Tăng trưởng kinh tế là mục tiêu quan trọng của mọi quốc gia, để duy trì và thực hiện được mục tiêu đó, mỗi nước sẽ có những chính sách và bước đi phù hợp với hoàn cảnh cụ thể. Trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế hiện nay, đầu tư là hoạt động không thể thiếu được trong nền kinh tế của các quốc gia, dù là quốc gia phát triển hay quốc gia đang phát triển. Đầu tư góp phần tạo nên tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội. Đầu tư chính là đòn bẩy đưa nền kinh tế đi lên. Có thể nói đầu tư đã trở thành mối quan tâm hàng đầu của chính phủ các nước nói chung và của chính phủ Việt Nam nói riêng. Hàng loạt các biện pháp đã được thực hiện nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động này cũng như nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
Hoạt động đầu tư là hoạt động mang tính chất lâu dài được thể hiện ở thời gian thực hiện đầu tư (thời gian xây dựng công trình của dự án), thời gian cần hoạt động để có thể thu hồi số vốn đã bỏ ra đối với các cở sở vật chất kĩ thuật phục vụ sản xuất kinh doanh thường đòi hỏi nhiều năm tháng. Do đó không tránh khỏi sự tác động hai mặt tích cực và tiêu cực của các yếu tố không ổn định về tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế. Mọi kết quả và hiệu quả của quá trình thực hiện đầu tư cũng chịu ảnh hưởng của các yếu tố không ổn định theo thời gian và điều kiện địa lý của không gian. Bởi vậy, để đảm bảo cho mọi công cuộc đầu tư được tiến hành thuận lợi, đạt được mục tiêu mong muốn, đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao thì phải xác định được các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư, nghiên cứu các tác động của chúng, từ đó đưa ra được các giải pháp hạn chế tác động tiêu cực và gia tăng tác động tích cực. Đây là vấn đề cần phải được quan tâm đúng mức.
69 trang |
Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1714 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư và giải thích tình hình kích cầu đầu tư ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ TÀI: Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư. Giải thích tình hình kích cầu đầu tư ở nước ta.
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ VÀ KÍCH CẦU ĐẦU TƯ
Lý thuyết chung về đầu tư
Khái niệm đầu tư
Phân loại hoạt động đầu tư
Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư
1. Lợi nhuận kì vọng
2. Lãi suất vốn vay
3. Tổng sản phẩm trong nước
4. Chu kì kinh doanh
5. Đầu tư nhà nước
6. Các nhân tố khác trong môi trường kinh doanh
Kích cầu đầu tư – Một số vấn đề lý luận chung
Lý luận chung
Các biện pháp kích cầu đầu tư
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ VÀ TÌNH HÌNH KÍCH CẦU ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 đến nay
