Chiến lược là gì? Thực ra có rất nhiều các nhà quản lý các doanh nghiệp đến nay vẫn không nhận thức rõ được thực ra một Chiến lược cho Công ty mình là gì? Tác dụng của "Chiến lược đối sự phát triển của Công ty mình như thế nào."Thuật ngữ “Chiến lược” thực ra trước đây được dùng cho lĩnh vực quân sự. Nó là sự phối hợp giữa các nguồn nhân lực và tài lực để phục vụ cho môt mục đích quân sự mà người lãnh đạo đưa ra.
54 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1406 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chiến lược kinh doanh của công ty xuất nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ARTEXPORT Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nội dung
Chương I
Lý luận chung về chiến lược phát triển trong công ty.
I/ Khái niệm chung về chiến lược trong công ty.
1/ Khái niệm chung về "Chiến lược" trong kinh doanh.
Chiến lược là gì? Thực ra có rất nhiều các nhà quản lý các doanh nghiệp đến nay vẫn không nhận thức rõ được thực ra một Chiến lược cho Công ty mình là gì? Tác dụng của "Chiến lược đối sự phát triển của Công ty mình như thế nào."Thuật ngữ “Chiến lược” thực ra trước đây được dùng cho lĩnh vực quân sự. Nó là sự phối hợp giữa các nguồn nhân lực và tài lực để phục vụ cho môt mục đích quân sự mà người lãnh đạo đưa ra. Ngày nay thuật ngữ “Chiến lược”được dùng trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Nó chính là công cụ hay nói cách khác nó là một biến hình của công tác kế hoạch sản xuất kinh doanh. Như vậy "Chiến lược kinh doanh" là một thuật ngữ được các nhà quản trị doanh nghiệp gọi là “Việc xác định những con dường và những phương tiện vận dụng để đi đến các mục tiêu đã thông qua của chính sách”(Theo General – Alileret, nhà kinh tế học người Pháp)? Vậy Chiến lược chính là việc đưa ra các đường lối chính sách để các doanh nghiệp đi đến mục tiêu của mình.
Một cách tiếp cận khác, chiến lược là phương tiện để các doanh nghiệp trả lời câu hỏi: “Chúng ta muốn đi đến đâu; Chúng ta có thể đi đến đâu và chúng ta đi đến đó như thế nào; Chúng ta có những gì và người khác có những gì?”
Như vậy chiến lược là một chương trình tổng quát đưa doanh nghiệp hướng tới mục tiêu cụ thể. Chiến lược vạch ra một bức tranh rõ ràng về con đường đi tới mục tiêu, chiến lược chỉ rõ các nguồn lực phải có và tổ chức các nguồn lực để đạt được mục tiêu và các chính sách cần đưa ra …Qua đó ta thấy được sự không thể thiếu được các chiến lược phát triển trong các doanh nghiệp hiện nay.
2/ Vai trò của công tác kế hoạch hoá trong nền kinh tế thị trường.
Sự chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước đặt ra nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn cần phải nghiên cứu và giải quyết, một trong những vấn đề đó là công tác kế hoạch hoá. Trong những năm chuyển đổi vừa qua, có không ít những ý kiến khác nhau về tầm quan trọng của công tác kế hoạch hoá, những ý kiến này không những không thống nhất với nhau mà thậm chí còn trái ngược nhau.
+Một số thì cho rằng trong nền kinh tế thị trường sẽ không còn chỗ đứng cho công tác kế hoạch hoá, công tác này chỉ thích hợp khi nền kinh tế còn hoạt dộng theo cơ chế kế hoạch tập trung.
+ Một số khác lại cho rằng: Giờ đây khi cơ chế thị trường trực tiếp hướng dẫn và điều tiết cho nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng thì kế hoạch hoá vẫn phải tồn tại như là một khâu trong những yếu tố cấu thành của cơ chế quản lý. Khi môi trường và điều kiện hoạt động thay đổi, cùng với sự thay đổi khác của cơ chế kinh tế thì công cụ kế hoạch hoá cũng cần được nghiên cứu và thay đổi.
