Đề tài Các vấn đề về quốc tịch

Quốc tịch là một phạm trù chính trị-pháp lý thể hiện mối quan hệ gắn bó, bền vững về chính trị và pháp lý giữ nhà nước và cá nhân. Làm căn cứ pháp lý duy nhất để xác định công dân của một nước và trên cơ sở đó làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa nhà nước và công dân. Nói cách khác, về phương diện quốc tế, quốc tịch là dấu hiệu để phân biệt công dân của nước này với công dân nước khác. Ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về quốc tịch là một yêu cầu cấp thiết. Chính vì vậy, quốc gia nào cũng xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về các vấn đề quốc tịch của quốc gia mình. Xuất phát từ mục đích, lợi ích, tính chất giai cấp mà pháp luật của các nước quy định về quốc tịch khác nhau. Việc nhà nước ban hành pháp luật về quốc tịch là biểu hiện cụ thể của chính quyền quốc gia, mang ý nghĩa chính trị- xã hội to lớn cả về mặt đối nội và đối ngo

pdf46 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 4043 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các vấn đề về quốc tịch, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA LUẬT ……………… LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Niên khóa: 2004 - 2008 ĐỀ TÀI: CÁC VẤN ĐỀ VỀ QUỐC TỊCH Cần Thơ 05/2008 GV hướng dẫn: ThS: BÙI THỊ MỸ HƯƠNG Sinh viên thực hiện: MẠC THỊ THƯ Mssv: 5044002 Lớp: TM – K30 (LK0464A1) Đề Tài: Các vấn đề về quốc tịch GVHD: ThS Bùi Thị Mỹ Hương SVTH: Mạc Thị Thư Trang 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Quốc tịch là một phạm trù chính trị-pháp lý thể hiện mối quan hệ gắn bó, bền vững về chính trị và pháp lý giữ nhà nước và cá nhân. Làm căn cứ pháp lý duy nhất để xác định công dân của một nước và trên cơ sở đó làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa nhà nước và công dân. Nói cách khác, về phương diện quốc tế, quốc tịch là dấu hiệu để phân biệt công dân của nước này với công dân nước khác. Ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về quốc tịch là một yêu cầu cấp thiết. Chính vì vậy, quốc gia nào cũng xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về các vấn đề quốc tịch của quốc gia mình. Xuất phát từ mục đích, lợi ích, tính chất giai cấp mà pháp luật của các nước quy định về quốc tịch khác nhau. Việc nhà nước ban hành pháp luật về quốc tịch là biểu hiện cụ thể của chính quyền quốc gia, mang ý nghĩa chính trị- xã hội to lớn cả về mặt đối nội và đối ngoại. 2. Mục đích nghiên cứu: Trong thực tế, hiện nay xã hội ngày càng phát triển dẫn đến có nhiều trường hợp phát sinh mà luật quốc tịch 1998 không thể quy định hết. Chính vì vậy, đã gây nhiều khó khăn cho các cơ quan quản lý nhà nước trong việc áp dụng luật quốc tịch. Do đó, mục đích nghiên cứu đề tài là nhằm tìm hiểu những quy định của luật quốc tịch cũng như những phát sinh trong thực tiễn áp dụng luật. Từ đó, giúp cho bản thân cũng như mọi đối tượng trong xã hội nhận thức một cách tương đối đầy đủ về các vấn đề về quốc tịch. Qua đó, đề xuất mốt số giải pháp nhằm từng bước hoàn thiện các quy định của luật quốc tịch để tháo gở những khó khăn trong việc áp dụng luật quốc tịch. 3. Phương pháp nghiên cứu: Bằng phương pháp nghiên cứu chủ yếu là so sánh, tổng hợp, đối chiếu, phân tích luật viết. Từ đó cho chúng ta có thể hiểu hơn những quy định của luật quốc tịch, cũng như những khó khăn khi áp dụng trong thực tế, bên cạnh đó đề ra những giải pháp để hoàn thiện luật quốc tịch. 4. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu các vấn đề về quốc tịch như: hưởng quốc tịch, mất quốc tịch, điều kiện được nhập quốc tịch Việt Nam… Đồng thời cũng đề xuất một số giải pháp hoàn thiện luật quốc tịch. Đề Tài: Các vấn đề về quốc tịch GVHD: ThS Bùi Thị Mỹ Hương SVTH: Mạc Thị Thư Trang 2 5/ Kết cấu đề tài: Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về quốc tịch. Chương 2: Một số chế định cơ bản của quốc tịch. Chương 3: Thực trạng áp dụng luật quốc tịch và một số giải pháp hoàn thiện. Đề Tài: Các vấn đề về quốc tịch GVHD: ThS Bùi Thị Mỹ Hương SVTH: Mạc Thị Thư Trang 3 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUỐC TỊCH 1.1 Khái niệm về quốc tịch: Việc một cá nhân mang quốc tịch của một nước có ý nghĩa hết sức quan trọng không chỉ đối với bản thân cá nhân đó mà còn đối với nhà nước mà cá nhân đó mang quốc tịch. Như chúng ta đã biết, một trong những yếu tố cấu thành nên một quốc gia là dân cư, trong đó công dân là một bộ phận chiếm đa số và có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật nước sở tại dành cho họ. Ngược lại, các quốc gia phải có nghĩa vụ đối với công dân của nước mình. Nội dung mối quan hệ này thể hiện sự ràng buộc về quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên và được ghi nhận trong pháp luật của mỗi nước. Mối quan hệ này được định nghĩa bằng khái niệm “quốc tịch”. Vậy quốc tịch là một quan hệ pháp lý-chính trị giữa một bên là nhà nước có chủ quyền và một bên là công dân mang quốc tịch.1 Như vậy, khái niệm quốc tịch có ba yếu tố cấu thành là: Nhà nước cấp quốc tịch, cá nhân nhận quốc tịch và mối quan hệ pháp lý giữa nhà nước và cá nhân đó. Điều này có nghĩa là chủ thể cấp quốc tịch bắt buộc phải là nhà nước và đây là thẩm quyền tuyệt đối của các quốc gia. Đồng thời quốc tịch cũng không được cấp bởi những “quốc gia” không có chủ quyền trong quan hệ quốc tế. Đối với cá nhân nhận quốc tịch, khi muốn nhận được quốc tịch của một quốc gia nào đó thì cá nhân đó phải đáp ứng được những điều kiện mà pháp luật của quốc gia cấp quốc tịch quy định và khi mang quốc tịch của một quốc gia rồi thì cá nhân đó mặc nhiên có những quyền và nghĩa vụ nhất định theo quy định của pháp luật quốc gia mà mình mang quốc tịch. Từ phân tích trên chúng ta có thể khái niệm về quốc tịch như sau: Quốc tịch là mối quan hệ mang tính chính trị-pháp lý, ổn định lâu dài và ràng buộc giữa một cá nhân và nhà nước nhất định trên cơ sở những quy định pháp luật của nhà nước nào đó. Từ khái niệm trên cho ta thấy quốc tịch có một số vai trò và đặc điểm sau: 1 Tập bài giảng Tư pháp quốc tế khoa luật Trường ĐHCT 2002 Đề Tài: Các vấn đề về quốc tịch GVHD: ThS Bùi Thị Mỹ Hương SVTH: Mạc Thị Thư Trang 4 1.2 Vai trò của quốc tịch: Quốc tịch là mối quan hệ pháp lý giữa công dân với nhà nước nhất định. Mối quan hệ này được thể hiện ở tổng thể các quyền và nghĩa vụ được pháp luật của một nước quy định và bảo đảm thực hiện. Bên cạnh đó, quốc tịch là một hiện tượng pháp lý mang tính giai cấp rõ rệt và sâu sắc. Bởi vì, việc quy định một bộ phận dân cư được hưởng chế độ pháp lý nào là hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của giai cấp thống trị của nhà nước. 1.3 Đặc điểm và ý nghĩa của quốc tịch: Do quốc tịch có mối quan hệ pháp lý-chính trị gắn kết một cá nhân với một nhà nước có chủ quyền cho nên quốc tịch có những đặc điểm sau: Thứ nhất: Quốc tịch có tính ổn định và bền vững. Quốc tịch là quan hệ pháp lý gắn với quyền nhân thân của mỗi cá nhân, phát sinh từ lúc cá nhân đó mới sinh ra, được đăng ký khai sinh và kể từ đó được nhà nước thừa nhận cá nhân đó là công dân của nước mình và gắn liền trong suốt cuộc đời cho đến khi cá nhân đó chết. Tính