Quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, mở, nhất thể hoá và theo định hướng XHCN ở nước ta đã, đang và sẽ thường xuyên đặt ra những thách thức cùng những cơ hội phát triển cho tất cả các doanh nghiệp khác nhau, đặc biệt là các doanh nghiệp Quốc Doanh khi phấn đấu bảo đảm vai trò của chúng.
48 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1359 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chi phí kinh doanh và các biện pháp hạ thấp chi phí kinh doanh tại Công ty vận chuyển khách 16A Nguyễn Công Trứ – Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần mở đầu.
Quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, mở, nhất thể hoá và theo định hướng XHCN ở nước ta đã, đang và sẽ thường xuyên đặt ra những thách thức cùng những cơ hội phát triển cho tất cả các doanh nghiệp khác nhau, đặc biệt là các doanh nghiệp Quốc Doanh khi phấn đấu bảo đảm vai trò của chúng.
Vận hành theo cơ chế thị trường cũng đồng thời có nghĩa là các doanh nghiệp phải tuân thủ một cách nghiêm ngặt các quy luật khách quan của thị trường, trong đó có quy luật cạnh tranh - động lực của thị trường. Hậu quả tất yếu của động thái cạnh tranh này là một nhóm các doanh nghiệp do không hoà nhập hoặc xác lập không đúng các thủ pháp cạnh tranh nên bị suy thoái, thậm chí phá sản và bị gạt ra khỏi thị trường; Một nhóm các doanh nghiệp khác thích ứng được và vận dụng được đồng bộ các thủ pháp cạnh tranh hợp lý, hữu hiệu thì không ngừng tăng trưởng và phát triển . Do vậy, các doanh nghiệp luôn phải đặt ra cho mình các mục tiêu để tồn tại và phát triển là tối đa hoá lợi nhuận. Để đạt được điều đó, vấn đề hạ thấp chi phí kinh doanh dịch vụ luôn là mục tiêu mà doanh nghiệp phải phán đấu và đạt được.
Chi phí kinh doanh của các doanh nghiệp dịch vụ biểu hiện hao phí lao động cá biệt mà doanh nghiệp phải bỏ ra trong kỳ. Đồng thời nó là căn cứ để xác định số phải bù đắp từ thu nhập của doanh nghiệp. Vì thế, trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, các doanh nghiệp luôn phải quan tâm đến việc quản lý chi phí bởi lẽ mỗi đồng chi phí không hợp lý đều làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Vấn đề quan trọng đặt ra cho những người quản lý của doanh nghiệp là phải kiểm soát được tình hình chi phí kinh doanh của doanh nghiệp, phát hiện và động viên mọi khả năng tiềm tàng trong doanh nghiệp để không ngừng giảm bớt chi phí tăng lợi nhuận nhằm đáp ứng yêu cầu tái sản xuất mở rộng và cải thiện đời sống của công nhân viên chức trong doanh nghiệp. Nhằm mục đích hoàn thiện lý luận và thực tiễn về quản lý chi phí kinh doanh, đồng thời được sự giúp đỡ của thầy giáo và các cô chú trong Công ty vận chuyển khách em đã chọn đề Tài: “Chi phí kinh doanh và các biện pháp hạ thấp chi phí kinh doanh tại Công ty vận chuyển khách 16A Nguyễn Công Trứ – Hà Nội” làm chuyên đề tốt nghiệp.
Đề tài nghiên cứu lý luận về chi phí kinh doanh dựa trên cơ sở của môn khoa học kinh tế : Tài chính doanh nghiệp, thống kê học, kinh tế chính trị, kinh tế học…kết hợp với tình hình thực tế tại Công ty vận chuyển khách để hoàn thiện quá trình quản lý chi phí kinh doanh tại Công ty, tìm ra các giải pháp nâng cao hiệu quả chi phí kinh doanh.
Mục tiêu của khoá luận tốt nghiệp này là trên cơ sở nghiên cứu, tổng kết thực trạng tình hình tài chính của doanh nghiệp trong thời gian qua, đề ra các giải pháp nhằm hạ thấp chi phí kinh doanh, nâng cao hiệu quả chi phí kinh doanh của Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Phạm vi nghiên cứu đề Tài: Chi phí kinh doanh tại Công ty vận chuyển khách 16A – Nguyễn Công Trứ – Hà Nội.