Những bài học thực tiễn trong cơ chế cũ cũng không phải là ít, với cơ chế điều hành cứng nhắc từ trên xuống dưới thể hiện qua các chỉ tiêu pháp lệnh thông qua hệ thống các kế hoạch hoá pháp lệnh đã để lại một sự ăn mòn trong công tác xây dựng kế hoạch sản xuất của công ty mà cho đến nay vẫn chưa xoá nhoà được. Hậu quả của cơ chế dẫn đến doanh nghiệp không biết đến thị trường, và do đó hoạt động của sản xuất kinh doanh không biết đến nhu cầu của người tiêu dùng, hoạt động sản xuất kinh doanh chỉ làm theo chỉ tiêu pháp lệnh mà không cần biết đến hiệu quả kinh tế. Trong khi đó cơ chế thị trường có sự cạnh tranh gay gắt giữa các đơn vị kinh tế thị hiệu quả phải là mục tiêu hàng đầu, phải là mục tiêu bao trùm các mục tiêu khác. Kế hoạch đề ra cho doanh nghiệp định hình được hướng đi trong những năm sắp tới, nó không chỉ quan tâm đến vấn đề tài chính mà nó còn quan tâm đến vấn đề thị trường, nơi bán hàng … và những thay đổi có thể xảy ra. Ngoài ra kế hoạch còn là các cơ sở để các tổ chức tín dụng xem xét xem có cho công ty vay vốn để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh hay không bời vì qua bản kế hoạch công ty sẽ cho các tổ chức tín dụng thấy được tương lai của mình. Do đó công tác kế hoạch hoá thực sự rất có ý nghĩa đối với các tổ chức kinh tế.
Thực tế trong hoạt động quản lý doanh nghiệp trong những năm vừa qua đã đem lại những bài học quý giá rằng nếu coi thường các yêu cầu của công tác kế hoạch, phương thức hoạch toán kinh doanh, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ sẽ dẫn đến những cách nhình tuỳ tiện thiếu kỷ cương, mạnh ai lấy làm không kiểm soát hết được. Thực tế này đã dẫn đến một thực trạng trong thiếu ổn định trong công tác quản lý kế hoạch hoá doanh nghiệp: khi thì dân chủ dẫn đến tình trạng quá trớn, khi thì quá gò bó dẫ đến kém linh hoạt.
Qua đó ta thấy kế hoạch hoá có một ý nghĩa rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của một Công ty. Để thực hiện được các mục tiêu của kế hoạch sản xuất kinh doanh đề ra thì nhất thiết ta phải có một "Chiến lược kinh doanh" phù hợp với tình hình chung của Công ty. Mỗi Công ty sẽ tìm cho mình một hướng đi riêng, nếu hướng đi đó phù hợp với thực trạng của Công ty và đáp ứng được yêu cầu của thị trường thì Công ty đó sẽ thành công và ngược lại nếu không thích hợp thì Công ty sẽ bị đào thải. Đây chính là vấn đề lý giải tại sao có những Công ty đã rất thành công trong sự cạnh tranh gay gắt của cơ chế thị trường và có những Công ty lại bị đào thải.
Như vậy "Chiến lược kinh doanh" là một công cụ không thể thiếu trong sự tồn tại và phát triển của bất kỳ một tổ chức kinh tế hay một công ty xí nghiệp… đây chính là khâu then chốt quyết định đến khả năng cạnh tranh của tổ chức, công ty xí nghiệp trong cơ chế cạnh tranh quyết liệt của cơ chế thị trường hiện nay. "Chiến lược" là cầu nối giữa Công ty với người tiêu dùng thông qua thị trường của Công ty.
II/Công tác hoạch định trong công ty
1/Đặc điểm chung của các Công ty trong nền kinh tế thị trường.
Công ty là một tổ chức kinh tế thực hiệc các hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường các công ty hoạt động theo phương thức tự hạch toán trên cơ sở các quy phạm pháp luật do chính phủ ban hành. Các công ty phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với những điều luật mà nhà nước ban hành.
