Đề tài Chế định nguyên thủ quốc gia qua các bản Hiến pháp Việt Nam

Nguyên thủ quốc gia được Hiến pháp quy định là người đứng đầu nhà nước, có quyền thay mặt nhà nước về mặt đối nội và đối ngoại; về nguyên tắc là đại diện tượng trưng cho sự bền vững và tập trung của Nhà nước. Khi cách mạng tư sản diễn ra và dành thắng lợi, giai cấp tư sản chiến thắng giai cấp phong kiến và lập ra bộ máy cai trị mới. Trong bộ máy đó có sự xuất hiện của một thể chế mới, đó là thể chế nguyên thủ quốc gia. Như vậy, về cơ bản thiết chế nguyên thủ quốc gia của các nước trên thế giới hiện nay đều được xây dựng dựa trên thiết chế của nhà nước tư sản . Nhìn chung sự hiện diện của nguyên thủ quốc gia ở các nước tư bản với nhiều vẻ khác nhau song cũng đóng một vai trò nhất định trong việc tổ chức quyền lực nhà nước. Đặc biệt là vai trò biểu tượng cho dân tộc, liên kết phối hợp các nhánh quyền lực thể hiện quan điểm thỏa hiệp giai cấp tại các nước tư bản. Đến nhà nước xã hội chủ nghĩa, bộ máy nhà nước được tổ chức theo chế độ tập quyền, thì về nguyên tắc thiết chế nguyên thủ quốc gia riêng là không cần thiết, nếu không muốn nói là không dung hợp. Tại một số nước XHCN khác do truyền thống lịch sử của mình, còn lưu giữ thiết chế chủ tịch nước, thì chủ tịch nước tuy được coi là nguyên thủ quốc gia đứng đầu nhà nước, song phái sinh từ cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và cùng cơ quan này thực hiện các chức năng nguyên thủ. Sự hiện diện các biểu hiện “nguyên thủ quốc gia” trong cơ chế nhà nước XHCN phần nhiều là do thông lệ quốc tế - để thuận lợi trong việc thực hiện một số hoạt động nhà nước có tính chất long trọng, hình thức và chừng mực nhất định, để phối hợp hoạt động của các cơ quan trong cơ chế nhà nước. Vị trí thứ hai này của “nguyên thủ quốc gia” xã hội chủ nghĩa khá khác nhau, tùy thuộc vào từng nước. Trong cơ chế nhà nước ta như đã nói ở trên, thiết chế nguyên thủ quốc gia được tổ chức khác nhau qua các bản Hiến pháp. Ở Hiến pháp năm 1946 và 1959 là Chủ tịch nước. Đến Hiến pháp năm 1980 là Hội đồng nhà nước, và hiện nay, tại Hiến pháp năm 1992 trở lại hình thức Chủ tịch nước. Vị trí, tính chất, chức năng quyền hạn và mối quan hệ của thiết chế này đối với các cơ quan khác cũng khác nhau theo từng giai đoạn phát triển của tổ chức nhà nước. Trong từng hiến pháp có sự kế thừa và phát triển những nguyên tắc căn bản của tổ chức bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa nói chung và chế định nguyên thủ quốc gia nói riêng.

