác 
nhận về dinh dưỡng và sức khoẻ, các điều kiện sản xuất, marketing và dán nhãn thực 
phẩm hữu cơ và các thực phẩm "hala" dành cho người theo đạo Hồi. Có một số 
nguyên tắc giải thích rõ các điều khoản của Các Quy tắc Kiểm tra và Cấp chứng nhận 
Thực phẩm Xuất nhập khẩu Codex, và các nguyên tắc về việc thực hiện các đánh giá 
về mức độ an toàn của các thực phẩm có nguồn gốc từ thực vật biến đổi ADN và vi 
sinh vật. 
Phạm vi 
Tiêu chuẩn thực phẩm Quốc tế Codex chính thức áp dụng cho tất cả các loại thực 
phẩm dù là qua chế biến, bán chế biến hay còn thô, nhưng chú trọng nhất tới các loại 
thực phẩm được bán trực tiếp tới tay người tiêu dùng. Ngoài các tiêu chuẩn dành cho 
các loại thực phẩm cụ thể, Tiêu chuẩn thực phẩm Quốc tế Codex còn bao gồm các tiêu 
chuẩn chung áp dụng cho các vấn đề ví dụ như dán nhãn thực phẩm, vệ sinh thực 
phẩm, dư lượng chất phụ gia và thuốc trừ sâu, và các phương thức đánh giá an toàn 
thực phẩm có nguồn gốc từ công nghệ sinh học hiện đại. Nó cũng bao gồm các nguyên 
tắc về quản lý trên khía cạnh hành chính (cấp nhà nước) các hệ thống kiểm tra và cấp 
chứng nhận thực phẩm xuất nhập khẩu. 
Các tiêu chuẩn về hàng hoá 
Tới nay số lượng lớn nhất của các tiêu chuẩn chuyên biệt ở Bộ Tiêu chuẩn Thực 
phẩm quốc tế Codex là một nhóm được gọi là "Các tiêu chuẩn hàng hoá". Các sản 
phẩm chủ yếu nhất ở tiêu chuẩn Codex là: 
- Đậu, quả đậu (cây họ đậu) và các sản phẩm kèm theo bao gồm các protein thực 
vật; 
- Dầu, mỡ và các sản phẩm liên quan; 
- Cá và các sản phẩm thuỷ sản; 
- Rau và quả tươi; 
- Rau và quả đông lạnh và chế biến; 
- Nước quả; 
- Thịt và các sản phẩm từ thịt; cháo và canh; 
- Sữa và các sản phẩm từ sữa; 
- Đường, các sản phẩm từ cacao, sôcôla và các sản phẩm hỗn hợp khác. 
 7 
Các tiêu chuẩn về hàng hoá có xu hướng tuân theo một mẫu cố định được đề ra 
trong Cẩm nang thực hiện quy trình của Uỷ ban Tiêu chuẩn thực phẩm Codex. Mẫu 
này bao gồm các loại thông tin sau: 
- Phạm vi bao gồm tên của thực phẩm được áp dụng tiêu chuẩn, ở hầu hết trường 
hợp, là mục tiêu sử dụng của hàng hoá đó. 
- Mô tả gồm một định nghĩa về sản phẩm hoặc các sản phẩm, bao hàm sự chỉ dẫn, 
khi cần thiết, về các nguyên liệu thô sản xuất nên sản phẩm. 
- Thành phần tinh: gồm thông tin về thành phần và các đặc điểm nhận dạng của 
hàng hoá, cũng như bất cứ một thành phần bắt buộc và tuỳ ý nào. 
- Chất phụ gia thực phẩm gồm tên của các chất phụ gia và hàm lượng tối đa được 
phép cho vào thực phẩm. Các chất phụ gia thực phẩm phải được FAO và WHO xác 
định rõ về mức độ an toàn của chúng, và việc sử dụng các chất phụ gia thực phẩm phải 
phù hợp với Tiêu chuẩn Chung Codex về Chất phụ gia thực phẩm. 
- Các chất gây ô nhiễm: bao gồm các giới hạn về chất ô nhiễm có trong các sản 
phẩm thuộc phạm vi của tiêu chuẩn. Những giới hạn này được dựa trên sự tư vấn 
mang tính khoa học của FAO và WHO và phải phù hợp với Tiêu chuẩn Chung Codex 
về Chất ô nhiễm và Các độc tố ở Thực phẩm. Trong hoàn cảnh phù hợp, có thể tham 
khảo Tiêu chuẩn Các giới hạn Tối đa Codex về dư lượng thuốc trừ sâu và các dư 
lượng của thuốc thú y ở thực phẩm. 
