Ngay từ khi xuất hiện cùng với sự ra đời của nền kinh tế hàng hoá thì tiền lương và công tác trả lương đã được các nhà tư bản chủ nghĩa và người lao động rất quan tâm .
Ngày nay tiền lương vẫn là một vấn đề thời sự nóng bỏng trong đời sống xã hội và sản xuất không chỉ ở nước ta mà cả ở tất cả các nước khác trên thế giới bởi vì tiền lương là một phạm trù có liên quan mật thiết đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh , đến sự phát triển của nền kinh tế, đến đời sống của từng người lao động .
113 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1541 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cải thiện công tác trả lương tại Công ty May và Quảng cáo Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời nói đầu
1.Sự cần thiết phải nghiên cứu đề tài :
Ngay từ khi xuất hiện cùng với sự ra đời của nền kinh tế hàng hoá thì tiền lương và công tác trả lương đã được các nhà tư bản chủ nghĩa và người lao động rất quan tâm .
Ngày nay tiền lương vẫn là một vấn đề thời sự nóng bỏng trong đời sống xã hội và sản xuất không chỉ ở nước ta mà cả ở tất cả các nước khác trên thế giới bởi vì tiền lương là một phạm trù có liên quan mật thiết đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh , đến sự phát triển của nền kinh tế, đến đời sống của từng người lao động . Tiền lương hàm chứa nhiều mối quan hệ mâu thuẫn như quan hệ giữa sản xuất và phát triển, quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng, quan hệ giữa thu nhập của các thành phần dân cư . Trong thực tiễn có rất nhiều vấn đề nảy sinh đòi hỏi cần phải được nghiên cứu và đưa ra những kết luận có cơ sở khoa học cho lĩnh vực này.
Như đã biết: trong nền kinh tế thị trường hiện nay nghành dệt may Việt Nam nói chung và Công ty May và Quảng cáo Việt đã có những chuyển biến tích cực và đạt được nhiều kết quả cao trên nhiều mặt của sản xuất kinh doanh như đổi mới công nghệ, đổi mới mặt hàng, sản phẩm và chất lượng sản phẩm từng bước được nâng lên. Một trong những nhân tố góp phần tạo nên kết quả trên là công tác tổ chức tiền lương trong các doanh nghiệp đã được thực hiện khá tốt. Tuy nhiên vẫn còn nhiều tồn tại cần phải được nghiên cứu, xem xét, phân tích và đánh giá nhằm không ngừng cải thiện công tác trả lương tại các doanh nghiệp này.
Nhận thức được tầm quan trọng của tiền lương đối với sự phát triển của các doanh nghiệp dệt may ở Việt Nam nói chung và Công ty May va Quảng cáo Việt, kết hợp với những kiến thức cơ bản đã được học tại trường đại học Thương Mại và thực tiễn khách quan trong quá trình thực tập tại Công ty May và Quảng cáo Việt, em xin được lựa chọn đề tài: "Cải thiện công tác trả lương tại Công ty May và Quảng cáo Việt''.
2.Mục đích nghiên cứu đề tài :
Trên cơ sở khoa học về tiền lương tiến hành hệ thống lại các vấn đề đó.
Đánh giá thực trạng công tác trả lương tại Công ty May và Quảng cáo Việt.
Đề xuất một số biện pháp nhằm cải thiện công tác trả lương tại công ty May và Quảng cáo Việt.
3.Phạm vi nghiên cứu :
Do những điều kiện khách quan nên luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu công tác trả lương đối với những lao động liên quan đến ngành dệt may trong Công ty May và Quảng cáo Việt.
4.Phương pháp nghiên cứu đề tài :
Phương pháp duy vật biện chứng
Phương pháp khảo sát thực tế
Phương pháp thống kê , so sánh
5.Nội dung nghiên cứu:
Ngoài mục lục, lời nói đầu , kết luận và tài liệu tham khảo , bài viết được chia ra làm 3 chương như sau:
Chương 1 : Cơ sở lý luận về tiền lương và trả lương trong doanh nghiệp .
Chương 2 : Phân tích thực trạng công tác trả lương tại Công ty May và Quảng cáo Việt.
