Luật HN-GĐ Việt Nam năm 2000 đã quy định cấp dương như sau:“Cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thông hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó chưa thành niên, là người đã thành mà không có khả năng lao động và không có tàu sản để tự nuôi mình, là nhười gặp khó khăn túng thiếu theo quy định của luật này”( Điều 8)
Cấp dưỡng là một thuật ngữ pháp lí được sử dụng trong pháp luật hôn nhân gia đình để thể hiện mối quan hệ ràng buộc về quyên và nghĩa vụ giữa những người không chung sống với nhau nhưng đang có hoặc đã có quan hệ gia đình trong việc đảm bảo cuộc sống cho những người chưa thành niên, những người đã thành niên nhưng trong tình trạng mất hoặc bị suy giảm sút khả năng lao động, không có thu nhấp hoặc không có tài sản hoặc tuy có nhưng không dủ để đảm bảo cuộc sống của mình. Cấp dưỡng còn là biện pháp chế tài đối với người có hành vi trốn tránh thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng.
Cấp dưỡng là hình thức biểu hiện bên ngoài của một nghĩa vụ pháp lí, nội dung của nó bao gồm: Quyền cấp dưỡng, nghĩa vụ cấp dưỡng, chủ thể của quan hệ cấp dưỡng và khách thể của quan hệ cấp dưỡng.
19 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2095 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Chế độ cấp dưỡng trong luật hôn nhân và gia đình, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Trang
I. Những vấn đề lí luận về cấp dưỡng 1
1. Khái niệm cấp dưỡng 1
2. Ý nghĩa của chế định cấp dưỡng 1
II. Chế định cấp dưỡng trong Luật HN-GD năm 2000 2
1. Những quy định chung về cấp dưỡng trong Luật HN-GD Việt Nam năm 2000 2
1.1 Căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng 2
1.2. Căn cứ chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng 4
1.3. Mức cấp dưỡng và phương thức thực hiện cấp dưỡng 5
a. Mức cấp dưỡng 5
b. Phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng 5
1.4. Người có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng 6
1.5 Đảm bảo thực hiện cấp dưỡng 6
2. Cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia đình 7
2.1. Cấp dưỡng của cha mẹ đối với con 7
2.2. Cấp dưỡng của con đối với cha, mẹ 10
2.3. Cấp dưỡng giữa anh, chị, em 11
2.4. Cấp dưỡng giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu 13
2.5. Cấp dưỡng giữa vợ và chồng 14
III. Hoàn thiện chế độ cấp dưỡng trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 18
LỜI MỞ ĐẦU
Trong cuộc sống, nhiều người do những nguyên nhân khác qua chủ quan lâm vào hoàn cảnh khó khăn, túng thiếu, cần sự giúp đỡ của người khác. Trong những trường hợp như vậy, việc xác định ai là người có trách nhiệm trợ giúp luôn là vấn đề có ý nghĩa. Để củng cố sự phát triển bền vững của mỗi cá nhân, gia đình và toàn xã hội, chế định cấp dưỡng trong Luật hôn nhân gia đình ( HN-GĐ) góp phần quan trọng vào việc giải quyết vấn đề này. Trong Luật HN-GĐ năm 2000 lần đầu tiên các quan hệ cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia đình được điều chỉnh tương đối toàn diện và các quy phạm điều chỉnh quan hệ cấp dưỡng được quy định thành một chương độc lập.
I. Những vấn đề lí luận về cấp dưỡng
1. Khái niệm cấp dưỡng
Luật HN-GĐ Việt Nam năm 2000 đã quy định cấp dương như sau:“Cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thông hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó chưa thành niên, là người đã thành mà không có khả năng lao động và không có tàu sản để tự nuôi mình, là nhười gặp khó khăn túng thiếu theo quy định của luật này”( Điều 8)
Cấp dưỡng là một thuật ngữ pháp lí được sử dụng trong pháp luật hôn nhân gia đình để thể hiện mối quan hệ ràng buộc về quyên và nghĩa vụ giữa những người không chung sống với nhau nhưng đang có hoặc đã có quan hệ gia đình trong việc đảm bảo cuộc sống cho những người chưa thành niên, những người đã thành niên nhưng trong tình trạng mất hoặc bị suy giảm sút khả năng lao động, không có thu nhấp hoặc không có tài sản hoặc tuy có nhưng không dủ để đảm bảo cuộc sống của mình. Cấp dưỡng còn là biện pháp chế tài đối với người có hành vi trốn tránh thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng.