Thực trạng đầu tư ở Việt Nam
Đầu tư từ nguồn vốn trong nước
a. Đầu tư nhà nước
b. Đầu tư dân doanh trong nước
Đầu tư từ nước ngoài
a. Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI
b. Viện trợ phát triển chính thức ODA
c. Nguồn kiều hối của kiều bào ở nước ngoài
Tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam
Chính sách lãi suất
Chính sách thuế
Đầu tư nhà nước
Xúc tiến thương mại
Chính sách tỷ giá
6. Bình ổn chỉ số giá tiêu dùng, kiềm chế lạm phát…………………….
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ
Giải pháp nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng một số nguồn vốn
Nguồn vốn đầu tư nhà nước
Nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI
Nguồn viện trợ phát triển chính thức ODA
Các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư
Nâng cấp, cải tạo hệ thống cơ sở hạ tầng
Giải quyết vấn đề thị trường lao động và chất lượng nguồn nhân lực
Đổi mới, áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ hiện đại
Phát triển kinh tế và kiềm chế lạm phát
Hoàn thiện hệ thống pháp luật
LỜI KẾT
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
LỜI MỞ ĐẦU
Tăng trưởng kinh tế là mục tiêu quan trọng của mọi quốc gia, để duy trì và thực hiện được mục tiêu đó, mỗi nước sẽ có những chính sách và bước đi phù hợp với hoàn cảnh cụ thể. Trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế hiện nay, đầu tư là hoạt động không thể thiếu được trong nền kinh tế của các quốc gia, dù là quốc gia phát triển hay quốc gia đang phát triển. Đầu tư góp phần tạo nên tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội. Đầu tư chính là đòn bẩy đưa nền kinh tế đi lên. Có thể nói đầu tư đã trở thành mối quan tâm hàng đầu của chính phủ các nước nói chung và của chính phủ Việt Nam nói riêng. Hàng loạt các biện pháp đã được thực hiện nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động này cũng như nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
Hoạt động đầu tư là hoạt động mang tính chất lâu dài được thể hiện ở thời gian thực hiện đầu tư (thời gian xây dựng công trình của dự án), thời gian cần hoạt động để có thể thu hồi số vốn đã bỏ ra đối với các cở sở vật chất kĩ thuật phục vụ sản xuất kinh doanh thường đòi hỏi nhiều năm tháng. Do đó không tránh khỏi sự tác động hai mặt tích cực và tiêu cực của các yếu tố không ổn định về tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế. Mọi kết quả và hiệu quả của quá trình thực hiện đầu tư cũng chịu ảnh hưởng của các yếu tố không ổn định theo thời gian và điều kiện địa lý của không gian. Bởi vậy, để đảm bảo cho mọi công cuộc đầu tư được tiến hành thuận lợi, đạt được mục tiêu mong muốn, đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao thì phải xác định được các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư, nghiên cứu các tác động của chúng, từ đó đưa ra được các giải pháp hạn chế tác động tiêu cực và gia tăng tác động tích cực. Đây là vấn đề cần phải được quan tâm đúng mức.
Chúng tôi thực hiện đề tài này cũng nhằm làm rõ về các yếu tố ảnh hưởng đến chi đầu tư, tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam và các giải pháp đưa ra nhằm hoàn thiện những thiếu sót về đầu tư. Bài làm có thể còn nhiều thiếu sót, chúng tôi rất mong nhận được y kiến đóng góp từ thầy cô và các bạn. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn thầy Từ Quan Phương đã chỉ bảo và giúp đỡ chúng tôi hoàn thành đề tài này.
CHƯƠNG I:
MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ VÀ KÍCH CẦU ĐẦU TƯ
Lý thuyết chung về đầu tư:
Khái niệm đầu tư:
Đầu tư là quá trình sử dụng các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm thu được các kết quả, thực hiện những mục tiêu nhất định trong tương lai.
Các nguồn lực sử dụng có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Những kết quả đạt được có thể là sự gia tăng tài sản vật chất, tài sản tài chính hoặc tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc với năng suất cao hơn cho nền kinh tế và cho toàn bộ xã hội.
Mục tiêu của mọi công cuộc đầu tư là đạt được các kết quả lớn hơn so với những hy sinh về nguồn lực mà người đầu tư phải gánh chịu khi tiến hành đầu tư.
Phân loại đầu tư
Trên thực tế có rất nhiều hình thái biểu hiện cụ thể của đầu tư. Nếu đứng trên góc độ quan hệ quản lý của chủ đầu tư thì có 2 loại là đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp.
Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư trong đó người bỏ vốn không trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư. Chẳng hạn như nhà đầu tư thực hiện hành vi mua các cổ phiếu hoặc trái phiếu trên thị trường chứng khoán thứ cấp. Trong trường hợp này nhà đầu tư có thể được hưởng các lợi ích vật chất (như cổ tức, tiền lãi trái phiếu), lợi ích phi vật chất (quyền biểu quyết) nhưng không được tham gia trực tiếp quản lý tài sản mà mình bỏ vốn đầu tư.
Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư. Đầu tư trực tiếp bao gồm đầu tư phát triển và đầu tư dịch chuyển.