Chương 3 : Một số giải pháp nhằm cải thiện chất lượng công tác trả lương tại Công ty May và Quảng cáo Việt .
Chương I
Cơ sở lý luận về tiền lương và
công tác trả lương trong doanh nghiệp
1.1.Tiền lương trong doanh nghiệp :
1.1.1. Khái niệm và bản chất của tiền lương:
1.1.1.1. Một số khái niệm về tiền lương :
Trong thực tế khái niệm tiền lương rất đa dạng và phong phú. ở các quốc gia khác nhau và trong các thời kỳ khác nhau thì người ta đưa ra các khái niệm khác nhau về tiền lương.
ở Nhật Bản tiền lương là chỉ thù lao lao động mà người lao động nhận được từ người sử dụng lao động.
Theo tổ chức lao động quốc tế ILO, tiền lương là sự trả công hoặc thu nhập biểu hiện bằng tiền và được ấn định bằng thoả thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động.
ở Việt Nam :
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung: tiền lương là một phần thu nhập quốc dân biểu hiện dưới hình thức tiền tệ được Nhà nước phân phối một cách có kế hoạch cho người lao động theo số lượng và chất lượng lao động mà họ đã cống hiến. Tiền lương vừa được trả bằng tiền vừa được trả bằng hiện vật, dịch vụ thông qua chế độ về nhà ở, y tế giáo dục và các khoản phúc lợi không mất tiền hoặc mất tiền nhưng không đáng kể. Theo quan điểm này thì:
Nguồn trả lương lấy từ thu nhập quốc dân ( GDP ) và người trả lương là Nhà nước.
Sức lao động không phải là hàng hoá nên tiền lương không phản ánh đúng giá trị sức lao động.
Do tiền lương lấy từ thu nhập quốc dân mà trong thời kỳ này Nhà nước ta còn nghèo lại phải chi tiêu nhiều, thu nhập lại thấp nên tiền lương cũng rất thấp. Mặc dù ngân sách nhà nước bị thâm hụt nặng nhưng tiền lương vẫn không đủ để tái sản xuất sức lao động. Do đó chế độ tiền lương này đã dẫn đến một thực trạng phổ biến đó là: ở hầu hết các doanh nghiệp, người lao động không mấy tha thiết với công việc, không quan tâm đến việc nâng cao trình độ chuyên môn, tính chủ động của người lao động bị hạn chế và lợi ích thiết thực của người lao động bị xem nhẹ. Từ đó tiêu cực ngày càng gia tăng, hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng bị giảm sút.
Mặt khác do không gắn lợi ích với hiệu quả mà người lao động tạo ra vì vậy tiền lương không đảm bảo nguyên tắc phân phối theo lao động.
Trong nền kinh tế thị trường: tiền lương là giá cả sức lao động được hình thành thông qua sự thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động, phù hợp với quan hệ cung cầu sức lao động trong nền kinh tế thị trường, được trả theo năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả công việc. Tiền lương là một bộ phận của thu nhập quốc dân, là giá trị mới sáng tạo ra mà người sử dụng lao động trả cho người lao động phù hợp với giá trị sức lao động đã hao phí trong quá trình sản xuất. Như vậy, tiền lương là một bộ phận của giá trị hàng hoá, phản ánh giá trị sức lao động, được thể hiện trong giá cả hàng hoá thực hiện.
Theo quan điểm này thì tiền lương đã được tiền tệ hoá, nó không còn mang nặng tính bao cấp, không còn mang tính bình quân, nhờ đó nó đã khắc phục được nhược điểm của tiền lương trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung. Giờ đây tiền lương đã trở thành đòn bẩy kích thích người lao động hăng say lao động và học tập nâng cao trình độ lao động.
Ngoài ra các nhà kinh tế học phương Tây còn đưa ra một số khái niệm khác về tiền lương như:
Tiền lương danh nghĩa: được hiểu là số tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động. Số tiền này nhiều hay ít phụ thuộc vào năng xuất lao động, hiệu quả làm việc của người lao động.