Cấp dưỡng là hình thức biểu hiện bên ngoài của một nghĩa vụ pháp lí, nội dung của nó bao gồm: Quyền cấp dưỡng, nghĩa vụ cấp dưỡng, chủ thể của quan hệ cấp dưỡng và khách thể của quan hệ cấp dưỡng.
2. Ý nghĩa của chế định cấp dưỡng
Cấp dưỡng có ý nghĩa quan trọng trong đời sống, tư tưởng của mỗi cá nhân cũng như trong quan hệ hôn nhân. Chế định cấp dưỡng có ý nghĩa quan trọng trong việc củng cố chức năng của gia đình. Gia đình trong thời kì đổi mới ở nước ta có sự đan xen giữa các yếu tố truyền thống và hiện đại. Các chức năng cơ bản của gia đình vẫn là tái sản xuất ra con người, tái sản xuất ra sức lao động thông qua việc nuôi dưỡng chăm sóc các thành viên trong gia đình. Chế định cấp dưỡng trong luật HN-GD đã góp phần củng cố chức năng chăm sóc, nuôi dưỡng người chưa thành niên người cao tuổi, người không có khả năng lao động trong gia đình, là cơ sở pháp lí cần thiết để đảm bảo cho con cái được nuôi dạy tốt trong cả những hoàn cảnh đặc biệt như cha mẹ li hôn, li thân hoặc người mẹ sinh con ngoài giá thú…Chế định cấp dưỡng đã có đóng góp đáng kể vào việc củng cố chức năng xã hội cơ bản của gia đình, giúp cho gia đình hoàn thành sứ mệnh thiêng liêng mà xã hội và tự nhiên giao cho mà không một thiết chế xá hội nào có thể thay thế được.
Chế định cấp dưỡng góp phần củng cố mối quan hệ giũa các thành viên trong gia đình. Chế định cấp dưỡng góp phần tăng cường sự gắn bố giữa các thành viên trong gia đình, nâng cao trách nhiệm của mỗi cá nhân trong việc chăm sóc nuôi dưỡng trẻ em, người cao tuổi, người tàn tật, người mất năng lực hành vi dân sự….với quan điểm dành những gì đẹp nhất cho trẻ em, tạo điều kiện cho người cao tuổi sống vui, khỏe, có ích và người tàn tất được hòa nhập cùng cộng đồng. Nhờ đó quan hệ giữa các thành viên trong gia đình ngày càng được củng cố và gắn bó bền chặt. Ngoài ra, các chế định về cấp dưỡng còn là cơ sở pháp lí nhằm gắn kết các thành viên trong gia đình trong một cộng đồng trách nhiệm. Khi mà các giá trị đạo đức bị thay đổi thì các quy phạm pháp luậtt sẽ là dây xích gắn kết các thành viên trong gia đình với nhau, làm thức tỉnh ở họ ý thức trách nhiệm mà trước hết là trách nhiệm đối với những người có quan hệ gia đình.
Chế định cấp dưỡng có ý nghĩa trong việc giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống của mọi thành viên trong xã hội. Các quy định trong chế định cấp dưỡng có sự đan xen với các quy tắc đạo đức, phong tục tập quán, truyền thống gia đình. Các quy định đó thấm sâu vào tư tưởng của người Việt Nam và nhanh chóng trở thành xử sự chung của đông đảo người dân Việt Nam. Qua đó giáo dục tinh thần “tương thân tương ái”, “lá lành đùm lá rách”, sự đùm bọc sẻ chia khi gặp khó khăn, hoạn nạn không chỉ những người có quan hệ gia đình mà phát triển rộng ra toàn xã hội. Chế định cấp dưỡng đã góp phần tôn vinh các giá trị đạo đức truyền thống của người Việt Nam, thể hiện tính nhân đạo trong pháp luật Việt Nam.
II. Chế định cấp dưỡng trong Luật HN-GD năm 2000.
1. Những quy định chung về cấp dưỡng trong Luật HN-GD Việt Nam năm 2000.
1.1 Căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng.
Để xác lập quan hệ cấp dưỡng, hay cụ thể hơn là phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng cần phải có những căn cứ nhất định, đó là:
- Giữa các chủ thể của quan hệ cấp dưỡng phải có quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng hoặc đã từng có quan hệ hôn nhân.
