Đề tài Chiến dịch Tây Nguyên: Hoàn cảnh lịch sử, diễn biến và ý nghĩa thắng lợi

Để có được cuộc sống độc lập, ấm no, hạnh phúc như ngày hôm nay nhân dân ta đã trải qua biết bao nhiêu thăng trầm, biến cố, đã hi sinh biết bao xương máu Chính vì thế là người dân nước Việt chúng tôi tự hào về những trang sử vàng của dân tộc ta. Khao khát tìm hiểu về lịch sử dân tộc đã dẫn đưa chúng tôi đến với chiến dịch Tây Nguyên một trong những bước ngoặt lớn trong lịch sử đấu tranh giữ nước của Việt Nam chúng ta.

doc18 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 6636 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Chiến dịch Tây Nguyên: Hoàn cảnh lịch sử, diễn biến và ý nghĩa thắng lợi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A – PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Để có được cuộc sống độc lập, ấm no, hạnh phúc như ngày hôm nay nhân dân ta đã trải qua biết bao nhiêu thăng trầm, biến cố, đã hi sinh biết bao xương máu…Chính vì thế là người dân nước Việt chúng tôi tự hào về những trang sử vàng của dân tộc ta. Khao khát tìm hiểu về lịch sử dân tộc đã dẫn đưa chúng tôi đến với chiến dịch Tây Nguyên một trong những bước ngoặt lớn trong lịch sử đấu tranh giữ nước của Việt Nam chúng ta. 2. Mục đích yêu cầu Hòa cùng không khí chào mừng 33 năm ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng thống nhất đất nước, chúng tôi, những sinh viên trường ĐH Công Nghiệp dưới sự chỉ dẫn nhiệt tình của thầy Nguyễn Minh Tiến Khoa Mác Lênin đã nghiên cứu đề tài này nhằm trang bị cho chúng tôi vốn kiến thức về lịch sử dân tộc và phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết của nhân dân ta. 3. Nội dung đề tài Tây Nguyên là một địa bàn chiến lược hết quan trọng, mà cả ta và địch đều cố gắng nắm giữ. Nhưng do nhận định sai lầm hướng tiến công của quân ta, địch chốt giữ ở đây một lực lượng mỏng, bố phòng có nhiều cơ sở. Căn cứ vào đó, Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10-1974, quyết định chọn Tây Nguyên làm hướng tiến công chủ yếu trong năm 1975, mở chiến dịch quy mô lớn ở Tây Nguyên với trận then chốt mở màn Buôn Mê Thuột.Quân địch tập trung lực lượng mở cuộc phản công nhằm chiếm lại Buôn Mê Thuột.Nhưng các cuộc phản công của chúng đều bị đánh tan. Sau hai đòn đau ở Buôn Mê Thuột, quân địch mất tinh thần, hàng ngũ chúng rối loạn, từ đó làm nảy sinh nhưg4 sai lầm lớn về chiến lược.Ngày 16.3, quân ta được lệnh đánh chặn và truy kích địch trên đường chúng rút khỏi Tây Nguyên.Chiến dịch Tây Nguyên thắng lợi đã chuyển cuộc chiến chống Mĩ cứu nước sang giai đoạn mới :từ cuộc tiến công chiến lược phát triển thành cuộc tổng tiến công chiến lược trên toàn chiến trường Miền Nam. B – NỘI DUNG 1. Hoàn cảnh lịch sử Sau hiệp định pari 1973, trong hoàn cảnh Miền Bắc trở lại hoà bình, bọn xâm lược buộc phải rút khỏi nước ta làm cho so sánh lực lượng ở Miền Nam thay đổi có lợi cho cách mạng, Miền Bắc có thêm những diều kiện thuận lợi để khắc phục hậu quả chiến tranh, đẩy mạnh sản xuất và ra sức chi viện cho tiền tuyến. Với Hiệp định Pari về Việt