Trong đó, đầu tư phát triển là một phương thức của đầu tư trực tiếp nhằm duy trì và tạo ra năng lực mới trong sản xuất kinh doanh dịch vụ và sinh hoạt đời sống của xã hội. Đây là hình thức đầu tư trực tiếp tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, đơn vị sản xuất và cung ứng dịch vụ. Hình thức đầu tư này đóng vai trò rất quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế tại mỗi quốc gia. Loại đầu tư đem lại các kết quả không chỉ người đầu tư mà cả nền kinh tế xã hội được hưởng thụ, không chỉ trực tiếp làm tăng tài sản của người chủ đầu tư mà cả của nền kinh tế.
Đầu tư dịch chuyển là hình thức đầu tư trực tiếp trong đó việc bỏ vốn là nhằm dịch chuyển quyền sở hữu giá trị của tài sản, tức là trong đầu tư dịch chuyển không có sự gia tăng tài sản. Loại đầu tư chỉ trực tiếp làm tăng tài sản chính của người đầu tư, tác động gián tiếp đến làm tăng tài sản của nền kinh tế thông quan sự đóng góp của tài chính tích luỹ của các hoạt động đầu tư này cho đầu tư phát triển, cung cấp vốn cho hoạt động đầu tư phát triển và thúc đẩy quá trình lưu thông phân phối các sản phẩm do các kết quả của đầu tư phát triển tạo ra, đó là đầu tư tài chính và đầu tư thương mại.
Trong các hình thức đầu tư trên thì đầu tư phát triển là tiền đề, cơ sở cho các hoạt động đầu tư khác. Các hình thức đầu tư gián tiếp, dịch chuyển không thể tồn tại và vận động nếu không có đầu tư phát triển.
Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư:
Lợi nhuận kì vọng
Lí thuyết của Keynes về lợi nhuận kì vọng Lợi nhuận kì vọng là khoản lợi nhuận mà chủ đầu tư mong muốn sẽ thu được trong tương lai khi đưa ra quyết định đầu tư.Nếu lợi nhuận kì vọng lớn, nhà đầu tư sẵn sàng bỏ vốn để kinh doanh. Ngược lại, nếu lợi nhuận kì vọng thấp và nhỏ hơn tiền lãi thu được khi gửi tiền vào ngân hàng, các nhà đầu tư sẽ gửi tiền vào ngân hàng thay vì bỏ tiền vào sản xuất kinh doanh. Mặt khác, theo Keynes, hiệu quả biên của vốn đầu tư phụ thuộc vào tỉ suất đầu tư của số tiền đầu tư mới. Vốn đầu tư càng tăng thì hiệu quả biên của vốn giảm dần.
Các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận kì vọng.
- Cung - cầu hàng hoá:
Cầu là số lượng hàng hoá mà người tiêu dùng muốn mua và có khả năng mua tại các mức giá khác nhau trong khoảng thời gian nhất định. Thu nhập tăng thì sức mua tăng, cầu tăng và ngược lại thu nhập giảm thì sức mua giảm, cầu giảm. Sức mua của dân chúng còn phụ thuộc vào thị hiếu, thói quen tiêu dùng của dân cư. Ví dụ như ở những nước phát triển, người dân có mức thu nhập cao, lại có thói quen tiêu dùng nhiều hơn thu nhập nhận được nên luôn có sức tiêu thụ cao mặc dù dân số không đông. Ngoài ra, yếu tố tâm lý cũng là một yếu tố tác động ít nhiều đến sức mua của dân cư. Nếu người dân cảm thấy bi quan về tình hình kinh tế của đất nước và lo sợ về tỷ lệ thất nghiệp và lạm phát có thể tăng cao, họ sẽ chi tiêu ít đi rất nhiều làm cho thị trường tiêu thụ sản phẩm bị thu hẹp, làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. nhưng nếu người dân tỏ ra lạc quan về tình hình kinh tế của đất nước thì họ sẽ tăng tiêu dùng, và tất yếu thị trường tiêu thụ sẽ mở rộng, lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ tăng lên.