+ Về quan hệ huyết thống: Luật HN-GĐ quy định nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha me và con, giũa anh chị em với nhau và giữa ông bà với cháu. Để xác định mối quan hệ huyết thống phải bắt đầu từ việc xác định quan hệ giữa cha, me và con phát sịnh trên sự kiện sinh đẻ. Từ quan hệ cha, me và con mà suy ra quan hệ giữa ông bà và cháu, giữa anh chị em với nhau…
+ Về quan hệ nuôi dưỡng (nuôi con nuôi): Việc nuôi con nuôi làm phát sinh quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con, giữa người nhận nuôi con nuôi (cha mẹ nuôi) và người được nhận làm con nuôi (con nuôi). Theo Luật HN-GĐ năm 2000 thì việc nhận nuôi con nuôi phải tuân thủ các điều kiện của việc nuôi con nuôi và phải đăng kí tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Cha mẹ nuôi và con nuôi có nghĩa vụ cấp dưỡng cho nhau khi không sống chung hoặc một bên trốn tránh nghĩa vụ nuôi dưỡng. Sự kiện nuôi con nuôi chỉ làm phát sinh quan hệ phát luật giữa cha me nuôi và con nuôi chứ không làm phát sinh quan hệ pháp luật giữa người con nuôi với các thành viên khác trong giá đình của cha, mẹ nuôi. Do đó không có quan hệ ông bà và cháu nuôi hoặc chị em nuôi
+ Về quan hệ hôn nhân: Luật HN-GĐ năm 2000 quy định nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi li hôn (Điều 60). Đây là nghĩa vụ phát sinh giữa những người đã từng có quan hệ hôn nhân. Do vậy, chỉ những người tồn tại hôn nhân hợp pháp thì khi li hôn mới có quyều và nghĩa vụ cấp dưỡng cho nhau theo quy định của pháp luật.
- Người được cấp dưỡng là người chưa thành niên, người đã thành niên nhưng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, là người túng thiếu khó khăn. Cấp dưỡng nhằm đảm bảo cuộc sống với mức tối thiểu của người được cấp dưỡng.
- Người cấp dưỡng và người được cấp dưỡng không sống chung với nhau. Nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ phát sinh khi người có nghĩa vụ cấp dưỡng vì những hoàn cảnh nhất định không thể trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc người kia, do đó người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải chu cấp tiền hoặc những tài sản nhất định (như lương thực, thực phẩm, quần áo, thuốc men…) để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng, bảo đảm sự sống còn của người đó.
- Người cấp dưỡng phải có khả năng cấp dưỡng. Nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ có thể thực ủhiện được khi người có nghĩa vụ cấp dưỡng có khả năng kinh tế đủ để đảm bảo cuộc sống chính mình. Ngĩa vụ cấp dưỡng phỉa căn cứ vào khả năng, thu nhập thực tế của ngườu có nghĩa vụ cấp dưỡng.
1.2. Căn cứ chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng.
Theo quy định tại Điều 61 Luật HN-GĐ năm 2000 thì nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
- Người được cấp dưỡng đã là thành niên hoặc có khả năng lao động
- Người được cấp dưỡng có thu nhập hoặc tài sản để tự nuôi mình
- Người được cấp dưỡng được nhận làm con nuôi
- Người được cấp dưỡng đã trực tiếp nuôi dưỡng người được cấp dưỡng
- Người được cấp dưỡng hoặc người có nghĩa vụ cấp dưỡng chết
- Bên được cấp dưỡng sau khi li hôn đã kết hôn với người khác
- Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật. Trong từng trường hợp cụ thể, căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể của các bên, trên cơ sở bảo vệ quyền và nghĩa vụ chính đáng của người được cấp dưỡng và người có nghĩa vụ cấp dưỡng, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng.
* Thủ tục chấm dứt cấp dưỡng: Trong các trường hợp 3,4,5,6, nghĩa vụ cấp dưỡng có thể chấm dứt một cách đương nhiên. Trong các trường hợp còn lại, sẽ rất khó nếu các bên chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng theo thỏa thuận mặc nhiên rồi sau đó một thời gian, người có quyền được cấp dưỡng lại yêu cầu người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng trở lại, thậm chí, cấp dưỡng cả cho thời gian giữa ngày thỏa thuận mặc nhiên và ngày yêu cầu cấp dưỡng lại. Nói chung, thực tiễn giao dịch thừa nhận khái niệm cấp dưỡng không liên tục: nếu đến hạn cấp dưỡng mà người có nghĩa vụ cấp dưỡng không thực hiện nghĩa vụ và người được cấp dưỡng không yêu cầu mà cũng không nêu lý do, thì có thể coi như người được cấp dưỡng không có nhu cầu; đến hạn kế tiếp, người được cấp dưỡng có yêu cầu, thì người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải đáp ứng, nhưng người được cấp dưỡng chỉ có quyền đòi phần cấp dưỡng tương ứng với kỳ hạn đó chứ không thể đòi cả phần cấp dưỡng của kỳ hạn trước đó (mà mình đã không đòi).