Kết cấu đề tài gồm 2 Chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận chung về chi phí kinh doanh và các giải pháp hạ thấp chi phí kinh doanh trong nền kinh tế thị trường.
Chương II: Chi phí kinh doanh và tình hình quản lý chi phí kinh doanh tại Công ty vận chuyển khách du lịch.
Chương III: Một số giải pháp chủ yếu nhằm hạ thấp chi phí kinh doanh tại công ty xe khách 16A Nuyễn Công Trứ – Hà Nội.
Chương I
Những vấn đề lý luận chung về chi phí kinh doanh
Các giải pháp hạ thấp chi phí kinh doanh trong nền kinh tế thị trường.
Khái niệm, phạm vi của chi phí kinh doanh dịch vụ.
Khái niệm chi phí kinh doanh dịch vụ.
Hoạt động kinh doanh dịch vụ là hoạt động chuyên cung cấp những sản phẩm, lao vụ phục vụ nhu cầu sinh hoạt và thoả mãn nhu cầu đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân.
Hiện nay, hoạt động kinh doanh dịch vụ rất phong phú, đa dạng. Có thể kể ra hàng loạt các ngành nghề kinh doanh dịch vụ ở nước ta như: vận tải, bưu điện, ăn uống công cộng, may mặc, sửa chữa, khách sạn du lịch, trang trí nội thất, dịch vụ mỹ phẩm… Nhưng chung quy lại thì có thể chia thành hai loại hình dịch vụ chủ yếu: Loại hình dịch vụ có tính chất sản xuất và loại hình dịch vụ đơn thuần (không có tính chất sản xuất), gắn với các hoạt động kinh doanh dịch vụ này là các khoản chi phí phát sinh tương ứng.
Đối với doanh nghiệp dịch vụ có tính chất sản xuất thực chất là doanh nghiệp vừa cung cấp sản phẩm hàng hoá, vừa đáp ứng nhu cầu về dịch vụ của khách hàng. Mục đích của doanh nghiệp này là sản xuất ra những sản phẩm nhất định và bằng những loại hình dịch vụ của mình để tiêu thụ được sản phẩm của mình ra thị trường nhằm thu được lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu này, doanh nghiệp phải bỏ ra những chi phí nhất định, đó là chi phí sản xuất, chi phí tiêu thụ sản phẩm…Ngoài ra còn có các khoản chi phí phát sinh, nếu có hoạt động đầu tư vốn ra ngoài doanh nghiệp.
Chi phí sản xuất là biểu hiện toàn bộ hao phí về tư liệu sản xuất và tiền công trả cho người lao động liên quan đến quy trình sản xuất sản phẩm mà doanh nghiệp phải chi ra trong một thời kỳ nhất định.
Chi phí tiêu thụ sản phẩm là những chi phí phát sinh trong khâu tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp như: chi phí vận chuyển, chi phí tuyên truyền, quảng cáo, chi phí bảo hành …
Các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc đầu tư vốn ra ngoài doanh nghiệp như kinh doanh, mua cổ phíếu, trái phíếu và đầu tư vào hệ thống tín dụng. Những khoản chi phí này được bù đắp bằng thu nhập của các hoạt động đó.
Chi phí kinh doanh của các doanh nghiệp mang tính chất sản xuất do các bộ phận chi phí sản xuất, chi phí tiêu thụ sản phẩm và các chi phí phát sinh do đầu tư vốn ra ngoài doanh nghiệp hợp thành, chi phí kinh doanh này được bù đắp từ thu nhập của doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp dịch vụ không có tính chất sản xuất như: cho thuê đồ dùng khách sạn du lịch…thì chi phí chủ yếu là chi phí phục vụ như: tiền lương, khấu hao trang thiết bị, đồ dùng phục vụ sinh hoạt…
Chi phí kinh doanh ở các doanh nghiệp dịch vụ không có tính chất sản xuất, chủ yếu là chi phí phục vụ khách hàng. Nếu các doanh nghiệp dịch vụ này đầu tư vốn ra ngoài doanh nghiệp cũng có thể phát sinh một số chi phí nhất định như các doanh nghiệp khác.