Một công ty tồn tại trong nền kinh tế thị trường luôn phải biết tìm kiếm lợi nhuận cho mình một cách lớn nhất tức là các hoạt đông hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phải luôn đạt ở mức hiệu quả nhất. Muốn các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình hiệu quả thì các công ty phải luôn biết sử dụng công tác kế hoạch hoá(mà ngày nay các nhà quản trị chiến lược thường gọi là chiến lược phát triển ) như là một phương tiện để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình diến ra theo đúng hướng.
2/Công tác quản trị chiến lược trong công ty.
Quản trị là quá trình nghiên cứu môi trường bên ngoài cũng như các nguồn lực và khả năng bên trong của doanh nghiệp nhằm xác định cho doanh nghiệp những mục tiêu của mình để từ đó tổ chức hoạch định, thực hiện và kiểm tra các quyết định để từ đó đạt được các mục tiêu đã đề ra.
Quản trị doanh nghiệp không những là phương pháp khoa học mà nó còn mang tính nghệ thuật cao:
Mang tính khoa học vì nó đòi hỏi sự hiểubiết kiến thức nhất định , biết tiếp thu và có những kinh nghiệm tốt về hoạt động sản xuất kinh doanh.
Nó mang tính nghệ thuật vì nó đòi hỏi những người lãnh đạo có cả năng khiếu trong nhận biết đánh giá mọi vấn đề cũng như khả năng sử dụng con người.
2.1/ Các chức năng cơ bản của công tác quản trị chiến lược.
Quản trị có vai trò rất lớn trong quá trình phát triển doanh nghiệp trong đó nó được thể hiện chủ yếu trong bốn chức năng cơ bản sau:Hoạch định, tổ chức, điều khiển và kiểm tra.
- Công tác hoạch định (kế hoạch):Bao gồm việc xác định các cơ hội, nguy cơ và các thách thức đến với công ty từ bên ngoài, chỉ rõ các điểm mạnh, điểm yếu bên trong,thiết lập các mục tiêu cần đạt được và đưa ra các quyết định về đường lối thực hiện mà công ty theo đuổi.Nội dung cơ bản của công tác hoạch định trong công ty là đưa ra được các quyết định là ngành kinh doanh mới nào cần tham gia, ngành nào nên rút ra,việc phân phối và sử dụng các nguồn lực của công ty như thế nào cho hợp lý và đạt được hiệu quả cao nhất tránh tình trạng lãng phí không phân phối công bằng trong mọi bộ phận của công ty,đồng thời có sự quyết định đúng đắn về việc mở rộng hay thu nhỏ quy mô của thị trường.
- Công tác tổ chức: Đây là công tác đưa việc hoạch định các chính sách vào áp dụng cho sản xuất. Sản xuất có phát triển hay không phụ thuộc rất nhiều vào môi trường mà công tác tổ chức đặt ra cho nó. Công tác này nhằm xác định những hoạt động cần thiết, sắp xếp các bộ phận phòng ban chuyên môn, giao trách nhiệm đến từng cá nhân,từng bộ phận, từng mạng lưới phối hợp hoạt động. Công tác tổ chức sẽ giúp cho việc xác định rõ ràng phạm vi trách nhiệm, quyền hạn của từng cá nhân để họ có biện pháp thực hiện nhiệm vụ của mình.
- Công tác điều khiển: Đây là công tác lãnh đạo quá trình vận hành, là sự tác động đến con người sao cho mỗi cá nhân mỗi thành viên trong công ty đều phải hướng chung tơí mục tiêu của doanh nghiệp. Công việc điều khiển không có nghĩa là chỉ đưa ra quy chế chỉ thị, xác lập cách thức làm việc cho mỗi người mà công tác này phải hướng tới mục tiêu chung cho công ty cũng như lợi ích thiết thực đến bản thân họ.
- Công tác kiểm tra: Đây là giai đoạn cuối cùng của một chiến lược,nó có tác dụng đánh giá kết quả các hoạt động bằng việc thiết lập các định mức,chuẩn mực để đo lường thành tích của từng thành viên trong công ty.Trên cơ sở các kết quả thu được đó ta đưa ra được các giải pháp điều chỉnh cần thiết nhằm hướng tới mục tiêu trong tương lai.Công tác kiểm tra có một vai trò rất quan trọng trong quá trình hình thành một chiến lược phát triển cho công ty trong tương lai.