Nghĩa vụ cấp dưỡng sau khi chấm dứt, vẫn có thể được xác lập lại một khi lại có một bên lâm vào cảnh túng thiếu và bên kia có khả năng. Nhưng quy tắc này không áp dụng cho trường hợp người được cấp dưỡng là vợ hoặc chồng đã ly hôn và đã kết hôn với người khác.
1.3. Mức cấp dưỡng và phương thức thực hiện cấp dưỡng.
a. Mức cấp dưỡng.
Theo quy định tại Điều 53 Luật HN-GĐ năm 2000, mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận dựa căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Lí do chính đáng để yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng có thể là người cấp dưỡng (hoặc người được cấp dưỡng) lâm vào tình trạng khó khăn hơn do bị bệnh tật, tai nại, không có việc làm hoặc các thu nhập hợp pháp khác.
b. Phương thức thực hiện cấp dưỡng.
Theo quy định tại Điều 54 Luật HN-GĐ năm 2000 quy định: “Việc cấp dưỡng có thể được thực hiện định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc một lần”. Như vậy, phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện rất linh hoạt, mềm dẻo. Điều đó tạo điều kiện cho các bên dễ dàng thỏa thuận lựa chọn cách thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng sao cho phù hợp nhất với hoàn cảnh cụ thể của mình. Thông thường nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện theo định kỳ. Khoản 1 Điều 18 Nghị định 70/2001/NĐ-CP quy định: “Người có nghĩa vụ cấp dưỡng hoặc người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận về phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng bằng tiền hoặc tài sản. Nghĩa vụ cấp dưỡng được ưu tiên thực hiện theo phương thức định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm hoặc hàng năm”.
Trong trường hợp đặc biệt, nếu người có nghĩa vụ cấp dưỡng có khả năng thực tế và người được cấp dưỡng cũng đồng ý, thì nghĩa vụ cấp dưỡng có thể được thực hiện một lần.
Các bên có thể thỏa thuận thay đổi phương thức cấp dưỡng, tạm ngừng cấp dưỡng trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế mà không có khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
1.4. Người có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
Theo quy định tại Điều 55 Luật HN-GĐ năm 2000 và Điều 162 Bộ Luật tố tụng dân sự, những người sau đây có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng khi người có nghĩa vụ cấp dưỡng không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ đó:
- Người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu Tòa án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu buộc người không tụ nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó.
- Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự quyền yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó.
- Cơ quan tổ chức sau đây theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu Tòa án hoặc Viện kiểm sát yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó: Ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em; Hội liên hiệp phụ nữ.
- Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có quyền đề nghị Viện kiểm sát xem xét, yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó.
Như vậy, người có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ rất rộng. Điều đó nhằm đảm bảo lợi ích của người được cấp dưỡng, đặc biệt là người già và trẻ em, vì thông thường những chủ thể này rất ít khi tự mình yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
1.5. Đảm bảo thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
Nhà nước ta đã xây dựng một hành lang pháp lý cần thiết để đảm bảo cho nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện. Chế định cấp dưỡng trong hệ thống pháp luật hiện hành đã tạo ra một cơ chế pháp lí cần thiết hướng hành vi ứng xử cho mỗi thành viên trong gia đình và xã hội trong việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng và là cơ sở pháp lý để giải quyết khi có yêu cầu về cấp dưỡng. Theo quy định của pháp luật, khi có người thuộc diện được cấp dưỡng thì những người có nghĩa vụ cấp dưỡng theo thứ tự hàng cấp dưỡng mà pháp luật đã quy định phải cấp dưỡng cho họ trên cơ sở sự tự nguyện. Trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ thì sẽ bị Tòa án buộc thực hiện nghĩa vụ theo quy định tại Điều 55 Luật HN-GĐ và khoản 1 Điều 20 Nghị định số 70/2001/NĐ - CP.
Cùng với các biện pháp cưỡng chế là buộc phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, Nhà nước ta còn ban hành các quy phạm pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Điều 107 Luật HN-GĐ năm 2000 quy định: “Người nào…không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng…thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự”.