Như vậy, chi phí kinh doanh trong các doanh nghiệp dịch vụ là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí lao động sống (bao gồm tiền lương và các khoản trích theo lương như: BHYT, BHXH, CPCĐ), lao động vật hoá (bao gồm chi phí nhiên liệu, khấu hao tài sản cố định) và các chi phí khác trong một thời kỳ nhất định. Đồng thời nó là căn cứ để xác định số phải bù đắp từ thu nhập của doanh nghiệp. Chỉ có trên cơ sở tiết kiệm chi phí kinh doanh, bù đắp đầy đủ, kịp thời chi phí đó thì mới đủ cho doanh nghiệp mới tồn tại và phát triển được.
2.Phạm vi chi phí kinh doanh dịch vụ:
Chi phí kinh doanh là một chỉ tiêu chất lượng quan trọng phản ánh trình độ tổ chức, quản lý kinh doanh của doanh nghiệp. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Việc tiết kiệm chi phí kinh doanh còn có tác dụng góp phần cải thiện, nâng cao đời sống lao động của doanh nghiệp.
Về mặt lý luận chung thì chi phí kinh doanh dịch vụ được biểu hiện bằng tiền nhưng không phải tất cả các khoản chi bằng tiền được hạch toán vào chi phí kinh doanh. Để giúp cho việc thống nhất cách xác định tính hạch toán chi phí kinh doanh phục vụ cho công tác hạch toán cần thiết phải quy định những khoản mục chi phí nào đưa vào chi phí kinh doanh, những khoản mục chi phí nào không đưa vào chi phí kinh doanh.
Xác định rõ phạm vi chi phí kinh doanh nói chung và chi phí kinh doanh dịch vụ nói riêng sẽ làm cho công tác hạch toán kế toán và quản lý chi phí kinh doanh chính xác hơn, chặt chẽ hơn, giúp các nhà quản lý lập kế hoạch lưu chuyển hàng hoá, kế hoạch lợi nhuận một cách chính xác, khoa học.
Chi phí kinh doanh trong các doanh nghiệp dịch vụ đảm bảo yêu cầu chi phí đó phát sinh trong một thời kỳ nhất định liên quan đến quá trình hoạt động kinh doanh dịch vụ mà chúng được bù đắp từ thu nhập của doanh nghiệp, còn các chi phí khác không liên quan đến hoạt động kinh doanh dịch vụ và các nguồn vốn riêng để bù đắp thì không được phép hạch toán vào chi phí kinh doanh dịch vụ.
Theo quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với doanh nghiệp nhà nước thì không được tính vào chi phí kinh doanh khoản mục phí sau :
Chi phí đầu tư dài hạn : Là những khoản chi phí phát sinh cấn thiết để tạo ra các yếu tố của quy trình kinh doanh sản xuất theo mục tiêu đầu tư phục vụ cho những phương hướng kinh doanh sản xuất trong tương lai của doanh nghiệp . Nhóm chi phí này bao gồm : Chi phí đầu tư xây dựng cơ bản; Mua sắm tài sản cố định; Bổ sung tài sản cố định cần thiết hoặc hình thành tài sản lưu động cần thiết ban đầu; Chi phí đào tạo dài hạn đội ngũ các cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật; Chi phí nghiên cứu khoa học .
Các khoản chi về phúc lợi , xã hội của doanh nghiệp : Bao gồm chi phí về học tập, văn hoá, thể dục thể thao, y tế vệ sinh, chi phí cho tham quan nghỉ mát, chi phí cho nhà ăn, nhà trẻ, chi trợ cấp khó khăn cho người lao động.
Các khoản đã được tính vào chi phí hoạt động tài chính và hoạt động khác như các khoản lỗ do liên doanh, liên kết, lỗ từ các hoạt động đầu tư khác . ...
Các khoản thiệt hại được chính phủ trợ cấp hoặc cho phép giảm vốn và các khoản thiệt hại được bên gây thiệt hại và công ty bảo hiểm bồi thường .
Chi phí đi công tác nước ngoài vượt định mức do nhà nước quy định .
Các khoản chi mang tính chất thưởng từ quỹ tiền thưởng trích lập từ lợi nhuận sau thuế như thưởng năng suất, thưởng sáng kiến, thưởng thi đua.. .
Các khoản tiền phạt như tiền phạt vi phạm hợp đồng, vi phạm hành chính ...