2.2/ Công tác quản trị chiến lược.
*Quản trị chiến lược
Trước kia trong công tác quản trị kinh doanh các nhà kinh tế thường dùng thuật ngữ quản trị nhưng ngày nay do yêu cầu của việc phát triển sản xuất kinh doanh theo định hướng của nhà quản trị nên thuật ngữ chiến lược được các nhà quản trị thay bằng quản trị chiến lược.Thuật ngữ này nhằm nhấn mạnh những đặc trưng cơ bản của quản trị chiến lược trong điều kiện mới.
-Điều kiện môi trường:Trước đây nhiều công ty đã từng thành công do việc tập trung hầu như toàn bộ các nỗ lực quản lý vào việc hoàn thiện các chức năng hoạt động nội bộ và thực hiện các công việc hàng ngày của mình một cách hiệu quả nhất.Ngày nay các công ty thường xuyên gặp phải môi trường kinh doanh biến động, phức tạp và có nhiều rủi ro.Sự biến đổi nhanh chóng và phức tạp đó tạo ra cho công ty không ít cơ hội cũng như thách thức và những rủi ro bất ngờ,điều này buộc các nhà quản trị phải phân tích và dự báo các điều kiện môi trường trong tương lai gần (ngắn hạn) cũng như trong dài hạn.Từ những nắm bắt về điều kiện môi trường đó mà các nhà quản trị có khả năng nắm bắt tốt hơn các cơ hội cũng như giảm bớt các nguy cơ tác động đến hoạt động của tổ chức. Vì vậy quản trị chiến lược có nghĩa là các quyết định của tổ chức đưa ra thường gắn liền với môi trường kinh doanh liên quan.Việc quan tâm đế môi trường giúp các doanh nghiệp chuẩn bị tốt hơn để đối phó với những thay đổi của môi trường và làm chủ được mọi diễn biến trong tương lai đồng thời nó cũng giúp cho doanh nghiệp xác định được đường lối phát triển của mình(chiến lược phát triển)-đây chính là điều kiện quan trọng để có biện pháp “đi trước đón đầu” một cách hợp lý.Trong cuốn sách nghiên cứu về thời và thế của tổng thống Mỹ Nicxon cũng đã viết “Người thức thời là người biết nhìn ra thời thế và nắm bắt lấy nó để tạo sự nghiệp cho mình”.Thời thế ở đây chính là môi trường kinh doanh biến động của công ty cho nên các công ty muốn thành công cũng cần chủ động nắm bắt thời thế một cách nhanh nhậy để từ đó vạch ra cho mình một chiến lược phát triển một cách hợp lý.
-Điều kiện tư duy mới theo kiểu chiến lược: Đặc trưng của tư duy chiến lược là nếp nghĩ linh hoạt. Tư duy chiến lược trái với cách tư duy hệ thống, phân tích và sắp xếp vấn đề một cách máy móc, dựa theo lối tư duy tuyến tính, nó không như cách tư duy trực giác, đi đến kết luận mà không qua mô tả phân tích.Trong tư duy chiến lược trước hết cầ tìm hiểu rõ đặc tính của từng nhân tố trong tình huống được nghiên cứu sau đó vận dụng trí tuệ để cấu thành các yếu tố theo cách có lợi nhất. Tư duy chiến lược giúp cho các nhà quản trị chiến lược tìm được những giải pháp tốt nhất trong những điều kiện, tình huống thay đổi.
*Nội dung của công tác quản trị chiến lược.
Nội dung của quản trị chiến lược có thể được mô tả trong sơ đồ sau.