Điều 12 Nghị quyết số 87/2001/NĐ-CP ngày 21-11-2001 của Chính phủ về xử phạt hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình quy định: “1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 20.000 đồng đên 100.000 đòng đối với hành vi từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vọ và chồng sau khi li hôn, anh chị em với nhau, giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu thoe quy định của pháp luật. 2. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 50.000 đồng đến 200.000 đồng đối với hành vi từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng cha mẹ, nghĩa vụ cấp dưỡng cho con sau khi li hôn theo quy định của pháp luật”
Điều 152 Bộ luật hình sự năm 1999 còn quy định chế tài hình sự cho hành vi từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng: “Người nào có nghĩa vụ cấp dưỡng và có khả năng thực tế để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng đối với người mà mình có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật mà cố ý từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lí hành chings thì bị phạt cảnh cáo, cỉa tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm”.
2. Cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia đình.
2.1. Cấp dưỡng của cha mẹ đối với con.
Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con phát sinh trên cơ sở cha mẹ có “nghĩa vụ cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con” (Điều 36). Khi cha mẹ vì những lí do nhất định mà không trực tiếp nuôi dưỡng con thì có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con là một bước phát triển so với Luật HN-GĐ năm 1986. Trong Điều 45 Luật NH-GĐ năm 1986 mới chỉ mới chỉ quy định “ đóng góp phí tổn nuôi dưỡng” nhưng chưa được gọi là nghĩa vụ cấp dưỡng như trong Luật HN-GĐ năm 2000.
Trong thực tế, việc cha mẹ cấp dưỡng cho con có thể xảy ra trong hai trường hợp là khi hôn nhân đang tồn tại và khi cha, mẹ li hôn.
* Cha mẹ cấp dưỡng cho con khi hôn nhân đang tồn tại: Khi hôn nhân đang tồn tại, mà cha mẹ không có điều kiện trực tiếp nuôi dưỡng con (do đi công tác xa, do phải chấp hành án phạt tù, do bệnh tật phải điều trị lâu dài…), con được giao cho người khác trông nom, chăm sóc thì cha mẹ có ngh vụ cấp dưỡng cho con.
Trong trường hợp cha, mẹ bị hạn chế quyền cha, mẹ đối với con chưa thành niên theo quy định tại Điều 41 Luật HN-GĐ thì không được thực hiện quyền chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, quản lí tài sản của con nhưng vẫn phải có nghĩa vụ cấp dưỡng ( khoản 3 Điều 43 Luật HN-GĐ năm 2000)
* Cha, mẹ cấp dưỡng cho con khi li hôn: Khi li hôn cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Điều 56 Luật HN-GĐ quy định: “ Khi li hôn, cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con”. Điều 92 Luật HN-GĐ quy định: “ Sau khi li hôn, vợ, chồng vẫn có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng bị tàn tật, mất sức năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Ngườu không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con”.
Nghĩa vụ cấp dưỡng cho con khi cha mẹ li hôn được đặt ra khi đáp ứng đủ hai điều kiện sau đây:
Thứ nhất, bên được cấp dưỡng (con) phải là người chưa thành niên hoặc đã thành niên thì thuộc diện bị tàn tật, bị mất năng lực hành vi, không có khả năng lao động. Đối tượng được cha mẹ cấp dưỡng bao gồm tất cả các con chưa thành niên, hoặc con đã thành niên nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi sống mình. Khi cha, mẹ li hôn thì con đã thành thai trong thời kì hôn nhân và sinh ra sau khi hôn nhân chấm dứt mà còn sống cũng được cấp dưỡng.
Thứ hai, cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
Về mức cấp dưỡng cho con do cha mẹ thỏa thuận. Theo Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP thì: “Tiền cấp dưỡng nuôi con bao gồm chi phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng, học hành của con và do các bên thỏa thuận. Trong trường hợp các bên không thỏa thuận được thì tùy vào từng trường hợp cụ thể, vào khả năng của mỗi bên mà quy định mức cấp dưỡng nuôi con cho hợp lí”.
Về phương thức cấp dưỡng nuôi con do các bên thỏa thuận định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm. Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP hướng dẫn: “Trong trường hợp các bên không thỏa thuận được thì tòa án quyết định phương thức cấp dưỡng định kỳ hàng tháng”.
Khi điều kiện thay đổi, hoặc thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định tại Điều 93, thì các bên có thể thỏa thuận thay đổi về người cấp dưỡng, mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng nuôi con trên cở xở vì lợi ích của con.
Thực tế giải quyết việc li hôn tại các địa phương trong cả nước cho thấy Tòa án đã vận dụng tốt các quy định về việc cha, mẹ cấp dưỡng cho con khi