Xác định đúng đắn phạm vi của chi phí kinh doanh có ý nghĩa kinh tế lớn đối với công tác quản lý chi phí kinh doanh nói riêng và quản lý kinh tế nói chung của doanh nghiệp được biểu hiện ở các mặt cơ bản sau :
Làm cơ sở cho việc tập hợp các chi phí của doanh nghiệp phát sinh trong kỳ vào chi phí kinh doanh thương mại phát sinh trong kỳ đó. Từ đó, xác định được giá vốn hàng hoá phục vụ cho chiến lược bán hàng của doanh nghiệp trong điều kiện có sự cạnh tranh mạnh mẽ trong nền kinh tế thị trường. Đồng thời là căn cứ để doanh nghiệp phải bù đắp từ doanh thu kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ đó, giúp doanh nghiệp xác định chính xác được lợi nhuận và hiệu quả kinh tế của mình.
Làm cơ sở cho doanh nghiệp phấn đấu hạ thấp chi phí kinh doanh thương mại trên cơ sở thực hiện tốt nhất kế hoạch lưu chuyển hàng hoá của mình và tăng lợi nhuận của doanh nghiệp .
Xác định đúng đắn phạm vi chi phí kinh doanh thương mại có ý nghĩa quan trọng đối với công tác lập kế hoạch, kiểm tra, phân tích kinh tế của doanh nghiệp và cơ quan thuế cũng như cấp quản lý trực tiếp tránh việc ghi tăng chi phí kinh doanh thương mại, làm sai lệch lợi nhuận của doanh nghiệp .
II. Phân loại chi phí kinh doanh dịch vụ :
Phân loại theo nội dung kinh tế :
Theo tiêu thức này chi phí được chia ra thành :
Chi phí nguyên vật liệu :
Nguyên vật liệu chính là những nguyên vật liệu sau quá trình gia công chế biến sẽ cấu thành nên thực thể vật chất chủ yếu của sản phẩm. Tuy nhiên trên thực tế , trong quá trình sản xuất nguyên vật liệu chính còn bao gồm cả bán thành phẩm mua ngoài để tiếp tục chế biến .
Vật liệu phụ là những vật liệu chỉ có tác dụng phụ trợ trong sản xuất, được sử dụng kết hợp với vật liệu chính để làm thay đổi màu sắc, hình dáng, mùi vị hay dùng để bảo quản phục vụ hoạt động của các tư liệu lao động hay phục vụ cho lao động của công nhân viên chức trong doanh nghiệp. Vật liệu phụ ở đây bao gồm có dầu nhờn, hồ keo, thuốc nhuộm, tẩy …
Nhiên liệu : Bao gồm những thứ dùng để cung cấp nhiệt lượng trong quá trình sản xuất kinh doanh như : Xăng dầu, khí đốt …
Ngoài ra, chúng ta còn có thể phân loại chi phí nguyên vật liệu thành chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nguyên vật liệu gián tiếp. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp phản ánh toàn bộ chi phí về nguyên vật liệu chính , nguyên vật liệu phụ , nhiên liệu … tham gia trực tiếp vào việc sản xuất chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao vụ , dịch vụ . Chi phí nguyên vật liệu gián tiếp là những loại vật liệu được sử dụng để kết hợp với nguyên vật liệu chính để tăng thêm chất lượng của sản phẩm cũng như vẻ đẹp bên ngoài của sản phẩm để sản phẩm đó có thể tồn tại và cạnh tranh được với các sản phẩm ngoại trên thị trường hoặc để tạo điều kiện cho quá trình sản xuất được thuận lợi. Giá trị của nguyên vật liệu bao gồm cả chi phí thu mua, vận chuyển và hao hụt định mức trong quá trình vận chuyển.
Đối với doanh nghiệp dịch vụ, chi phí vật liệu gồm cả chi phí mua ngoài và các công cụ nhỏ thuộc tài sản cố định phụ tùng thay thế mua ngoài để thay thế tài sản cố định .
Chi phí nhân công :
Bao gồm tiền lương chính, lương phụ của người lao động, công nhân viên trong doanh nghiệp do quỹ tiền lương của sản xuất kinh doanh chi trả và khoản bảo hiểm xã hội tính theo tỷ lệ phần trăm (%) theo quy đinh trên cơ sở tiền lương được hưởng
Tiền lương được tính theo lương cấp bậc, theo chức vụ, theo ngạch bậc lương, theo đúng quy định 26/CP hoặc là tiền lương tính theo kết quả hoạt động của doanh nghiệp … tiền lương trả cho công nhân trực tiếp có thể là lương khoán theo doanh thu, khoán theo khối lượng hàng hoá tiêu thụ, lương thời gian. Tuỳ từng doanh nghiệp khác nhau mà có các hình thức trả lương khác nhau cho phù hợp với tình hình và đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp.