doc19 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1747 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Chế định nguyên thủ quốc gia qua các bản Hiến pháp Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC A. LỜI MỞ ĐẦU 3 B. NỘI DUNG 3 I. Khái quát về chế định nguyên thủ quốc gia 3 II. Chế định chủ tịch nước trong Hiến pháp 1946 4 1. Vị trí, tính chất. 4 2. Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan nhà nước khác. 4 a. Mối quan hệ với Nghị viện: 4 b. Mối quan hệ với Chính phủ 5 c. Mối quan hệ với cơ quan tư pháp. 5 3. Nhiệm vụ và quyền hạn. 5 a. Nhóm các nhiệm vụ và quyền hạn đối với quốc gia: 5 b.Nhóm các nhiệm vụ và quyền hạn đối với 3 công quyền: 5 II. Chế định nguyên thủ quốc gia trong Hiến pháp 1959 5 1. Vị trí, tính chất. 5 2.Mối quan hệ với các cơ quan Nhà nước khác: 6 3.Nhiệm vụ và quyền hạn: 6 a. Nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến chức năng đại diện, thay mặt Nhà nước về đối nội, đối ngoại. 6 b. Nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến việc phối hợp các thiết chế quyền lực Nhà nước trong các lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp. 6 IV - Chế định nguyên thủ quốc gia trong Hiến pháp 1980 7 1.Về vị trí, tính chất. 7 2. Mối quan hệ với cơ quan nhà nước khác. 8 \a. Mối quan hệ của hội đồng nhà nước với quốc hội. 8 b. Mối quan hệ giữa hội đồng nhà nước với chính phủ (theo Hiến pháp 1980 chính phủ là hội đồng bộ trưởng) là mối quan hệ chặt chẽ. 8 c.Mối quan hệ giữa hội đồng nhân dân với Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân cũng là mối quan hệ quan trọng 8 3. Về nhiệm vụ quyền hạn: 8 V, Chế định Chủ tịch nước theo HP1992 và Hiến pháp 1992 sửa đổi theo nghị quyết số 51/2001/QH10 9 1.Vị trí, tính chất 9 2. Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan nhà nước khác. 9 a) Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Quốc hội và uỷ ban thường vụ quốc hội(UBTVQH) 9 b) Mối quan hệ của Chủ tịch nước với Chính Phủ: 10 c) Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước và Toà án nhân dân tối cao. 10 d) Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Viện kiểm sát nhân dân tối cao 11 4. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chủ tịch nước 11 a) Nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến chức năng đại diện, thay mặt nước về đối nội và đối ngoại 11 b) Nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến việc thiết lập các thiết chế quyền lực nhà nước trong lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp. 12 b2) Trong lĩnh vực hành pháp, tư pháp 12 VI, Đánh giá 13 C. LỜI KẾT 17 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 18 A. LỜI MỞ ĐẦU Trong hệ thống bộ máy nhà nước của các nước hiện đại hầu như đều có một thiết chế đặc biệt là nguyên thủ quốc gia và được gọi với những tên gọi khác nhau: vua, hoàng đế, tổng thống, đoàn chủ tịch, hội đồng liên bang, hội đồng nhà nước, chủ tịch nước. Không chỉ về tên gọi mà ở mỗi nước thì vị trí, vai trò, chức năng và tính chất khác nhau tùy thuộc vào thể chế chính trị và cách thức tổ chức nhà nước. Ngay ở trong một nước thể chế nguyên thủ quốc gia cũng có những thay đổi theo từng thời kỳ nhất định. Ở nước ta, nguyên thủ quốc gia tồn tại dưới hình thức Chủ tịch nước và đã được quy định khác nhau qua các bản Hiến pháp 1946, 1959,1980, 1992. Vì vậy, với mục đính muốn tìm hiểu rõ vị trí, tính chất pháp lý, chức năng thẩm quyền của nguyên thủ quốc gia tại Việt Nam qua mỗi thời kì, nhóm chúng em chọn lựa đề tài: “ Chế định nguyên thủ quốc gia qua các bản Hiến pháp Việt Nam”. Đây là một đề tài khá rộng khi phải tìm hiểu chế định này trong suốt lịch sử lập hiến của nước ta, nên chúng em chỉ có thể tìm hiểu chế định này dưới góc độ tổng quát nhất. Rất mong sẽ nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và các bạn để chúng em hoàn chỉnh tốt đề tài này. B. NỘI DUNG I. Khái quát về chế định nguyên thủ quốc gia Nguyên thủ quốc gia được Hiến pháp quy định là người đứng đầu nhà nước, có quyền thay