Nam, ta đã “đánh cho Mĩ cút” mà vẫn chưa “đánh cho ngụy nhào”. Mĩ còn duy trì được chính quyền tay sai ở Miền Nam, chúng lập ra bộ chỉ huy quân sự trá hình , tiếp tục viện trợ quân sự, kinh tế cho ngụy. Chúng huy động lực lượng tiếp tục chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” chống lại cách mạng. Mặc dù chúng ta thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định, nhưng do phía địch phá hoại trắng trợn, có hệ thống, chúng ta buộc phải đấu tranh kiên quyết để bảo vệ hiệp định, bảo vệ thành quả cách mạng đã giành được, tiếp tục đưa sự nghiệp chống Mĩ cứu nước đến thắng lợi. 2. Diễn biến 2.1. So sánh lực lượng trên chiến trường Tây Nguyên 2.1.1. Lực lượng trên chiến trường : Phương án tiến công chiến dịch Tây Nguyên của Quân ủy Trung ương Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) chỉ rõ: lấynam Tây Nguyên làm trận đột phá, và thị xã Ban Mê Thuột là trận then chốt. Để thực hiện chiến dịch, bên cạnhcác sư đoàn 320, 10, và 968 hiện đóng sẵn ở Tây Nguyên, cuối tháng 12 năm 1974, Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam điều thêm 316 lên Tây Nguyên, đưa lực lượng của họ tại đây lên bốn sư đoàn, và các lữ đoàn, trung đoàn độc lập của bộ binh, pháo binh, thiết giáp, đặc công, phòng không, công binh ... Và chưa kể sư đoàn 3 của quân khu 5 tại Bình Địnhđánh chia cắt đường 19 và tấn công sư đoàn 22 Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH) không cho ứng cứu để phục vụ trực tiếp chiến dịch này.Tại Tây Nguyên, lực lượng phòng thủ của VNCH gồm có Sư đoàn 23 Bộ binh Việt Nam Cộng hòa (gồm 3 trung đoàn 44, 45, 53), bảy liên đoàn biệt động quân (tương đương 10 trung đoàn), 4 thiết đoàn, 1 sư đoàn không quân số 6, ngoài ra còn các tiểu đoàn bảo an đồn trú. Do phán đoán sai, cho rằng vùng Bắc Tây Nguyên là nơi sẽ bị đánh đầu tiên, nên hầu hết lực lượng của họ bố trí tại bắc phần Tây Nguyên để bảo vệ các thị xã Pleiku và Kon Tum trong khi Nam phần với thị xã Ban Mê Thuột có vai trò trụ cột phòng thủ Tây Nguyên lại chỉ có sở chỉ huy Sư đoàn 23, một trung đoàn số 53, 3 liên đoàn bảo an, và một liên đoàn biệt động quân số 21.ính trên toàn mặt trận Tây Nguyên, so với lực lượng QLVNCH, lực lượng bộ binh QĐNDVN không hơn nhiều. Nhưng do phần lớn quân phòng thủ chốt tại phía Bắc trong khi quân tấn công tập trung ở phía Nam, nên tại điểm quyết chiến Ban Mê Thuột, ưu thế của quân tấn công so với quân phòng thủ có tỉ lệ áp đảo: bộ binh 5:1, thiết giáp 2:1, pháo lớn 2:1[2], cho họ khả năng thắng lợi chớp nhoáng không cho phép địch cầm cự lâu dài chờ quân phản kích ứng cứu. Và thực tế đã diễn ra như vậy. 2.1.2. Bố trí lực lượng trên chiến trường Kể đến là kế hoạch chuẩn bị trực-tiếp được tiến hàng vào ngày 21 tháng 1 năm 1975. Trong phần này, Bộ Tư Lệnh Chiến Dịch hoàn chỉnh thêm vài bước khác như tiếp tục các hoạt động nghi binh và tái phối trí các đơn vị theo từng vùng cho mỗi nhiệm vụ. Tại vùng hoạt động gần Ban Mê Thuột gồm có các thành phần sau đây: Sư Đoàn 316 , Trung Đoàn 95B , Trung Đoàn 24 (thiếu một tiểu đoàn) , Tiểu Đoàn 