bền vững ở đây là quốc tịch được xác lập cho thời gian là cả cuộc đời của một người. Không ai cũng như không một nước nào có thể tự ý cho thôi quốc tịch hay tước quốc tịch của một cá nhân mà bản thân họ không có vi phạm gì đến lợi ích quốc gia hay gây phương hại đến đất nước. Đồng thời, một nhà nước cũng không thể nào cho thôi quốc tịch hoặc tước quốc tịch của công dân mình khi họ đang sinh sống trên lãnh thổ của quốc gia khác mà họ không nhập quốc tịch của quốc gia mà họ đang sinh sống. Tính bền vững còn được thể hiện ở chỗ quốc tịch gắn liền với sự tồn tại và phát triển của nhà nước. Bởi vì có ba yếu tố cấu thành nhà nước là: lãnh thổ, dân cư và quyền lực nhà nước. Mà dân cư ở đây chủ yếu là công dân. Như vậy, quốc tịch có tính bền vững và ổn định. Nó gắn liền với quyền nhân thân của một cá nhân. Đồng thời nó cũng gắn liền với sự tồn tại và phát triển của một nhà nước. Thứ hai: Quốc tịch thể hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ cơ bản của một công dân. Một khi mà nhà nước xác lập quốc tịch cho một cá nhân nào đó và họ trở thành công dân của quốc gia thì những quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân sẽ phát sinh. Những quyền này được nhà nước thể chế hóa trong luật của quốc gia. Họ có quyền được hưởng trong chừng mực mà nhà nước cho phép. Bởi vì quyền công dân là một quyền quan trọng đối với người dân như: quyền ứng cử, quyền bầu cử, quyền được nhà nước bảo hộ ngoại giao khi vi phạm pháp luật ở nước ngoài. Nếu như không phải là công dân thì nhà nước không thừa nhận Đề Tài: Các vấn đề về quốc tịch GVHD: ThS Bùi Thị Mỹ Hương SVTH: Mạc Thị Thư Trang 5 những quyền này. Do đó, người nước ngoài và người không quốc tịch sẽ không được hưởng đầy đủ các quyền nêu trên. Đồng thời, công dân phải thực hiện nghĩa vụ bắt buộc như trung thành với tổ quốc, thực hiện nghĩa vụ quân sự, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Do đó, nếu mà người nước ngoài cũng như người không quốc tịch thì họ không có những quyền và nghĩa vụ như trên. Họ chỉ được hưởng chính sách đãi ngộ như công dân chứ không phải là công dân của quốc gia đó. Thứ ba: Quốc tịch thể hiện những quyền và nghĩa vụ của nhà nước đối với công dân. Khi đã là công dân của nước mình thì nhà nước đưa ra những chính sách, đường lối cho công dân thực hiện và tuân theo, có quyền áp dụng những biện pháp thích hợp khi công dân vi phạm hoặc có hành vi gây ảnh hưởng đến xã hội, ảnh hưởng đến lợi ích của nhà nước thì nhà nước có quyền áp đặt ý chí của giai cấp mình được thể hiện trong luật để làm chuẩn mực cho nhân dân thực hiện theo mà không một cá nhân, nhà nước nào có quyền can thiệp, vì đây được coi là công việc nội bộ của quốc gia. Đồng thời, nhà nước cũng phải có trách nhiệm đối với công dân của mình như: bảo hộ ngoại giao khi công dân mình bị xâm hại ở nước ngoài hay công dân mình có vi phạm ở nước ngoài và cơ sở pháp lý để không dẫn độ công dân mình cho nước khác khi có yêu cầu dẫn độ tội phạm. Quốc tịch là quan hệ pháp lý không chỉ đối với cá nhân nhận quốc tịch mà còn đối với nhà nước cấp quốc tịch. Vì quốc tịch là cơ sở pháp lý duy nhất để xác định một cá nhân là công dân của một nước và trên cơ sở đó là căn cứ làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa nhà nước và công dân. Điều 49 Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 quy định “công dân nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam”. Theo đó, chỉ những người mang quốc tịch Việt Nam mới được hưởng những quyền và lợi ích một cách đầy đủ mà Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam dành cho công dân mình. Ngược lại, để đổi lấy việc được Nhà nước bảo hộ công dân, công dân phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định, bởi không bao giờ quyền của công dân tách rời với nghĩa vụ của công dân. Vấn đề xác định quốc tịch của một cá nhân không chỉ có ý nghĩa đối với bản thân cá nhân mà còn đối với Nhà nước. Chẳng hạn, sau ngày Nhà nước Việt Nam tuyên bố độc lập năm 1945, vấn đề xác định một người có quốc tịch Việt Nam có ý nghĩa chính trị to lớn để chuẩn bị cho cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam. Chính lẽ đó, ngày 20/10/1945 chỉ hơn một tháng tuyên bố độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành sắc lệnh số 53/SL quy định về quốc tịch Việt Nam. Đối với một nhà nước có chủ quyền, việc xác định quốc tịch có ý nghĩa nhằm bảo hộ công dân mình ở nước ngoài, cũng như việc xác định quốc Đề Tài: Các vấn đề về quốc tịch GVHD: ThS Bùi Thị Mỹ Hương SVTH: Mạc Thị Thư Trang 6 tịch nước ngoài cho người nước ngoài cư trú trên lãnh thổ nước mình để có chính sách thích hợp đối với họ. 2.1 Khái niệm về luật quốc tịch. 2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của luật quốc tịch. Trước ngày 2/9/1945 (ngày Việt Nam giành được độc lập), Việt Nam không phải là một quốc gia có chủ quyền độc lập nên người dân Việt Nam về mặt pháp lý chưa được gọi là công dân Việt Nam. Sau ngày độc lập, với sự ra đời của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nước ta trở thành một quốc gia độc lập, có chủ quyền và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành ngay văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên quy định về quốc tịch Việt Nam đó là Sắc Lệnh số 53/SL ngày 20/10/1945. Sau đó, Nhà nước tiếp tục ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến vấn đề quốc tịch như: Sắc lệnh số 73/SL ngày 07/12/1945 quy định về nhập quốc tịch Việt Nam, Sắc lệnh số 213/SL ngày 20/08/1948 ấn định những quyền lợi đặc biệt cho những người đã có công giúp cuộc kháng chiến Việt Nam, Sắc lệnh số 51/SL ngày 14/12/1959 bãi bỏ Điều 5 và Điều 6 của Sắc lệnh số 53/SL quy định quốc tịch của người phụ nữ kết hôn. Nghị quyết số 1043/NQTVQH ngày 08/12/1971 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về việc giao cho Hội đồng Chính phủ (nay gọi là Chính phủ) thẩm quyền xét xử và quyết định những trường hợp xin nhập hoặc xin thôi quốc tịch Việt Nam… Sự ra đời Luật quốc tịch Việt Nam 1988 và Luật quốc tịch Việt Nam 1998 - Về tình hình đất nước: Báo cáo chính trị của Ban Chấp Hành trung ương (khóa VII) trình bày tại hội nghị giữa nhiệm kỳ của Đảng nhận định thời kỳ này nước ta ở trong cuộc khủng hoản gay gắt, nhất là năm 1986-1988, kinh tế nước ta trong giai đoạn chuyển từ nên kinh tế tập trung sang kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước. Tuy đã đạt được nhiều kết quả to lớn, nhưng nhìn chung còn non yếu, đời sống nhân dân khó khăn. Các thế lực phản động người Việt Nam ở nước ngoài không ngừng tăng cường các hoạt động chống đối, kể cả các biện pháp lật đổ bằng bạo lực vũ trang. Những vấn đề này đặt ra cho nhà làm luật nhiều vấn đề phải nghiên cứu, giải quyết. Một vấn đề nữa là xử lý hậu quả pháp lý về quốc tịch của quá trình 20 năm chia cắt đất nước. Khi ban hành các sắc lệnh 53/SL ngày 07/12/1945 và số 73/SL ngày 07/12/1945 và số 215/SL ngày 20/08/1948, Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thực hiện chủ quyền tuyệt đối của mình trên toàn lãnh thổ Việt Nam; Các văn bản nói trên có hiệu lực từ Bắc vào Nam. Sau đó, do sự can Đề Tài: Các vấn đề về quốc tịch