Cung là số lượng hàng hoá mà người sản xuất muốn bán và có khả năng bán tại các mức giá khác nhau trong khoảng thời gian nhất định. Cung biểu thị số lượng hàng hoá cung cấp trên thị trường của cả doanh nghiệp và các đối thủ cạnh tranh khác. Khi cung trên thị trường nhiều thì giá cả hàng hoá sẽ giảm xuống, lợi nhuận doanh nghiệp thu được cũng do đó mà giảm đi. Ngược lại, cung trên thị trường ít sẽ đẩy giá hàng hoá cao lên, làm tăng lợi nhuận kì vọng của doanh nghiệp.
- Rủi ro:
Rủi ro là một đặc điểm cơ bản của hoạt động đầu tư. Do quy mô vốn đầu tư lớn, thời kì đầu tư kéo dài và thời gian vận hành các kết quả đầu tư cũng kéo dài…nên mức độ rủi ro của hoạt động đầu tư phát triển thường cao. Phạm vi ảnh hưởng của rủi ro rất lớn, nó tác động đến mọi khía cạnh của hoạt động đầu tư, từ giai đoạn thực hiện đến vận hành khai thác, từ chi phí, doanh thu cho đến lợi nhuận. Một hoạt động đầu tư có mức độ rủi ro cao thường có mức lợi nhuận kì vọng thấp hơn so với hoạt động đầu tư có mức rủi ro thấp. Vì thế để giảm thiểu đến mức thấp nhấp những tác động tiêu cực của rủi ro, cần có các biện pháp để quản lý rủi ro như nhận diện chính xác rủi ro, đánh giá đúng mức độ rùi ro và xây dựng các biện pháp phòng và chống rủi ro.
- Các yếu tố đầu vào:
Các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất bao gồm nguyên nhiên vật liệu đầu vào, máy móc thiết bị, nhà xưởng, cơ sở vật chất kĩ thuật, nguồn nhân lực…Có thể coi đây là điều kiện quyết định khả năng sản xuất cũng như khả năng cung ứng hàng hoá trên thị trường. Việc sử dụng những yếu tố đầu vào nào, số lượng bao nhiêu và chất lượng ra sao ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng và số lượng sản phẩm đầu ra. Do đó, nó cũng là một yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến lợi nhuận kì vọng của doanh nghiệp.
- Thuế:
Thuế là một công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước, là công cụ quan trọng của chính sách tài khoá và là một nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Thuế tác động đến cả cung và cầu sản phẩm trên thị trường. Thuế ( thuế thu nhập cá nhân) làm giảm thu nhập khả dụng của dân cư, người dân có xu hướng tiêu dùng ít hơn (giảm sức mua), do đó cầu giảm xuống. Thuế cũng tác động đến các yếu tố đầu vào, đến chi phí sản xuất và qua đó ảnh hưởng đến cung hàng hoá. Mà cung - cầu hàng hoá lại quyết định khả năng tiêu thụ sản phẩm trên thị trường, tức là quyết định lợi nhuận kì vọng của nhà đầu tư. Bên cạnh đó, thuế còn ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp (thuế thu nhập doanh nghiệp), lợi nhuận sau thuế luôn nhỏ hơn lợi nhuận trước thuế. Bởi vậy, có thể nói lợi nhuận kì vọng cũng chịu một ảnh hưởng không nhỏ từ thuế.
Lãi suất vốn vay:
Lãi suất được hiểu theo nghĩa chung nhất là giá cả của tín dụng - giá cả của quan hệ vay mượn hoặc cho thuê những dịch vụ về vốn dưới hình thức tiền tệ hoặc các dạng thức tài sản khác nhau. Khi đến hạn, người đi vay sẽ phải trả cho người vay một khoản tiền dôi ra ngoài số tiền vốn gọi là tiền lãi. Tỷ lệ phần trăm của số tiền lãi trên số tiền vốn gọi là lãi suất.