Trả lương theo thời gian có thể kết hợp với chế độ tiền thưởng để khuyến khích người lao động hăng say làm việc; Lương tháng là tiền lương trả cho công nhân viên theo tháng hoặc theo bậc lương đã sắp xếp, người hưởng lương sẽ nhận được tiền lương theo cấp bậc và các khoản phụ cấp đều có; Lương ngày là tiền lương tính trả cho người lao động theo mức lương tháng và số ngày làm việc trong tháng .
Lương cấp bậc
Đơn giá tiền lương =
theo thời gian Số ngày lao động định mức
Lương theo thời = Đơn giá tiền lương ´ Số ngày làm việc thực tế
gian từng người
Hình thức trả lương theo thời gian đơn giản dễ tính, ít tốn thời gian tính toán và các chi phí khác phát sinh. Xong hình thưc này lại không khuyến khích người lao động tăng năng suất lao động và tăng hiệu quả công tác.
Bên cạnh chế độ tiền lương, tiền thưởng được hưởng trong quá trình sản xuất, người lao động còn được hưởng các khoản trợ cấp thuộc quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế … trong các trường hợp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động … Các quỹ này được hình thành một phần do người lao động đóng góp, phần còn lại được tính vào chi phí kinh doanh của doanh nghiệp. Quỹ bảo hiểm y tế được hình thành bằng cách trích theo tỷ lệ quy định trên tổng quỹ lương cấp bậc và các khoản phụ cấp của người lao động thực tế phát sinh trong tháng theo chế độ hiện hành; tỷ lệ trích bảo hiểm xã hội là 20% trên cơ sở quỹ lương của doanh nghiệp trong đó: 15% là do đơn vị chủ sử dụng lao động nộp được tính vào chi phí kinh doanh, 5% tiền lương do người lao động đóng góp và được trích trừ vào lương tháng của người lao động; Quỹ chi phí công đoàn được ding để hỗ trợ người lao động duy trì cho các hoạt động công đoàn trong doanh nghiệp nhằm giúp đỡ nhau phát triển chuyên môn, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người lao động và được phép trích 2% trên cơ sở quỹ tiền lương tính vào phí theo lương của bộ phận sử dụng lao động để hình thành quỹ kinh phí công đoàn (KPCĐ).
Chi phí khấu hao tài sản cố định ( TSCĐ ) :
Trong quá trình bảo quản và sử dụng, tài sản cố định luôn bị hao mòn. Hao mòn là sự giảm dần giá trị tài sản cố định do tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, do hao mòn tự nhiên và do tiến bộ của khoa học kỹ thuật …Căn cứ vào nguyên nhân gây ra sự hao mòn đó, người ta chia hao mòn tài sản cố định thành hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình.
Hao mòn hữu hình là hao mòn về vật chất do quá trình sử dụng tài sản cố định hoặc những bộ phận chi tiết của chúng không còn nguyên trạng thái ban đầu mà bị hư hỏng dần. Giá trị sử dụng chúng giảm đi theo thời gian sử dụng .
Hao mòn vô hình là do tiến bộ của khoa học kỹ thuật, khoa học kỹ thuật phát triển dẫn đến năng suất lao động tăng lên, giá thành sản xuất giảm xuống. Từ đó, trên thị trường xuất hiện những tài sản cố định mới tuy có cùng thông số kỹ thuật nhưng giá bán lại thấp hơn hay có thông số kỹ thuật tiến bộ hơn nhưng giá bán lại không cao hơn … Nói chung hao mòn vô hình liên quan đến sự mất giá của tài sản cố định và không liên quan đến sự hao mòn vật chất của nó, vì thế có những tài sản cố định do chậm đem ra sử dụng đã bị hao mòn vô hình.
Khi tài sản cố định được sử dụng vào sản xuất kinh doanh thì sự chuyển dịch giá trị hao mòn của nó vào chi phí của đối tượng sử dụng tài sản cố định được gọi là khấu hao .