GVHD: ThS Bùi Thị Mỹ Hương SVTH: Mạc Thị Thư Trang 7 thiệp của nước ngoài và kết quả của hội nghị Giơnevơ về Việt Nam, nước ta tạm thời bị chia cắt ở vĩ tuyến 17. Theo tinh thần của Hiệp định vĩ tuyến 17 chỉ là ranh giới tạm thời giữa hai miền, không phải là biên giới quốc gia (theo công pháp quốc tế). Tuy nhiên thực tế tạm thời này đã kéo dài 21 năm, gây ra nhiều vấn đề chính trị, xã hội và pháp lý đối với nhân dân ta ở cả hai miền đất nước. Trong thời gian chia cắt, về pháp lý, Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa vẫn là Chính phủ hợp pháp duy nhất đại diện cho mọi quyền lợi của người dân Việt Nam, Trên thực tế, việc thực hiện các hành động chủ quyền chỉ được tiến hành ở các tỉnh miền Bắc. Chính phủ Ngụy quyền do nước ngoài dựng lên ở miền Nam thực hiện các quyền chủ quyền ở phía Nam; họ cũng ban hành một số văn bản về quốc tịch, đồng thời cũng quyết định cho tước hay nhập quốc tịch Việt Nam. Những văn bản quyết định này cũng cần được xem xét, lưu ý khi xử lý các vấn đề quốc tịch liên quan đến giai đoạn này. Về tình hình quốc tế và quan hệ đối ngoại của ta: Thời kỳ này (1980- 1988) nước ta đang còn bị bao vây, cấm vận về kinh tế, cô lập về chính trị. Quan hệ của ta với các nước phương Tây bị đống băng lại kể từ khi kết thúc cuộc chiến tranh chống Mỹ và khi ta đưa quân vào cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng. Trong bối cảnh đó, nhiều nước đã dung túng các hoạt động chống Chính phủ của những người Việt. Một số nước có chung biên giới với ta đã cho bọn chúng sử dụng khu vực biên giới làm cơ sở, bàn đạp tấn công nước ta bằng các hoạt động khủng bố, bạo loạn. Những tên bị bắt lại được các nước ngoài “bảo hộ ngoại giao” với lý do chúng cũng có quốc tịch của các nước này. Đây là hành động can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của nước ta, vì những người này vẫn là công dân Việt Nam và do đó phải bị xử lý theo pháp luật Việt Nam. Yếu tố an ninh-chính trị của vấn đề quốc tịch trong bối cảnh như vậy cần phải được coi trọng khi xây dựng luật quốc tịch mới. Luật quốc tịch Việt Nam năm 1988 ra đời trong bối cảnh nước ta vừa bước sang năm thứ hai thực hiện chính sách đổi mới do Đại hội Đảng lần VI đề ra. Mục đích của việc ban hành luật này nhằm hệ thống hóa và pháp điển hóa các quy định đã có của nhà nước ta về quốc tịch kể từ ngày lập nước ngày 02/9/1945, đồng thời nâng cao các quy định này cho phù hợp với thời kỳ đổi mới. Xét trên phương diện đó, luật quốc tịch Việt Nam 1988 đã hoàn thành sứ mệnh của mình. Bởi vì, kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn lịch sử khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa cho đến ngày toàn thắng, thống nhất đất nước, vấn đề quốc tịch Việt Nam chỉ được quy định trong các sắc lệnh của Chủ tịch Chính phủ lâm thời và trong Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, mà không có một đạo luật hoàn chỉnh về quốc tịch. Trong khi đó, Chính quyền Sài Gòn, với tư cách là một thực thể nhà nước tồn tại thực tế, trên Đề Tài: Các vấn đề về quốc tịch GVHD: ThS Bùi Thị Mỹ Hương SVTH: Mạc Thị Thư Trang 8 phần lãnh thổ miền Nam nước ta cũng lại ban hành những quy định riêng lẻ về quốc tịch. Sở dĩ vấn đề quốc tịch có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với một nhà nước non trẻ là do nó đề cặp đến một trong những yếu tố rất quan trọng hình thành nên một nhà nước có chủ quyền (đó là lãnh thổ, dân cư và quyền lực thực tế của nhà nước thông qua bộ máy quân đội, cảnh sát, tư pháp…). Với luật quốc tịch Việt Nam 1988, lần đầu tiên kể từ ngày tuyên bố độc