Trên thực tế mọi mức lương trả cho người lao động đều là tiền lương danh nghĩa. Song bản thân tiền lương danh nghĩa lại không phản ánh được đầy đủ về mức trả công lao động thực tế cho người lao động. Lợi ích mà người lao động nhận được không chỉ phụ thuộc vào tiền lương danh nghĩa, mà nó còn phụ thuộc vào giá cả của hàng hoá dịch vụ ở các vùng khác nhau vào những thời điểm khác nhau, thuế thu nhập và các khoản phải nộp khác theo quy định.
Tiền lương thực tế: được hiểu là số lượng các loại hàng hoá tiêu dùng và các loại dịch vụ cần thiết mà người lao động hưởng lương có thể mua được bằng tiền lương danh nghiã của họ.
Như vậy tiền lương thực tế phụ thuộc vào số tiền lương danh nghĩa mà người lao động nhận được và giá cả các loại hàng hoá tiêu và dịch vụ tiêu dùng cần thiết mà họ muốn và có thể mua được.
Mối quan hệ của tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế thể hiện ở công thức sau: ITLTT = Ltldn/Igc
Trong đó:
Itltt : Chỉ số tiền lương thực tế
Itldn : Chỉ số tiền lương danh nghĩa
Igc : chỉ số giá cả.
Như vậy nếu tiền lương danh nghĩa tăng lên nhưng tăng chậm hơn so với mức tăng của giá cả hàng hoá thì tiền lương thực tế lại giảm xuống.
Trong xã hội, tiền lương thực tế mới là mục đích lao động trực tiếp của người lao động hưởng lương và đó cũng là đối tượng quản lý trực tiếp trong các chính sách về thu nhập tiền lương và đời sống.
1.1.1.2. Bản chất của tiền lương:
Tiền lương là một phạm trù gắn liền với với phạm trù lao động. Song lao động là một phạm trù vĩnh viễn còn tiền lương là một phạm trù lịch sử. Tiền lương là hình thức trả công lao động. Để đo lường hao phí lao động trong sản xuất kinh doanh người ta chỉ có thể sử dụng thước đo giá trị thông qua tiền tệ vì vậy khi trả công cho người lao động người ta sử dụng hình thức tiền lương.
Tiền lương là giá cả sức lao động được hình thành trên cơ sở giá trị sức lao động, nó chịu sự chi phối bởi rất nhiều quy luật kinh tế như quy luật cung - cầu sức lao động, quy luật giá trị ... Nếu cung lao động lớn hơn cầu lao động thì tiền lương sẽ giảm xuống và ngược lại nếu cầu lao động lớn hơn cung lao động thì tiền lương sẽ tăng lên. Theo C . Mác: '' giá trị sức lao động bằng ( bao gồm ) giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết để phù đắp lại sức lao động đã hao phí trong quá trình sản xuất cộng với giá trị của những chi phí nuôi dưỡng con người trước và sau tuổi có khả năng lao động và giá trị chi phí học hành. '' Những chi phí này không chỉ phụ thuộc vào nhu cầu tự nhiên và sinh lý của con người mà nó còn phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội và trình độ văn minh đạt được. Chính vì vậy khi xác định chính sách tiền lương cần phải xuất phát từ những yêu cầu sau đây:
Một là, tiền lương phải được giải quyết trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân cho tất cả các thành phần kinh tế theo yêu cầu của nền kinh tế thị trường.
Hai là, trong sản xuất kinh doanh phải xem xét tiền lương trên hai phương diện: Tiền lương là sự biểu hiện bằng tiền của chi phí sản xuất kinh doanh do đó phải tính đúng, tính đủ các yếu tố hợp thành tiền lương có như vậy mới tính đúng giá thành sản xuất kinh doanh và góp phần củng cố chế độ hạch toán kinh doanh. Mặt khác tiền lương là bộ phận thu nhập của doanh nghiệp phân phối cho người lao động bởi vậy nguồn tiền lương phải do chính doanh nghiệp tự tạo ra từ kết quả hoạt động kinh doanh và việc trả lương phải kết hợp hài hoà 3 lợi ích:
Đảm bảo cho doanh nghiệp hoàn thành các nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Đảm bảo duy trì và phát triển doanh nghiệp. Bảo toàn được vốn và tái tạo tài sản cố định.
Đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình của họ.
Tiền lương được hình thành thông qua sự thoả thuận giữa người có sức lao động và người sử dụng lao động về yếu tố sức lao động trên cơ sở pháp luật và các quy định của Nhà nước , là thu nhập chủ yếu của người sở hữu sức lao động. Với quan điểm này thì tiền lương đo lường số lượng và chất lượng sức lao động cung ứng trên thị trường đồng thời xác định khả năng tối đa của tái sản xuất sức lao động ở mỗi quy trình sản xuất kinh doanh. Nếu trìu tượng hoá các quan hệ khác trên thị trường lao động thì tiền lương cao hay thấp tuỳ thuộc vào số lượng và chất lượng của nguồn nhân lực đó.
Tiền lương là một chính sách kinh tế - xã hội lớn của quốc gia. Tiền lương là bộ phận trọng yếu của phân phối thu nhập quốc dân, chi phối trực tiếp vấn đề công bằng về xã hội giữa các tầng lớp dân cư, là tiêu điểm cho các chính sách kinh tế - xã hội khác của Nhà nước. Do đó nó là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Theo các nhà kinh tế học phương Tây thì tiền lương là giá trị sức lao động được hình thành trên cơ sở thị trường lao động. Nó không chỉ liên quan trực tiếp tới sự tồn tại của người làm công ăn lương mà còn liên quan đến cả sự thành công ( thất bại ) của người sử dụng lao động.
1.1.2.Các chức năng của tiền lương:
1.1.2.1. Chức năng thước đo giá trị:
Do tiền lương là giá cả sức lao động, là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động được hình thành trên cơ sở giá trị sức lao động nên nó phản ánh được giá trị sức lao động. Nhờ khả năng phản ánh này mà tiền lương có chức năng thước đo giá trị sức lao động, nó dùng làm căn cứ xác định mức tiền trả công cho các loại lao động và đơn giá tiền lương đồng thời là cơ sở để điều chỉnh giá cả sức lao động khi giá cả tư liệu sinh hoạt có sự biến động.
1.1.2.2. Chức năng tái sản xuất sức lao động:
Trong nền kinh tế hàng hoá: sức lao động là một trong những yếu tố thuộc chi phí đầu vào của sản xuất kinh doanh. Muốn cho tái sản xuất sức lao động xã hội được diễn ra bình thường thì cần phải khôi phục và tăng cường sức lao động cá nhân để bù đắp sức lao động đã hao phí trong quá trình sản xuất, ngoài ra còn phải đảm bảo tái sản xuất mở rộng sức lao động. Tiền lương là một trong những tiền đề vật chất có khả năng đảm bảo tái sản xuất sức lao động trên cơ sở đảm bảo bù đắp lại sức lao động hao phí thông qua việc thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cho người lao động. Vì vậy các yếu tố cấu thành tiền lương phải đảm bảo được yêu cầu là không ngừng nâng cao đời sống cho người lao động và gia đình của họ.
1.1.2.3. Chức năng kích thích lợi ích vất chất đối với người lao động:
Tiền lương là bộ phận thu nhập chính của người lao động nhằm thoả mãn phần lớn nhu cầu vật chất và tinh thần của người lao động. Do đó sử dụng các mức tiền lương khác nhau sẽ là đòn bẩy kinh tế quan trọng để định hướng sự quan tâm và động cơ trong lao động của người lao động trên cơ sở lợi ích cá nhân và tiền lương có khả năng tạo động lực vật chất trong lao động. Vì vậy khi người lao động làm việc có hiệu quả cao thì phải trả lương cao hơn. Những người làm công việc đòi hỏi trình độ chuyên môn cao hơn, phức tạp hơn, trong điều kiện khó khăn, nặng nhọc, độc hại hơn thì phải được trả mức lương cao hơn.