21 (thuộc Đoàn 559) Trung Đoàn Đặc Công 198 , Tiểu Đoàn Đặc Công 27 , Trung Đoàn Thiết Giáp 273 (thiếu một tiểu đoàn) Trung Đoàn Pháo Binh 40 và 675 ,Trung Đoàn Phòng Không 232 và 234 Trung Đoàn Công Binh 7 và 575,Lực lượng vũ trang tỉnh Darlac.Tại vùng hoạt động gần Đức Lập, Quảng Đức, gồm có: Sư Ðoàn 10 (thiếu Trung Đoàn 24) , Trung Đoàn 271 , Một tiểu đoàn pháo binh thuộc Trung Đoàn Pháo 40 , Tiểu Đoàn Đặc Công 14. Thêm vào đó, các vùng hoạt động chế ngự những quốc lộ trên vùng Tây Nguyên bao gồm các lực lượng như sau: Sư Đoàn 320 phụ trách mặt trận đường 14, Sư Đoàn 3 (thiếu một trung đoàn) ở Bình Khê và Trung Đoàn 95A ở Lay Pon phụ trách mặt trận đường 19, Sư Đoàn 968 phụ trách mặt trận tấn công từ hướng Kontum và Pleiku (cộng với lực lượng nhân dân vũ-trang trong hai tỉnh này) ,Trung Đoàn 25 phụ trách mặt trận đường 21.Ngày 23 tháng 2 năm 1975 Đại Tướng Văn Tiến Dũng, nguyên đại diện cho Bộ Tổng Tư Lệnh, đã chánh thức phê chuẩn kế hoạch của Bộ Tư Lệnh Chiến Dịch Tây Nguyên. Đến đây, mọi công tác đã được chuẩn bị kỹ càng. Ngày 4 tháng 3, chiến dịch Tây Nguyên chính thức bắt đầu. Từ ngày 4 đến ngày 9 tháng 3, quân đội tổ chức cuộc nghi binh, khai triển đội hình, tạo điều kiện đánh Ban Mê Thuột. 2.2.Tiến công Buôn Ma Thuột 2.2.1. Đánh chiếm thị xã Buôn Mê Thuột, đòn điểm trúng huyệt làm đảo lộn thế trận Từ ngày 5 đến 8-3, sau khi quân giải phóng bǎm nát các tuyến đường giao thông quân sự 19, 14, 21, thì các cǎn cứ địch ở Tây Nguyên lâm vào thế bị bao vây chia cắt. Báo Mỹ tuần tin tức 7-4-1975 nhận xét:" Trong cuộc chiến đấu này, chính bằng cách cắt đường sá mà Việt cộng đã gây ra nhiều tác hại nhất cho quân đội Nam Việt Nam" (quân nguỵ). Sau trận diệt chi khu quân sự và quận lỵ Thuần Mẫn thuộc Phú Bổn (ngày 8-3) nằm trên đường 14 ở quãng giữa Plây Cu và Buôn Mê Thuột, địch phán đoán rằng đối phương sẽ đánh Plây Cu. Những ngày này các chiến sĩ pháo binh tới tấp giội bão lửa xuống sân bay Cù Hanh nằm trong thị xã Plây Cu. Địch vội vàng điều phần lớn sư đoàn 23 từ Buôn Mê Thuột lên,  cùng các liên đoàn quân biệt động, các trung đoàn thiết giáp hình thành một vành đai bảo vệ quanh Plây Cu, nơi đặt sở chỉ huy của quân đoàn 2.Trong lúc địch đang tập trung quân bảo vệ Plây Cu thì sáng ngày 10-3, quân và dân Tây Nguyên bất thần tiến công và nổi dậy ở thị xã Buôn Mê Thuột. Sau hai ngày chiến đấu, đã nhanh chóng tiêu diệt các cǎn cứ quân sự địch và làm chủ hoàn toàn thị xã Buôn Mê Thuột.Chiến thắng Buôn Mê Thuột thể hiện sự chỉ đạo tác chiến rất tài giỏi. Bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng đã buộc địch phải tập trung lực lượng về để bảo vệ khu vực Plây Cu, điều sư đoàn 23 là sư đoàn chủ lực duy nhất ở Tây Nguyên rời khỏi Buôn Mê Thuột, tạo nên sơ hở lớn ở đây. Trận thắng tiêu diệt địch giải phóng Buôn Mê Thuột là đòn hiểm đúng huyệt, làm rung chuyển toàn bộ hệ thống phòng thủ Tây Nguyên, khiến cho quân địch hết sức bất ngờ choáng váng, thế trận bị đảo lộn dẫn đến sụp đổ nhanh chóng. 