Ở tầm kinh tế vi mô, lãi suất là cơ sở để cho các cá nhân cũng như các doanh nghiệp đưa ra các quyết định kinh tế của mình như chi tiêu hay để dành gửi tiết kiệm; đầu tư số vốn tích luỹ được vào danh mục đầu tư này hay danh mục đầu tư khác…
Ở tầm kinh tế vĩ mô, lãi suất lại là một công cụ điều tiết cho vay kinh tế rất nhạy bén và hiệu quả: thông qua việc thay đổi mức và cơ cấu lãi suất trong từng thời kì nhất định, chính phủ có thể tác động đến quy mô và tỷ trọng các loại vốn đầu tư, do vậy mà có thể tác động đến quá trình điều chỉnh cơ cấu; đến tốc độ tăng trưởng, sản lượng, tỷ lệ thất nghiệp và tình trạng lạm phát trong nước. Hơn thế nữa, trong những điều kiện nhất định của nền kinh tế mở, chính sách lãi suất còn được sử dụng như là một công cụ góp phần điều tiết với các luồng vốn đi vào hay đi ra đối với một nước, tác động đến tỷ giá và điều tiết sự ổn định của tỷ giá. Điều này không những tác động đến đầu tư phát triển kinh tế mà còn tác động trực tiếp đến cán cân thanh toán và các quan hệ thương mại quốc tế của nước đó đối với nước ngoài.
Để hiểu rõ tác động của lãi suất đến đầu tư chúng ta cần phân biệt lãi suất thực tế và lãi suất danh nghĩa. Lãi suất danh nghĩa là tỷ lệ mà người cho vay được hưởng (người đi vay phải trả) khi cho vay (đi vay) một lượng tiền nào đó. Các lãi suất được các ngân hàng niêm yết là lãi suất danh nghĩa. Lãi suất danh nghĩa cho chúng ta biết số tiền tăng lên như thế nào qua thời gian. Lãi suất thực tế là khoản chênh lệch giữa lãi suất danh nghĩa và tỷ lệ làm phát. Lãi suất thực tế cho biết sức mua của tài khoản ngân hàng tăng lên như thế nào qua thời gian. Lãi suất thực luôn nhỏ hơn lãi suất danh nghĩa bởi tỷ lệ lạm phát. r = (1+i)/(1+π) - 1 Trong đó: r - lãi suất thực tế i - lãi suất danh nghĩa π - tỉ lệ lạm phát Chủ đầu tư sẽ chỉ quyết định đầu tư khi tỉ lệ hoàn vốn IRR của dự án lớn hơn lãi suất thực tế. Do đó khi lãi suất tăng sẽ có ít dự án đầu tư hơn, nhu cầu đầu tư sẽ giảm. Tuy nhiên lãi suất thấp hơn thì sẽ có nhiều dự án có IRR thấp được triển khai, tức là các dự án ít hiệu quả. Khi đó nền kinh tế có thể tăng trưởng nhanh do tổng đầu tư tăng nhưng kết cục có thể dẫn đến lạm phát cao, chính phủ buộc phải thực thi các biện pháp kiểm soát tiền tệ, các dự án có hiệu quả thấp sẽ bị lỗ nếu tiếp tục vay vốn, nhiều dự án sẽ bị phá sản, nền kinh tế lại rơi vào suy thoái. Ngoài ra, nếu lãi suất trong nước thấp hơn lãi suất thế giới thì có thể vốn đầu tư trong nước sẽ chảy ra nước ngoài, do đó không làm tăng tổng đầu tư trong nước.