Đối với người lao động: nhận được tiền lương thoả đáng sẽ tạo động lực, kích thích năng lực sáng tạo để làm tăng năng suất lao động. Khi năng suất lao động cao thì lợi nhuận doanh nghiệp sẽ tăng lên do đó nguồn phúc lợi của doanh nghiệp mà người lao động nhận được cũng sẽ tăng lên và nó là phần bổ sung thêm cho tiền lương, làm tăng thu nhập và tăng lợi ích cho người cung ứng sức lao động. Hơn nữa khi lợi ích của người lao động được đảm bảo thì nó sẽ tạo ra sự gắn kết cộng đồng giữa người lao động với mục tiêu và lợi ích của doanh nghiệp, xoá bỏ sự ngăn cách giữa người sử dụng lao động và người lao động, làm cho người lao động có trách nhiêm hơn, tự giác hơn với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì vậy tiền lương là động lực kích thích để người lao động không ngừng nâng cao kiến thức và tay nghề.
1.1.2.4. Chức năng bảo hiểm tích luỹ:
Chức năng này được thể hiện ở chỗ: tiền lương không những giúp người lao động duy trì được cuộc sống hàng ngày trong thời gian còn khả năng lao động và đang làm việc mà nó còn được trích ra một phần để dự phòng cho cuộc sống sau này khi họ hết khả năng lao động hoặc chẳng may gặp phải rủi ro bất trắc trong cuộc sống. Có nghĩa là trong quá trình lao động người lao động phải trích một phần tiền lương để mua bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế... thông qua hệ thống chính thức (bảo hiểm của các công ty bảo hiểm) hoặc hệ thống không chính thức (tự bảo hiểm).
1.1.2.5. Chức năng xã hội:
Tiền lương gắn liền với hiệu quả sản xuất kinh doanh của người lao động do đó sẽ thúc đẩy các mối quan hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau và nâng cao hiệu quả cạnh tranh của doanh nghiệp, tạo tiền đề cho sự phát triển toàn diện của con người thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng dân chủ văn minh.
Chức năng xã hội còn được biểu hiện ở góc độ điều phối thu nhập trong nền kinh tế quốc dân, tạo ra sự công bằng xã hội trong việc trả lương cho người lao động trong cùng một ngành nghề, một khu vực và giữa các ngành nghề và khu vực khác nhau.
1.1.3. Các hình thức trả lương:
1.1.3.1. Hình thức trả lương theo thời gian:
Tiền lương theo thời gian là tiền lương thanh toán cho người lao động căn cứ vào trình độ kỹ thuật, trình độ thành thạo nghề nghiệp và thời gian làm việc thực tế của họ. Có hai hình thức trả lương theo thời gian là:
Trả lương theo thời gian đơn giản: là tiền lương mà người lao động nhận được căn cứ vào mức lương cấp bậc và thời gian làm việc thực tế là nhiều hay ít.
Trả lương theo thời gian có thưởng: là sự kết hợp giữa tiền lương theo thời gian đơn giản và những khoản tiền thưởng do đạt được hoặc vượt các chỉ tiêu về số lượng, chất lượng sản phẩm đã quy định.
Cả hai hình thức trả lương này đều có chung một ưu điểm là dễ tính toán. Với hình thức trả lương này, người lao động luôn nhận được mức lương tương đối ổn định.
Tuy nhiên, hình thức trả lương này mang tính bình quân, không gắn liền với kết quả lao động; không tính đến mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng lao động mà người lao động đã hao phí trong quá trình thực hiện công việc. Điều này thể hiện ở chỗ cả người lao động và người sử dụng lao động không quan tâm đến kết quả lao động mà người lao động đã tạo ra cho doanh nghiệp. Vì vậy hình thức trả lương này không khuyến khích sử dụng hợp lý thời gian làm việc, tiết kiệm nguyên liệu, sử dụng có hiệu quả công suất của máy móc thiết bị để tăng năng suất lao động và không cho phép người lao động tăng tiền lương nhờ làm việc tích cực. Mặt khác với cách tính toán này doanh nghiệp không tính đúng, tính đủ các hao phí lao động sống vào giá thành sản phẩm.