2.2.2. Đập tan cuộc phản kích tiêu diệt sư đoàn 23 ngụy. Mất Buôn Mê Thuột. Địch hoang mang hoảng hốt. Mỹ - Thiệu lệnh cho Phạm Vǎn Phú phải lấy lại Buôn Mê Thuột. Chúng cấp tốc đẩy sư đoàn 23 từ Plây Cu xuống Đắc Lắc, tǎng cường thêm trung đoàn thiết giáp số 8, liên đoàn biệt động số 22. liên đoàn bảo an số 926 cùng nhiều tiểu đoàn bảo an khác. Chúng chọn Phước An trên đường 21 cách Buôn Mê Thuột 40km về phía đông làm bàn đạp phản kích. Buôn Mê Thuột đã về tay cách mạng mà đài Sài Gòn vẫn ra rả :" Cuộc chiến đấu còn tiếp diễn trên đường phố". Đây vừa là đòn tâm lý vừa là mưu đồ tái chiếm Buôn Mê Thuột của Mỹ - Thiệu.Bộ chỉ huy mặt trận Tây Nguyên hạ quyết tâm đập tan cuộc phản kích tiêu diệt toàn bộ quân địch ở đây. Mệnh lệnh vừa truyền xuống, lập tức các đơn vị Quân giải phóng, áp sát địch nhanh chóng đánh chiếm cǎn cứ trung đoàn 45 chi khu quân sự và quận lỵ Phước An, khống chế các điểm mà quân địch có thể làm bàn đạp phản kích.Với tinh thần kiên quyết tiến công, bộ đội giải phóng Tây Nguyên đã hạ quyết tâm nhanh, kịp thời cơ động lực lượng nhanh chóng đánh địch khi chúng dừng chân chưa vững. Các chiến sĩ giải phóng đã hình thành nhiều mũi, nhiều hướng áp đảo địch ngay từ lúc đầu, hình thành thế bao vây, chia cắt địch, vừa đánh quân địch ở ngoài công sự, vừa tiến công địch ở cǎn cứ. Do vậy, đã bẻ gẫy hoàn toàn kế hoạch phản kích của chúng. Từ 13 đến 16-3-1975, các chiến sĩ giải phóng đã chiến đấu rất dũng cảm, mưu trí, tiêu diệt sư đoàn 23 và toàn bộ quân địch ở Phước An, đập tan cuộc phản kích của chúng. Hãng Ap phải đưa tin: "Thất bại đầu tiên ở Tây Nguyên làm cho sư đoàn 23 bị diệt chỉ còn 37 tên sống sót trong số 13.000 quân lính của sư đoàn này. Một liên đoàn biệt động quân gồm 1.600 người cũng chỉ còn lại 35 người sống sót". Chiến thắng ở Phước An đã khiến cho bọn địch còn lại ở Tây Nguyên hoảng hốt khiếp đảm, buộc chúng phải đi đến một quyết định bi đát là rút chạy khỏi toàn bộ các tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Phú Bổn. (Phụ lục 1) 2.2.3. Chặn đánh địch tháo chạy trên đường số 7. Trước nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn, ngày 27-3 bọn dịch còn Tây Nguyên hoảng hốt rút chạy khỏi Công Tum, Play Cu, theo đường số 7 qua Hậu Bổn về Tuy Hoà (Phú Yên). Bọn tháo chạy bao gồm 5 liên  đoàn quân biệt động. Hai trung đoàn thiết giáp một số tiểu đoàn bộ binh, pháo binh cùng toàn bộ lực lượng đia phương quân.  Tên đại tá Phạm Duy Tất được Mỹ - Thiệu nhấc lên chuẩn tướng để chỉ huy việc rút chạy này. Các hãng thông tin và báo chí phương tây đã mô tả :" Cuộc kéo chạy của quân Sài Gòn kéo dài tới 300 km", "Đây là cuộc tháo chạy lớn nhất, hoảng hốt nhất trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam", " Sự kiện rút chạy này chắc chắn sẽ ảnh hưởng sâu sắc đến tinh thần vốn đã thấp kém của quân (nguỵ) Nam Việt Nam".Một lần nữa, bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang giải phóng đã nắm chắc ý đồ địch "bỏ Tây Nguyên". Một số đơn vị đã được lệnh gấp rút hành quân chặn đánh địch. Thế là cuộc chiến đấu đánh địch tháo chạy trên đường số 7 đã diễn ra quyết liệt, liên tục trong 7 ngày từ 17 đến 23-3-1975, từ Hậu Bổn đến Phú Túc. Các lượng vũ trang nhân dân giải phóng diệt và làm tan rã hơn 7.000 tên, thu 740 xe quân sự và gần 100 đại bác.