mặt nhà nước về mặt đối nội và đối ngoại; về nguyên tắc là đại diện tượng trưng cho sự bền vững và tập trung của Nhà nước. Khi cách mạng tư sản diễn ra và dành thắng lợi, giai cấp tư sản chiến thắng giai cấp phong kiến và lập ra bộ máy cai trị mới. Trong bộ máy đó có sự xuất hiện của một thể chế mới, đó là thể chế nguyên thủ quốc gia. Như vậy, về cơ bản thiết chế nguyên thủ quốc gia của các nước trên thế giới hiện nay đều được xây dựng dựa trên thiết chế của nhà nước tư sản . Nhìn chung sự hiện diện của nguyên thủ quốc gia ở các nước tư bản với nhiều vẻ khác nhau song cũng đóng một vai trò nhất định trong việc tổ chức quyền lực nhà nước. Đặc biệt là vai trò biểu tượng cho dân tộc, liên kết phối hợp các nhánh quyền lực thể hiện quan điểm thỏa hiệp giai cấp tại các nước tư bản. Đến nhà nước xã hội chủ nghĩa, bộ máy nhà nước được tổ chức theo chế độ tập quyền, thì về nguyên tắc thiết chế nguyên thủ quốc gia riêng là không cần thiết, nếu không muốn nói là không dung hợp. Tại một số nước XHCN khác do truyền thống lịch sử của mình, còn lưu giữ thiết chế chủ tịch nước, thì chủ tịch nước tuy được coi là nguyên thủ quốc gia đứng đầu nhà nước, song phái sinh từ cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và cùng cơ quan này thực hiện các chức năng nguyên thủ. Sự hiện diện các biểu hiện “nguyên thủ quốc gia” trong cơ chế nhà nước XHCN phần nhiều là do thông lệ quốc tế - để thuận lợi trong việc thực hiện một số hoạt động nhà nước có tính chất long trọng, hình thức và chừng mực nhất định, để phối hợp hoạt động của các cơ quan trong cơ chế nhà nước. Vị trí thứ hai này của “nguyên thủ quốc gia” xã hội chủ nghĩa khá khác nhau, tùy thuộc vào từng nước. Trong cơ chế nhà nước ta như đã nói ở trên, thiết chế nguyên thủ quốc gia được tổ chức khác nhau qua các bản Hiến pháp. Ở Hiến pháp năm 1946 và 1959 là Chủ tịch nước. Đến Hiến pháp năm 1980 là Hội đồng nhà nước, và hiện nay, tại Hiến pháp năm 1992 trở lại hình thức Chủ tịch nước. Vị trí, tính chất, chức năng quyền hạn và mối quan hệ của thiết chế này đối với các cơ quan khác cũng khác nhau theo từng giai đoạn phát triển của tổ chức nhà nước. Trong từng hiến pháp có sự kế thừa và phát triển những nguyên tắc căn bản của tổ chức bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa nói chung và chế định nguyên thủ quốc gia nói riêng. II. Chế định chủ tịch nước trong Hiến pháp 1946 Sau cách mạng tháng 8, nhà nước cộng hòa dân chủ Việt Nam ra đời là nhà nước dân chủ nhân dân. Với bản Hiến pháp 1946, bộ máy nhà nước đã bước đầu được tổ chức theo nguyên tắc tập quyền song vẫn còn mang nhiều cách tổ chức theo kiểu đại nghị, thể hiện ở Nghị viện nhân dân và chính phủ liên hiệp với sự đoàn kết rộng rãi ở các lực lượng, giai cấp, đảng phái. Sự ra đời của chế định Chủ tịch nước trong hiến pháp 1946 có thể nói bắt đầu từ chủ trương thành lập một chính phủ nhân dân cách mạng theo tinh thần đoàn kết rộng rãi tất cả các tầng lớp nhân dân. 1. Vị trí, tính chất. Theo hiến pháp 1946 Chủ tịch nước có vị trí không những là người đứng đầu nhà nước mà còn là người lãnh đạo bộ máy hành pháp (Chính phủ). Với vị trí này thì tính chất của Chủ tịch nước được thể hiện giống như ở các nước dân chủ: là có sự phân công phối hợp giữa Nghị viện, Ban thường vụ và Chủ tịch nước. Chủ tịch nước chủ tọa và qui định những vấn đề quan trọng đồng thời còn chủ tọa Hội đồng chính phủ và cùng với Chính phủ ban hành sắc lệnh quy định các chính sách thi hành các đạo luật, quyết nghị của Nghị viện. 2. Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan nhà nước khác. a. Mối quan hệ với Nghị viện: Chủ tịch nước có những quyền hạn lớn đối với Nghị viện như: yêu cầu Nghị viện thảo luận lại những luật mà Chủ tịch nước không đồng ý (Điều 31); Chủ tịch nước không phải chịu một trách nhiệm nào trừ khi phạm bội Tổ quốc (Điều 50). Tuy vậy Nghị viện cũng có khả năng hạn chế quyền của Chủ tịch nước, để đảm bảo cho Nghị viện là cơ quan có quyền cao nhất: Chủ tịch nước được Nghị viện chọn trong số các nghị viên và phải được hai phần ba tổng số nghị viên bỏ phiếu thuận, Chủ tịch nước có thể được bầu lại (Điều 45); Những luật mà Chủ tịch nước yêu cầu thảo luận lại nếu vẫn được Nghị viện ưng chuẩn thì bắt buộc Chủ tịch nước phải ban bố (Điều 31); Chủ tịch nước sẽ bị một tòa án đặc biệt của Nghị viện xét xử nếu phạm bội phản bội Tổ quốc (Điều 51). b. Mối quan hệ với Chính phủ. Chủ tịch nước là người đứng đầu Chính phủ. Chủ tịch nước chọn Thủ tướng chính phủ trong Nghị viện; kí sắc lệnh bổ nhiệm Thứ trưởng và các nhân viên cao cấp khác thuộc cơ quan chính phủ (Điều 47, 48); mỗi sắc lệnh của Chính phủ phải có chữ kí của Chủ tịch nước, và phải có một hay nhiều Bộ trưởng thuộc lĩnh vực đó tiếp ký (Điều 53). c. Mối quan hệ với cơ quan tư pháp. Hiến pháp 1946 chưa quy định rõ về mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan tư pháp mà chỉ nói rằng các viên Thẩm phán đều do Chính phủ bổ nhiệm. 3. Nhiệm vụ và quyền hạn. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chủ tịch nước có thể phân chia thành 2 nhóm: a. Nhóm các nhiệm vụ và quyền hạn đối với quốc gia: bao gồm: Thay mặt cho nhà nước; Tổng chỉ huy quân đội và lực lượng vũ trang; Tặng thưởng huy chương và các cấp danh dự; Ký hiệp ước với các nước; Tuyên bố đình chiến hay tuyên chiến theo quyết định của Nghị viện b.Nhóm các nhiệm vụ và quyền hạn đối với 3 công quyền: _ Hành pháp: Bổ nhiệm: Thủ tướng; Các công chức cao cấp khác; Các đại sứ. _ Lập pháp: Ban hành: Đạo luật; Là thành viên của Nghị viện; Có quyền: Triệu tập phiên họp bất thường; Yêu cầu Nghị viện thảo luận về sự tín nhiệm của Nội các; Phủ quyết tương đối các sự án luật. _ Tư pháp: Có quyền: Ân xá; Công bố đại xá II. Chế định nguyên thủ quốc gia trong Hiến pháp 1959 Hiến pháp 1959 chuyển Nhà nước ta sang mô hình Xã Hội Chủ Nghĩa kiểu Xô Viết. Do áp dụng mạnh mẽ nguyên tắc tập quyền (tuy vẫn còn tồn tại một vài yếu tố dân chủ nhân dân) nên thiết chế Chủ tịch nước được xây dựng lại phù hợp với giai đoạn phát triển mới đó. 1. Vị trí, tính chất. Thiết chế Chủ tịch nước phát sinh từ Quốc hội - cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, thống nhất các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, cùng Quốc hội thực hiện các chức năng nguyên thủ, điều phối các cơ quan cấp cao trong Bộ máy Nhà nước. Chủ tịch nước được xác định là người đứng đầu Nhà nước và không đồng thời là người đứng đầu Chính phủ. Chủ tịch nước thay mặt Nhà nước thực hiện các chức năng thuộc về đối nội, đối ngoại (Điều 61 Hiến pháp 1959). Sự phân định chức năng nguyên thủ giữa Chủ tịch nước, Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chuyển sang hướng mới. Mọi quyền hạn quan trong đều thuộc về Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Chủ tịch nước chủ yếu thực hiện các công việc có tính đại diện cá nhân và tham gia nhất định vào các hoạt động của Nhà nước như lập pháp, thành lập các cơ quan Nhà nước, tặng thưởng huân chương, tuyên bố chiến tranh… nhưng đều dựa trên quy định của Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội. 2.Mối quan hệ với các cơ quan Nhà nước khác: Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra với nhiệm kỳ theo nhiệm kì Quốc hội (4 năm). Ngoài ra, do hoàn cảnh lúc bấy giờ: đất nước bị chia cắt, miền Nam không tham gia bầu cử Quốc hội mà chỉ lưu nhiệm đại biểu cũ, nên để đề phòng có người xứng đáng ở cả hai miền nhưng không phải đại biểu Quốc hội, Hiến pháp 1959 đã quy định chọn Chủ tịch nước từ công dân Việt Nam. Tất cả những điều trên được quy định tại Điều 62 Hiến pháp 1959. Bên cạnh đó, Chủ tịch nước vẫn còn có vai trò khá lớn đối với Hội đồng Chính phủ. Chủ tịch nước đề nghị Thủ tướng để Quốc hội quyết định; căn cứ vào quy định của Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội mà bổ nhiệm, bãi miễn Thủ tướng, Phó Thủ tướng và các thành viên khác của Hội đồng Chính phủ (Điều 63 Hiến pháp 1959); khi thấy cần thiết có quyền tham dự và chủ tọa các phiên họp của Hội đồng Chính phủ (Điều 66 Hiến pháp 1959) 3.Nhiệm vụ và