Khấu hao là việc tính toán và phân bổ một cách có hệ thống nguyên giá của tài sản cố định vào chi phí kinh doanh qua thời gian sử dụng của tài sản cố định. Tuy nhiên không phải bất cứ tài sản cố định nào của doanh nghiệp cũng được phép trích khấu hao mà chỉ có những tài sản cố định có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh thì mới được phép trích khấu hao, mức trích khấu hao được hoạch toán vào chi phí kinh doanh trong kỳ .
Chi phí khấu hao là khoản tiền trích ra tài sản cố định bị hao mòn trong quá trình sử dụng dùng để tái sản xuất vốn cố định của đơn vị theo đặc điểm của sự hình thành và sử dụng quỹ khấu hao.
Việc tính khấu hao có thể tiến hành theo nhiều phương pháp khác nhau, việc lựa chọn phương pháp tính khấu hao là tuỳ thuộc vào quy định của nhà nước về chế độ quản lý tài chính đối với doanh nghiệp và yêu cầu quản lý của doanh nghiệp. . Phương pháp khấu hao được lựa chọn phải đảm bảo thu hồi vốn nhanh, đầy đủ và phù hợp với khả năng chi phí của doanh nghiệp. Trên thực tế hiện nay, phương pháp khấu hao đều theo thời gian đang được áp dụng rất phổ biến. Phương pháp này thúc đẩy doanh nghiệp nâng cao năng suất lao động, tuy nhiên theo phương pháp khấu hao này thì việc thu hồi vốn chậm không theo kịp mức hao mòn thực tế, nhất là hao mòn vô hình nên doanh nghiệp không có điều kiện để đầu tư trang bị tài sản cố định mới .
Mức khấu hao được xác định như sau :
Mức khấu hao = Nguyên giá tài ´ tỷ lệ = Nguyên giá tài
sản cố định sản cố định khấu hao sản cố định
Số năm sử dụng
bình quân năm
Nguyên giá tài sản cố định làm căn cứ tính khấu hao, là toàn bộ lượng giá trị đã đầu tư vào TSCĐ tính đến thời điểm TSCĐ chính thức phục vụ sản xuất kinh doanh bao gồm giá mua, chi phí vận chuyển, lắp đặt, chạy thử. Nguyên giá tài sản cố định là toàn bộ chi phí thực tế đã chi ra để có tài sản cố định cho tới khi đưa tài sản cố định vào hoạt động bình thường.
Nguyên giá = Giá mua + Chi phí + Chi phí lắp đặt + Chi phí khác
TSCĐ thực tế vận chuyển chạy thử
Riêng tài sản cố định tự làm không được tính tiền thưởng và lãi bằng giá trị cố định mà nguyên giá của nó phải thấp hơn hoặc bằng giá trị thị trường .
Quỹ khấu hao được trích ra với hai mục đích : Tiền khấu hao cơ bản dùng để đổi mới tài sản cố định và tiền khấu hao sửa chữa lớn dùng để khôi phục lại giá trị hao mòn tài sản cố định .
Riêng ở một số ngành, do tính chất kinh doanh có trích trước khoản trích về sửa chữa tài sản cố định và chi phí sản xuất kinh doanh, mức tính tối đa không vượt quá tỷ lệ quy định. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải làm sao xác định được khoản khấu hao hợp lý vừa để đảm bảo thu hồi vốn nhanh, vừa để đảm bảo chi phí khấu hao, không đội mức chi phí lên, làm ảnh hưởng đến tầm chi phí của doanh nghiệp. Đó là mâu thuẫn trong cùng một vấn đề đòi hỏi doanh nghiệp phải biết kết hợp hài hoà để quay nhanh vòng quay tài sản.
Chi phí dịch vụ mua ngoài :
Là các khoản chi phí mua ngoài phục vụ cho khách hàng như chi phí thuê ngoài sửa chữa tài sản cố định, tiền thuê kho, tiền thuê bốc vác, vận chuyển hàng hoá để tiêu thụ, hoa hồng cho các đại lý bán hàng, cho đơn vị nhận uỷ thác xuất khẩu …
Chi phí =Trọng lượng hàng hoá ´ quãng đường ´ Đơn giá
vận chuyển phải tính cước vận chuyển vận chuyển
bình quân
Cước phí vận chuyển là khoản chi trả cước phí vận chuyển thuê ngoài và toàn b