Lãi suất thực tế là một trong những yếu tố quan trọng quyết định mức độ đầu tư của các doanh nghiệp và của các hộ gia đình. Lãi suất thực tế là chi phí hay “giá cả” của vốn vay, do vậy khi lãi suất thực tế tăng, chi phí biên của vốn sẽ tăng, lợi nhuận biên giảm. Nếu lợi nhuận biên của một đơn vị đầu tư mới không bù đắp được khoản chi phí của vốn vay thì doanh nghiệp sẽ không vay vốn cho đầu tư nữa. Vì vậy khi lãi suất thực tế giảm, lượng cầu về đầu tư tăng và ngược lại. trên đồ thị, đường cầu đầu tư là đường dốc xuống với lãi suất là biến nội sinh của hàm đầu tư.
Lãi suất thực tế r
r
Q
Lượng vốn vay (quy mô vốn đầu tư) Q
Đồ thị cho thấy khi lãi suất tăng thì quy mô vốn đầu tư giảm và lãi suất giảm thì quy mô vốn đầu tư sẽ tăng.
Mục đích cuối cùng của các nhà đầu tư đều là lợi nhuận vì vậy chúng ta có thể dễ dàng thấy được mối quan hệ giữa tỷ suất lợi nhuận và quy mô vốn đầu tư là mối quan hệ thuận chiều. Lĩnh vực có tỷ suất lợi nhuận cao thì sẽ thu hút được lượng vốn đầu tư lớn, ngược lại, lĩnh vực có tỷ suất lợi nhuận thấp thì các nhà đầu tư sẽ giảm quy mô vốn đầu tư vào lĩnh vực đó, thậm chí là dừng đầu tư.
Tóm lại, mối quan hệ lãi suất - tỷ suất lợi nhuận - quy mô vốn đầu tư là mối quan hệ qua lại tác động lẫn nhau.
Các nhân tố ảnh hưởng tới lãi suất:
Lãi suất luôn biến động phụ thuộc rất nhiều về vào các nhân tố kinh tế vĩ mô cũng như nhiều nhân tố khác. Sau đây là những nhân tố cơ bản và quan trọng nhất:
- Ảnh hưởng của cung cầu của quỹ cho vay
Lãi suất là giá cả của cho vay, vì vậy bất cứ sự thay đổi nào của cung và cầu hoặc cả cung và cầu quỹ cho vay không cùng một tỷ lệ đều sẽ làm thay đổi mức lãi suất trên thị trường, tuỳ mức độ biến động của lãi suất cũng ít nhiều phụ thuộc vào các quy định của chính phủ và Ngân hàng trung ương, song đa số các nước có nền kinh tế thị trường đều dựa vào nguyên ly này để xác định lãi suất. Từ điều này cho thấy, chúng ta có thể tác động vào cung cầu trên thị trường vốn để thay đổi lãi suất trong nền kinh tế cho phù hợp với mục tiêu chiến lược trong từng thời kì.
- Ảnh hưởng của lạm phát kỳ vọng
Khi mức lạm phát được dự đoán có xu hướng tăng lên trong một thời kì nào đó, lãi suất sẽ có xu hướng tăng. Thứ nhất, xuất phát từ mối quan hệ giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa cho thấy, để duy trì lãi suất thực không đổi, tỷ lệ lạm phát tăng, đòi hỏi lãi suất danh nghĩa phải tăng lên tương ứng. Thứ hai, công chúng dự đoán lạm phát tăng sẽ dành phần tiết kiệm của mình cho việc dự trữ hàng hoá hoặc những dạng hình thức phi tài sản khác (non-financial assets). Từ mối quan hệ này cho thấy nghĩa và tâm quan trọng của việc khắc phục tâm lí lạm phát đối với việc ổn định lãi suất, sự ổn định và tăng trưởng nền kinh tế.
- Ảnh hưởng của bội chi ngân sách:
Một cách đơn giản nhất bội chi ngân sách trung ương và địa phương trực tiếp làm cho cầu của quỹ cho vay tăng làm tăng lãi suất. Sau nữa, bội chi ngân sách sẽ tác động đến tâm lí công chúng về gia tăng mức lạm phát và do vậy mà sẽ gây áp lực tăng lãi suất.