quyền hạn: a. Nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến chức năng đại diện, thay mặt Nhà nước về đối nội, đối ngoại. _ Tiếp nhận đại diện toàn quyền ngoại giao của nước ngoài cử đến; cử, triệu hồi đại diện toàn quyền ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài. _ Căn cứ vào quyết định của Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hộimà phê chuẩn hiệp ước kí với nước ngoài. _ Thống lĩnh các lực lượng vũ trang toàn quốc; giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng. _ Căn cứ vào quyết định của Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội mà tuyên bố tình trạng chiến tranh; công bố lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố lệnh giới nghiêm. _ Quyết định tặng thưởng huân chương và các danh hiệu vinh dự của Nhà nước. _Công bố lệnh đại xá và lệnh đặc xá. b. Nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến việc phối hợp các thiết chế quyền lực Nhà nước trong các lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp. _ Về lĩnh vực lập pháp, Chủ tịch nước có quyền: + Trình dự án luật ra trước Quốc hội và dự án pháp lệnh ra trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội (Điều 15 và 28 Luật Tổ chức Quốc hội 1960) + Công bố pháp luật, pháp lệnh. Các đạo luật phải được công bố chậm nhất 15 ngày sau khi Quốc hội đã thông qua. _ Về lĩnh vực hành pháp, Chủ tịch nước tham gia thành lập Chính phủ; bổ nhiệm, bãi miễn Thủ tướng, Phó Thủ tướng và các thành viên khác của Hội đồng Chính phủ; bổ nhiệm, bãi miễn Phó Chủ tịch và các thành viên khác của Hội đồng Quốc phòng. _ Về lĩnh vực tư pháp và giám sát, đối với các cơ quan như Tòa án Nhân dân tối cao, hay Viện Kiểm sát tối cao, thì theo quy định của Hiến pháp 1959, Chủ tịch nước hầu như không có nhiệm vụ và quyền hạn gì. Để đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Hiến pháp 1959 cũng quy định Chủ tịch nước, khi xét thấy cần thiết, có quyền tham dự và chủ tọa các phiên họp của Hội đồng Chính phủ (Điều 66) hoặc triệu tập và chủ tọa Hội nghị chính trị đặc biệt (Điều 67). IV - Chế định nguyên thủ quốc gia trong Hiến pháp 1980. Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân đã hoàn thành trong phạm vi cả nước. Đất nước ta chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn cả nước cùng xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc. Vì vậy, tổ chức và hoạt động Nhà nước cũng phải thay đổi cho phù hợp với tình hình, nhiệm vụ và quan điểm về “quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động” mà đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV đã xác định. Chủ tịch nước nằm trong hệ thống cơ quan quyền lực Nhà nước ở trung ương với tên gọi là Hội đồng Nhà nước. Hiến pháp năm 1980 đã “sát nhập” hai chức năng của Ủy ban thường vụ quốc hội với chức năng của Chủ tịch nước là cá nhân trong Hiến pháp 1959 vào một cơ quan duy nhất là Hội đồng Nhà nước. 1.Về vị trí, tính chất. Tại Hiến pháp 1980 chế định Chủ tịch nước được thay thế bằng chế độ Chủ tịch tập thể dưới hình thức Hội đồng nhà nước. Hội đồng Nhà nước là cơ quan mới, là kết cấu tổ chức mới của Nhà nước so với hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959. Đây là mô hình tổ chức nguyên thủ quốc gia chung của các nhà nước xã hội chủ nghĩa mà ở đó nguyên tắc tập quyền được vận dụng triệt để. Hiến pháp 1980 dành hẳn Chương VII với 6 Điều (từ Điều 98 đến Điều 103) quy định về Hội đồng Nhà nước. Điều 98 Hiến pháp 1980 đã khẳng định tính chất của Hội đồng Nhà nước: “Hội đồng nhà nước là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của quốc hội và là chủ tịch tập thể của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.(…) Hội đồng Nhà nước, thông qua Chủ tịch hội đồng thay mặt cho nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại Hội đồng Nhà nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.” 