Đây là một trận đánh tiêu diệt địch trên đường giao thông quy mô lớn, phạm vi rộng, Các đơn vị lực lượng vũ trang giải phóng nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh của Bộ chỉ huy, nhanh chóng vận động chặn đánh địch rút chạy. Các đơn vị đã xé đội hình chúng ra thành từng mảng để tiêu diệt. Thừa thắng, các chiến sĩ giải phóng diệt cả bọn địch ở thị xã Hậu Bổn, hỗ trợ nhân dân nổi dậy giải phóng toàn bộ tỉnh Phú Bổn.Địch hy vọng tháo chạy để bảo toàn lực lượng nhưng không thoát. Kế hoạch rút quân Tây Nguyên về co cụm ở ven biển miền Trung bị đập vỡ. Cuộc rút lui chiến lược mà Nguyễn Vǎn Thiệu gọi là "di tản chiến thuật" đã biến thành một cuộc tháo chạy hoảng loạn, dẫn tới một kết quả bi thảm là toàn bộ lực lượng quân nguỵ ở Tây Nguyên bị tiêu diệt và tan rã.Quân và dân Tây Nguyên đã phát huy truyền thống cách mạng kiên cường, bất khuất, đồng loạt tiến công và nổi dậy mạnh mẽ, đã quét sạch toàn bộ lực lượng quân sự, đập tan bộ máy kìm kẹp của địch giải phóng hoàn toàn 4 tỉnh Công Tum, Plây Cu, Đắc Lắc, Phú Bổn với hơn 60 vạn đồng bào các dân tộc. Quân và dân Tây Nguyên đã loại khỏi vòng chiến đấu gần 12 vạn tên địch, tiêu diệt sư đoàn bộ binh số 23, 5 liên đoàn quân biệt động, 4 trung đoàn thiết giáp, 8 tiểu đoàn pháo; diệt và làm tan rã 3 liên đoàn, 24 tiểu đoàn bảo an, 485 trung đội dân vệ, thu 1.250 xe quân sự, 110 đại bác, hàng vạn tấn vũ khí, đạn được và phương tiện chiến tranh. 2.3. Bước ngoặc phản chiến 1975. Buôn Ma Thuột, ngày 11/3/1975. Trận đánh mở màn cho cú điểm "tử huyệt" Tây Nguyên, là kết quả tính toán thận trọng và táo báo của những nhà lãnh đạo Việt NamMất căn cứ cơ bản trụ cột phòng thủ cao nguyên mà trong tay không còn lực lượng dự bị cơ động nào khả dĩ nào để có thể xoay chuyển tình thế. Hai sư đoàn dự bị chiến lược là sư đoàn Dù và Thuỷ quân lục chiến là quá ít và chính họ cũng đang bị uy hiếp dính chặt ở quân khu 1 như các đơn vị đồn trú. Đến ngay như việc trước đó khoảng 2 tháng mất tỉnh Phước Long cách Sài Gòn chỉ khoảng 100 km mà quân Ngụy quân cũng không còn lực lượng để tái chiếm. Quân đội Ngụy quân không còn lực lượng để chiến đấu dài hơi được nữa. Điều đó cho thấy tình thế rất bị bó buộc của quân đội Việt Nam Cộng hoà. Thêm nữa các lực lượng tại bắc Tây Nguyên đang chịu nguy cơ bị tấn công tiêu diệt, Tổng thống Ngụy quyền quyết định bỏ Tây Nguyên rút các lực lượng còn lại về cố thủ dải đồng bằng ven biển miền Trung. Tuyến hành quân sẽ là theo đường 14 từ Pleiku đi xuống phía nam sau đó rẽ vào đường 7 đã bỏ từ lâu và xuôi về thị xã Tuy Hoà tỉnh Phú Yên. Mệnh lệnh này được ban ra bằng lời sau cuộc họp của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tại Nha Trang với Tổng Tham mưu trưởng và Tư lệnh quân khu 2. Đây sẽ là thảm hoạ chết người cho quân Ngụy. Quyết định này có lẽ là hệ quả tất nhiên của tình trạng suy kiệt lực lượng của Ngụy quân lúc đó.