- Những thay đổi về thuế:
Thuế thu nhập cá nhân và thuế lợi tức công ty luôn tác động đến lãi suất giống như khi thuế tác động đến giá cả hàng hoá. Để duy trì một mức lợi nhuận thực tế nhất định họ phải cộng thêm vào lãi suất cho vay những thay đổi về thuế. Điều quan trọng đựơc rút ra từ mối quan hệ này là việc xác lập và điều chỉnh đối với chính sách thuế, nhằm hạn chế những tác động ngoài y muốn của mỗi thay đổi của thuế.
- Những thay đổi trong đời sống xã hội:
Sự thay đổi của lãi suất còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố thuộc về đời sống xã hội khác. Sự phát triển của thị trường tài chính với các công cụ tài chính đa dạng phong phú; hiệu suất sử dụng vốn hay tỷ suất đầu tư cận biên trong nền kinh tế trong các thời kì; tình hình kinh tế, chính trị cũng như biến động tài chính quốc tế như các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trên thế giới; các luồng vốn đầu tư ra , vào đối với các nước…., đều ít nhiều tác động đến sự thay đổi của lãi suất của các nước.
3.Tổng sản phẩm trong nước (GDP)
Tổng sản phẩm trong nước GDP là giá trị thị trường của tất cả các hàng hoá và dịch vụ vuối cùng được sản xuất ra trong một nước trong một thời kì nhất định. Chúng ta có thể tính GDP của nền kinh tế theo hai cách là cộng tất cả các khoản thu nhập mà các doanh nghiệp thanh toán cho các hộ gia đình hoặc cộng tất cả các khoản chi tiêu của hộ gia đình thanh toán cho các doanh nghiệp lại với nhau.
Trạng thái cân bằng trên thị trường hàng hóa đặt được cho thấy:
I= Y - C
GDP tăng nhanh sẽ làm tăng thu nhập của người dân nên vừa kích thích tiêu dùng vừa làm tăng tiết kiệm; khi tiết kiệm tăng thì cung vốn tăng sẽ làm giảm lãi suất, kích thích đầu tư. Ngoài ra, GDP tăng là một dấu hiệu chứng tỏ nền kinh tế đang có tăng trưởng, điều này sẽ tác động đến tâm lý của dân cư. Người dân lạc quan hơn vào thu nhập của mình trong tương lai do đó sẽ thoải mái hơn trong chi tiêu; các doanh nghiệp tin tưởng vào triển vọng của nền kinh tế nên sẽ gia tăng đầu tư, mở rộng sản xuất để tăng doanh thu.
Theo mô hình tăng trưởng của Harrod – Domar:
(K/(Y = ICOR
g = (Y/Y = (Y/Y * (K/(K = (Y/(K * (K/Y = 1/ICOR * I/Y
((Y = 1/ICOR * I
Mỗi sự gia tăng của vốn đầu tư đều kéo theo sự gia tăng của nhân công và tư liệu sản xuất, gia tăng công ăn việc làm, từ đó làm tăng nhu cầu tiêu dùng của nền kinh tế và đồng thời làm tăng thu nhập. Đến lượt mình, thu nhập tăng lại làm tăng đầu tư mới, đầu tư mới lại làm tăng thu nhập mới, quá trình này diễn ra liên tục và tạo ra một hiệu ứng gọi là hiệu ứng “số nhân” thông qua đại lượng “số nhân đầu tư”:
m = (Y/(I = 1/(1 - c) với c = (C/(Y
Số nhân đầu tư là đại lượng biểu thị mối quan hệ giữa mức gia tăng thu nhập (GDP) và gia tăng đầu tư. Số nhân đầu tư thể hiện sự gia tăng đầu tư sẽ làm thu nhập gia tăng như thế nào. Theo Keynes, đầu tư cũng được xem xét từ góc độ tổng cung ,nghĩa là, mỗi sự thay đổi của sản lượng làm thay đổ