- Về vệ sinh, có thể tham khảo Các tiêu chuẩn Codex về thực hành vệ sinh đối với 
hàng hoá được quan tâm. Ở hầu hết các trường hợp, sản phẩm phải không chứa các vi 
sinh vật gây bệnh hay bất cứ một độc tố nào hoặc các chất độc hay gây hại với những 
hàm lượng có nguy cơ gây hại cho sức khoẻ. 
- Tiêu chuẩn về Cân lượng và các phương pháp đo bao gồm các điều khoản ví dụ 
như dung lượng đầy của công ten nơ và trọng lượng bã của hàng hoá. 
- Tiêu chuẩn về dán nhãn bao gồm các điều khoản về tên của thực phẩm và bất cứ 
một yêu cầu đặc biệt nào nhằm đảm bảo rằng người tiêu dùng không bị lừa hoặc hiểu 
sai về tính chất của thực phẩm. Những điều khoản này phải phù hợp với Tiêu chuẩn 
Chung Codex về Dán nhãn của Thực phẩm bao gói sẵn. Các yêu cầu về kê khai thành 
phần và ngày dán nhãn cũng được xác định rõ. 
- Các phương pháp phân tích và lấy mẫu bao gồm danh sách về các phương pháp 
thử nghiệm cần để đảm bảo hàng hóa tuân thủ theo các yêu cầu của tiêu chuẩn. Có thể 
tham khảo các phương pháp thử nghiệm được quốc tế công nhận, đáp ứng với các tiêu 
chuẩn về mức độ chính xác, đúng đắn, vv... của Uỷ ban. 
Uỷ ban Tiêu chuẩn thực phẩm Quốc tế Codex (CAC) 
Từ năm 1962, Uỷ ban Tiêu chuẩn thực phẩm quốc tế (CAC) chịu trách nhiệm thực hiện 
Chương trình Các tiêu chuẩn Thực phẩm chung của FAO/WHO. Cơ quan này được thành 
lập để đáp ứng với sự nhận thức mang tính toàn cầu về tầm quan trọng của thương mại quốc 
 8 
tế và yêu cầu tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại quốc tế trong khi vẫn đồng thời đảm 
bảo được chất lượng và mức độ an toàn của thực phẩm để bảo vệ người tiêu dùng. 
Các mục tiêu Codex 
Các mục tiêu chính của Uỷ ban là bảo vệ sức khoẻ của người tiêu dùng, đảm bảo 
các phương thức lành mạnh trong thương mại thực phẩm và phối hợp toàn bộ hoạt 
động của các tiêu chuẩn thực phẩm. Nội dung các tiêu chuẩn thực phẩm bao trùm toàn 
bộ các loại thực phẩm chính, dù là qua chế biến, bán chế biến hay còn thô dưới hình 
thức tới tay người tiêu dùng là vai trò chính và cơ bản của các hoạt động của CAC. 
WTO đã thông qua Hiệp định về các Biện pháp Vệ sinh và Kiểm dịch động, thực 
vật (SPS) và xét duyệt lại Hiệp định Hàng rào Kỹ thuật trong Thương mại của Hiệp 
định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) ở Marrakesh vào 15/4/1004. Hành 
động này đã khiến cho hoạt động xây dựng các tiêu chuẩn về an toàn và chất lượng 
thực phẩm quốc tế của Codex mang tầm quan trọng mới. Bản thân Tiêu chuẩn thực 
phẩm Quốc tế Codex là một loạt các tiêu chuẩn, các quy chuẩn và quy định về thực 
phẩm mà các nước có thể sử dụng làm mẫu cho các quy định và pháp chế về quản lý 
thực phẩm ở nước họ, và có thể được áp dụng vào thương mại quốc tế. 
Tư cách thành viên 
CAC là một cơ quan liên Chính phủ với thành viên hiện tại là 165 Chính phủ thành 
viên. Tư cách thành viên được mở tới tất cả các quốc gia thành viên và các thành viên 
hiệp hội của FAO và WHO. Ngoài ra, các nhà quan sát của ngành công nghiệp thực 
phẩm