(Phụ lục 2) Quân phòng thủ Bắc Tây Nguyên chỉ có 2-3 ngày để chuẩn bị cuộc hành quân. Thực tế cuộc hành quân này không có kế hoạch, không có yểm trợ và phó mặc tất cả vào sự may rủi của số phận. Một lực lượng quân hàng vạn người chuẩn bị trong 2-3 ngày, đi hàng trăm km không có yểm trợ với tinh thần chiến đấu xuống rất thấp sau khi Ban Mê Thuột thất thủ, và đặc biệt họ đi cùng gia đình và dân chạy nạn tất cả đã làm cho cuộc hành quân thành đoàn xe cộ khổng lồ ùn tắc không đội hình, không tổ chức, không thể chỉ huy và chiến đấu được.Khi được tin quân Ngụy quân bỏ Tây Nguyên Bộ chỉ huy quân Quân Giải phóng tại Tây Nguyên ra lệnh cho sư đoàn 320 đang phong toả đường 14 đuổi theo. Bộ phận đi đầu của đơn vị này chạy đua, tắt núi đón đầu và kịp chặn đường tại bên ngoài thị xã Cheo Reo tỉnh Phú Bổn. Chỉ một lực lượng rất nhỏ quân Ngụy quân đi thoát còn toàn bộ đoàn quân và dân chạy nạn đã bị tan rã không tổ chức lại được nữa.Kế hoạch di tản của Ngụy quân đã không cứu được lực lượng quân bố phòng Tây Nguyên, Tây Nguyên mất vào tay quân GPMN mà đặc biệt nó làm thành làn sóng hoảng loạn lan khắp mọi nơi làm tan rã tinh thần các binh sĩ trên toàn quốc. Quân đội Ngụy quân bắt đầu tan rã nhanh chóng và sụp đổ. Tóm lại, chiến dịch Tây Nguyên kết thúc thắng lợi tạo điều kiện cho quân và dân ta thừa thắng xông lên, chiến dịch nối tiếp chiến dịch. Sau chiến dịch Tây Nguyên là đến chiến dịch huế - Đà Nẵng và cuối cùng là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nh6n dân ta quyết tâm giải phóng miền Nam thồng nhất đất nước trong mùa xuân này ( mùa Xuân năm 1975). 3.Kết quả và ý nghĩa lịch sử 3.1.Kết quả: Kết quả, ta đã gây thiệt hại và làm tan rã Quân Ðoàn 2/Quân Khu 2 của Việt Nam Cộng Hòa cùng một bộ phận cơ-động chiến lược của họ. Ta tiêu diệt Sư Ðoàn 22 và 23, Lữ Ðoàn 3 Nhảy Dù, 8 liên đoàn Biệt Ðộng Quân, một liên đoàn công binh, 4 thiết đoàn thiết giáp, 10 tiểu đoàn pháo binh, đánh thiệt hại nặng Sư Ðoàn 6 Không Quân, gây thiệt hại và làm tan rã 7 tiểu khu, 26 chi khu, 50 tiểu đoàn và 51 đại đội Bảo An cùng toàn bộ lực lượng cảnh sát, dân vệ và phòng vệ dân sự trong 7 tỉnh. Loại khỏi vòng chiến đấu hơn 20,000 lính VNCH, thu và phá hủy 154 máy bay, 1,096 xe, 17,188 khẩu súng cùng toàn bộ các cơ sở hậu cần kỹ thuật của địch ở Tây Nguyên. Ta chiếm được 5 tỉnh: Kontum, Gia Lai, Darlac, Phú Bổn, và Quảng Đức. 3.2. Nguyên nhân thắng lợi Chiến thắng Tây Nguyên - Sức mạnh của tinh thần đoàn kết quân dân đoàn kết dân tộc: Các dân tộc Việt Nam rất tự hào với truyền thống văn hóa và đấu tranh chống xâm lược rất lâu đời trong lịch sử của dân tộc.Trong suốt thời kì đấu tranh giải phóng dân tộc,Nhân dân Tây Nguyên đã kiên cường bất khuất cầm vũ khí phối hợp cùng với bộ đội đánh giặc giữ buôn làng và chính họ cũng là hậu phương vững chắc, tích cực sản xuất lương thực,đi dân công, làm đường, gùi đạn, đào hầm; cung cấp tình hình địch và dẫn đường cho bộ đội… Sự gắn bó với cách mạng, tình đoàn kết quân dân ở Tây Nguyên đã thấm sâu và trở thành niềm tự hào và nghĩa vụ của mỗi người dân không