lập và hơn 10 năm sau ngày thống nhất đất nước, nước ta có một đạo luật tương đối hoàn chỉnh quy định về quốc tịch Việt Nam. Tuy nhiên, do luật quốc tịch Việt Nam 1988 được ban hành vào thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới đất nước, sau 10 năm thực hiện đã bộc lộ những mặt hạn chế, bất cập, không đáp ứng được yêu cầu của đất nước khi bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hội nhập khu vực và quốc tế. Những yêu cầu phát sinh từ thực tiễn trong thời gian qua đã đòi hỏi pháp luật về quốc tịch cần phải đổi mới kịp thời để điều chỉnh những vấn đề mới phát sinh. Một vấn đề tuy đã được Luật quốc tịch năm 1988 điều chỉnh nhưng chưa bảo đảm sự đồng bộ với những văn bản quy phạm pháp luật khác. Do đó, luật quốc tịch Việt Nam 1998 ra đời. Việc ban hành luật quốc tịch năm 1998 nhằm tới những mục tiêu cơ bản sau đây: Thứ nhất: Pháp luật điều chỉnh các vấn đề quốc tịch phải đảm bảo sự phù hợp với tinh thần và nguyên tắc của Hiến pháp 1992 và sự đồng bộ với các đạo luật khác được ban hành sau Hiến pháp như Bộ luật Dân sự, luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em…và các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết và tham gia như Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em và các Hiệp định tương trợ tư pháp với các nước… Thứ hai: Các quy định pháp luật về vấn đề quốc tịch phải tạo được cơ chế đồng bộ để thực hiện một cách nhất quán và triệt để nguyên tắc một quốc tịch của Nhà nước Việt Nam. Thứ ba: Việc ban hành luật quốc tịch trong tình hình hiện nay phải đảm bảo thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong việc mở rộng và giao lưu với quốc tế và khu vực, khuyến khích và động viên sự đóng góp và đầu tư cả vật chất lẫn tinh thần của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, đặc biệt phải thực hiện được tinh thần cải cách thủ tục hành chính của Chính phủ Việt Nam. Thứ tư: Việc ban hành luật quốc tịch trong tình hình mới nhằm nâng cao chất lượng của công tác quản lý Nhà nước về quốc tịch và khắc phục tính đơn giản, chung chung, khó áp dụng của luật quốc tịch 1988. Đề Tài: Các vấn đề về quốc tịch GVHD: ThS Bùi Thị Mỹ Hương SVTH: Mạc Thị Thư Trang 9 Thứ năm: Việc ban hành luật quốc tịch mới nhằm bổ sung các vấn đề mới chưa được quy định trong luật quốc tịch 1988. Các vấn đề nêu trên, cần đặc biệt lưu ý thể hiện nhất quán chính sách một quốc tịch đã được thể chế hóa ngay trong sắc lệnh đầu tiên của Nhà nước ta về quốc tịch do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 20/10/1945. Đồng thời phải giải quyết thỏa đáng vấn đề hai quốc tịch trong cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài, để vừa đảm bảo chính sách một quốc tịch của Nhà nước và vừa tạo điều kiện cho việc thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc cũng như cho quá trình hội nhập quốc tế và khu vực hiện nay. Ngoài ra, do luật quốc tịch năm 1988 được ban hành vào những năm đầu của thời kỳ đổi mới, kinh nghiệm lập pháp tích lũy chưa nhiều nên các quy định của luật 1988 còn chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Hiện nay, các quan hệ xã hội, các vấn đề liên quan đến quốc tịch Việt Nam được điều chỉnh bởi luật quốc tịch Việt Nam 1998 và các văn bản hướng dẫn thi hành. 2.1.2 Khái niệm về luật quốc tịch. Theo lý luận về quốc tịch thì cơ sở duy nhất cho sự ra đời và tồn tại của quốc tịch chính là sự ra đời và tồn tại của nhà nước. Trong mỗi hình thức nhà nước khác nhau thì bản chất và nội dung của quốc tịch cũng khác nhau. Do đó, quốc tịch luôn gắn liền với sự phát triển địa