Với nhược điểm đã nêu trên thì hình thức trả lương theo thời gian chủ yếu áp dụng đối với những người làm công tác quản lý hoặc đối với công nhân sản xuất ở các bộ phận mà quá trình sản xuất đã được tự động hoá, những công việc chưa xây dựng được định mức lao động, những công việc mà khối lượng hoàn thành không xác định được hoặc những loại công việc cần thiết phải trả lương thời gian nhằm đảm bảo chất lượng sản phẩm như công việc kiểm tra chất lượng sản phẩm, công việc sửa chữa thiết bị máy móc.
1.1.3.2. Trả lương theo năng suất lao động:
Trả lương năng suất là hình thức trả lương cho người lao động dựa trực tiếp vào số lượng và chất lượng sản phẩm (dịch vụ) mà họ đã hoàn thành và đơn giá tiền lương theo năng suất.
Trong thực tế trả lương năng suất đã được đa dạng hoá thành nhiều hình thức khác nhau như: trả lương sản phẩm trực tiếp cá nhân, trả lương sản phẩm tập thể, trả lương sản phẩm gián tiếp, trả lương khoán sản phẩm, trả lương sản phẩm có thưởng và khoán có thưởng v..v..
a. Trả lương theo sản phẩm trực tiếp cá nhân:
Trả lương theo sản phẩm trực tiếp cá nhân là chế độ tiền lương được trả theo từng đơn vị sản phẩm hoặc chi tiết sản phẩm và theo đơn giá nhất định.
Với hình thức trả lương này cho dù số lượng sản phẩm mà công nhân sản xuất ra là hụt mức, đạt mức, hay vượt mức thì cứ mỗi đơn vị sản phẩm làm ra đều được trả tiền lương nhất định gọi là đơn giá sản phẩm như vậy tiền lương sẽ tăng theo số sản phẩm xuất ra.
Ưu điểm của hình thức trả lương này là: Dễ dàng tính được tiền lương trực tiếp trong kỳ và khuyến khích công nhân tích cực làm việc để nâng cao năng suất lao động, tăng tiền lương một cách trực tiếp.
Tuy nhiên hình thức trả lương này dễ làm công nhân chỉ chú ý đến số lượng mà ít quan tâm đến chất lượng sản phẩm. Nếu không có thái độ và ý thức làm việc tốt sẽ ít quan tâm đến tiết kiệm vật tư, nguyên liệu hay sử dụng hiệu quả máy móc thiết bị.
Chế độ trả lương theo sản phẩm trực tiếp được áp dụng rộng rãi với người trực tiếp sản xuất trong điều kiện quá trình làm việc của họ mang tính chất độc lập tương đối, có định mức, việc kiểm tra và nghiệp thu sản phẩm được tiến hành một cách cụ thể và riêng biệt.
b. Trả lương sản phẩm tập thể:
Là chế độ trả lương cho từng đơn vị sản phẩm theo đơn giá nhất định mà tập thể chế tạo, đảm bảo chất lượng và phụ thuộc vào cách phân chia tiền lương cho từng thành viên.
Hình thức trả lương này có tác dụng nâng cao ý thức, trách nhiệm, tinh thần hợp tác và phối hợp có hiệu quả giữa các công nhân làm việc trong tổ, khuyến khích các tổ lao động theo tổ tự quản.
Tuy nhiên hình thức trả lương này lại không khuyến khích tăng NSLĐ lao động cá nhân do tiền lương chỉ phụ thuộc vào kết quả lao động chung của cả tổ mà không phụ thuộc trực tiếp vào kết quả làm việc của bản thân họ.
Hình thức trả lương này thường áp dụng cho những công việc đòi hỏi nhiều người cùng tham gia thực hiện, mà công việc của mỗi cá nhân có liên quan đến nhau.
c. Trả lương sản phẩm gián tiếp:
Trả lương sản phẩm gián tiếp là hình thức trả lương cho những công nhân làm những công việc phục vụ, phụ trợ như công nhân điều chỉnh và sửa chữa máy móc thiết bị, phục vụ vận chuyển, kho tàng, kiểm tra sản phẩm căn cứ vào kết quả lao động của công nhân chính hưởng lương sản phẩm và đơn giá tiền lương theo mức lao động của công nhân chính.
Chế độ trả lương theo sản phẩm gián tiếp được áp dụng để trả lương cho lao động làm các công việc phục vụ hay phụ trợ, phục vụ