phân biệt già trẻ, gái trai. Tình cảm quân dân gắn bó đó đã trở thành một sức mạnh vô cùng to lớn để quân và dân Tây Nguyên vượt qua muôn vàn khó khăn, từng bước đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.Ba mươi năm kháng chiến cho ngày chiến thắng 30/4/1975, là thời kỳ quân và dân cả nước cũng như quân dân Tây Nguyên chiến đấu rất oanh liệt, thắng lợi rất vẻ vang, tích lũy được nhiều kinh nghiệm quý báu. Đó là những bài học lịch sử về đường lối kháng chiến đúng đắn ‘toàn dân, toàn diện, lâu dài” do Đảng và Hồ Chủ Tịch đã đề ra; về phương hướng, phát triển đấu tranh từng bước từ thấp đến cao, từ đấu tranh chính trị đến đấu tranh vũ trang; chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng các đoàn thể nhân dân; phát động cuộc chiến tranh nhân dân 3 thứ quân; xây dựng hậu phương trực tiếp cho mỗi cấp, mỗi vùng; xây dựng căn cứ địa nhất là về chính trị, nâng cao giác ngộ quần chúng, đào tạo cán bộ địa phương và xây dựng Đảng bộ địa phương vững mạnh là vấn đề mấu chốt biến đường lối, chủ trương của Đảng thành hiện thực thắng lợi. Những bài học lịch sử về đoàn kết và phát huy sức mạnh đại đoàn kết các dân tộc trong kháng chiến vẫn còn nguyên giá trị thực tiễn to lớn trong sự nghiệp xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốcMối quan hệ gắn bó nhân dân ba nước Việt Nam ,Lào ,Campuchia đã có từ lâu tong lịch sử và được thử thách trong ngọn lửa cách mạng chống ẻ thù chung. Tinh thần đoàn kết và liên minh chiến đấu giữa ba dân tộc đã tạo ra sức mạnh to lớn cho các lực lượng cách mạng chung Đông Dương và cho lực lượng cách mạng từng nước ở Đông Dương. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta được sự ủng hộ và giúp đỡ to lớn, có hiệu quả của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác, lại được sự đồng tình và ủng hộ mạnh mẽ của phong trào giải phóng dân tộc. Sự lãnh đạo tài tình của Đảng và nhà nước .Kết hợp với cách đánh phối hợp trong lẫn ngoài của quân ta . Đó là toàn bộ những nhân tố tạo sức mạnh, bảo đảm cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đi đến thắng lợi hoàn toàn. 3.3.Ý nghĩa lịch sử Thắng lợi rất to lớn của Tây Nguyên là thắng lợi của sự chỉ đạo chiến lược, chiến dịch rất tài tình sáng tạo; thể hiện chất lượng chiến đấu cao, sức mạnh chiến đấu lớn của các lực lượng vũ trang giải phóng; là thắng lợi của cả 3 mũi tiến công quân sự, nổi dậy của quần chúng và vận động binh sĩ địch; là kết quả của sự hiệp đồng chặt chẽ giữa các hướng trong chiến dịch. Chiến thắng Tây Nguyên mở ra một cục diện hết sức tốt đẹp tạo nên thời cơ mới vô cùng thuận lợi cho quân và dân miền Nam xốc tới tiến công và nổi dậy thần tốc, mãnh liệt liên tiếp tiêu diệt các lực lượng sừng sỏ của địch, giải phóng toàn bộ vùng đồng bằng ven biển chiến lược miền Trung, lập nên thắng lợi cực kỳ to lớn của miền Nam anh hùng. C – KẾT LUẬN 1. Kết quả nghiên cứu : Hiểu được quá trình đấu tranh giành chính quyền của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn qua đó ra được nguyên nhân thắng lợi,bài học kinh ng
Tài liệu liên quan