2. Mối quan hệ với cơ quan nhà nước khác. \a. Mối quan hệ của hội đồng nhà nước với quốc hội. Các thành viên của hội đồng nhà nước được bầu ra trong số các đại biểu quốc hội( điều 99), nhiệm kỳ của hội đồng nhà nước theo nhiệm kỳ của quốc hội( điều 101). Hội đồng nhà nước thực hiện những nhiệm vụ và quyền hạn được hiến pháp, luật và nghị quyết của quốc hội giao cho, giám sát việc thi hành hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị quyết của quốc hội ( điều 98) Hội đồng nhà nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước quốc hội (điều 98). Như vậy hội đồng nhà nước(chủ tịch nước tập thể) chỉ là cơ quan chấp hành của quốc hội. Còn ở Hiến pháp 1946 nghị viện nhân dân ( đóng vai trò như quốc hội) cũng trọn ra chủ tịch nước nhưng chủ tịch nước lúc bấy giờ không phải là người chấp hành cho nghị viện nhân dân(cơ quan quyền lực nhà nước) mà là người đứng đầu cơ quan hành chính. Nhưng chủ tịch nước có vai trò, quyền hạn rất lớn ( theo điều 50: “ chủ tịch nước không phải chịu một tội nào, trừ khi phản bội tổ quốc”). b. Mối quan hệ giữa hội đồng nhà nước với chính phủ (theo Hiến pháp 1980 chính phủ là hội đồng bộ trưởng) là mối quan hệ chặt chẽ. Hội đồng nhà nước có nhiệm vụ giám sát hội đồng bộ trưởng (khoản 7 điều 100), đình chỉ các quyết định, nghị quyết, nghị định của hội đồng bộ trưởng trái với hiến pháp (khoản 8 điều 100). Còn hiến pháp 1946 thì chủ tịch nước là người đứng đầu chính phủ. Theo Hiến pháp 1946 thì chủ tich nước cũng có những chức năng như giám sát hoạt động, đình chỉ…. Ngoài ra chủ tịch nước còn có vai trò thống nhất hoạt động của chính phủ. c.Mối quan hệ giữa hội đồng nhân dân với Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân cũng là mối quan hệ quan trọng Trên cơ sở phối kết hợp các cơ quan trong cơ cấu nhà nước, hội đồng nhà nước phối hợp chặt chẽ với tòa án và viện kiểm sát tối cao. Đồng thời có nhiệm vụ giám sát công tác của hai cơ quan này Hội đồng nhân dân còn có thẩm quyền cử, bãi miễn các phó chánh án, thẩm phán, hội thẩm nhân dân của Toa án nhân dân tối cao, các phó viện trưởng ,kiểm sát viên của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Hiến pháp 1946 chưa có cơ quan viện kiểm sát nhân dân tối cao. Bắt đầu từ Hiến pháo 1959 mới xuất hiện cơ quan này. 3. Về nhiệm vụ quyền hạn: Theo Điều 98 - Hiến pháp 1980 quy định: “Hội đồng Nhà nước là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội, là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, nên Hội đồng Nhà nước có hai chức năng: chức năng của cơ quan thường trực Quốc hội và chức năng của nguyên thủ quốc gia tập thể. Với hai chức năng trên, quyền hạn của Hội đồng Nhà nước là tương đối lớn. Có thể nói, cơ chế quyền lực của Hội đồng Nhà nước là tổng số quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội và của Chủ tịch nước theo Hiến pháp 1959. Nhóm quyền hạn của cơ quan thường trực của Quốc hội: Hội đồng Nhà nước là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội và vì thế có những quyền hạn: Thông qua hai nhóm quyền hạn trên của Hội đồng nhân dân, ta thấy xu hướng Hiến pháp 1980 là đề cao quyền lực của cơ quyền quyền lực: Hội đồng Nhà nước là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội. Từ đó các hoạt động của Nhà nước đều được trực tiếp thực hiện bởi cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất - Quốc hội. Văn bản mà Hội đồng Nhà nước ban hành là pháp lệnh và nghị quyết. Nhưng phải được quá nửa tổng số thành viên của Hội đồng Nhà nước biểu quyết tán thành (Điều 102). Có thể thấy rằng Hội đồng Nhà nước là cơ quan quyết định văn bản, công bố pháp lệnh và nghị quyết, được quyền tự quyết định văn bản ban hành. V, Chế định Chủ tịch nước theo HP1992 và Hiến pháp 1992 sửa đổi theo nghị quyết số 51/2001/QH10 1.Vị trí, tính chất Theo Điều 101 HP1992 quy định rất rõ vị trí tính chất của Chủ tịch nước: ”Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước. Thay mặt nước CHXHCN Việt Nam về đối nội và đối ngoại”. Sự hiện diện của thiết chế Chủ tịch nước cá nhân góp phần tăng cường tính phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quuyền lực nhà nước trong thời kì đổi mới.
Tài liệu liên quan