Phân tích môi trường
Xác định nhiệm vụ và mục tiêu
mmmmụcmục tiêu
Xây dựng các phương án chiến lược
Thực hiện chiến lược
Kiểm tra đánh giá và thực hiện
Về phân tích môi trường: Môi trường ở đây bao gồm cả môi trường bên ngoài và môi trường bên trong doanh nghiệp.Việc phân tích môi trường tạo cơ sở cho việc xác định nhiệm vụ và mục tiêu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.Tuỳ từng ngành mà công ty đang hoạt động mà có sự biến đổi khác nhau,có những ngành môi trường kinh doanh biến động và diễn biến rất phức tạp và năng động như những ngành sản xuất trang thiết bị, phần mềm máy tính… nhưng cũng có những ngành có môi trường ổn định hơn như những ngành sản xuất những đồ dùng thiết yếu…
Sự diễn biến phức tạp của môi trường có ảnh hưởng rất lớn đến công tác kế hoạch dẫn đến phải thay đổi thường xuyên mục tiêu mà kế hoạch trước đã đưa ra.Do vậy trước khi tiến hành lập kế hoạch, chiến lược ngắn hạn phải phân tích và hiểu rõ những điều kiện của môi trường có ảnh hưởng đến mục tiêu của doanh nghiệp.
Về xác định nhiệm vụ và mục tiêu: Một điều hết sức quan trọng và cần thiết khi tiến hành thực hiện các hoạt động của một doanh nghiệp là các doanh nghiệp phải biết được mục đích và hướng đi của mình trước khi vận động. Hướng đi này được xác định bằng cách hoạch định các mục tiêu thích ứng với môi trường hiện tại cũng như trong tương lai. Nhưng điều quan trọng là trước khi đưa ra mục tiêu cho doanh nghiệp cần xác định rõ nhiệm vụ và chức năng của doanh nghiệp, các mục tiêu của doanh nghiệp là nhằm vào thực hiện các nhiệm vụ và chức năng đó của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải xác định riêng biệt đâu là mục tiêu dài hạn đâu là mục tiêu ngắn hạn, đâu là nhiệm vụ chính, đâu là nhiệm vụ bổ trợ, đâu là mục đích cuối cùng, đâu là mục tiêu mà doanh nghiệp muốn đạt được qua từng mốc thời gian. Có như vậy thì doanh nghiệp mới điều chỉnh hoạt động của mình đúng hướng và hiệu quả.
Về xây dựng phương án chiến lược: Đây là giai đoạn mà doanh nghiệp cần xác định được những bước đi và biện pháp cụ thể để đạt tới mục tiêu cuối cùng. Chiến lược giúp các nhà quản trị lập ra những sơ đồ tác nghiệp nhằm dẫn dắt hoặc hướng doanh nghiệp đi đến những mục tiêu. Để đi đến những mục tiêu có thể có nhiều cách đi, do vậy các nhà quản trị phải có nhiều bước đi khác nhau phong phú và đa dạng để từ đó có sự lựa chọn, so sánh để tìm ra phương án tốt nhất.
Việc thực hiện chiến lược: Việc thực hiện chiến lược là khâu quan trọng nhất của chiến lược.Vấn đề cần đặt ra là phải huy động mọi thành viên trong công ty tập trung thực hiện tốt các chiến lược đã lựa chọn. Mục tiêu của chiến lược có được thực hiện một cách triệt để và hiệu quả nhất hay không còn tuỳ thuộc vào khả năng và trách nhiệm của mọi thành viên trong công ty. Chính vì vậy việc khuyến khích các thành viên của công ty là rất cần thiết để cho công ty đạt được mục đích của mình.
Kiểm tra, đánh giá việc thực hiện chiến lược: Đây chính là giai đoạn xem xét xem chiến lược đã đi được đến đâu trong lộ trình của nó.Việc kiểm tra đánh giá phải thường xuyên được tổ chức thực hiện xen lẫn quá trình kiểm tra để xem chiến lược có được đi đúng lịch trình hay không. Có nhiều nguyên nhân khiến cho mục tiêu của chiến lược không thể đạt được theo mục tiêu đã đề ra Những nguyên nhân này có thể do sự biến động của môi trường kinh tế trong và ngoài doanh nghiệp(khách quan) nhưng cũng có khi là do tác động của nhân tố chủ quan của tổ chức như sự không thu hút đủ nguồn nhân lực… Do vậy việc thông qua các hệ thống thông tin phản hồi và các biện pháp kiểm tra theo dõi là rất quan trọng trong quá trình hoàn thành mục tiêu của doanh nghiệp.
2.3/Xây dựng chiến lược kinh doanh.
*Bước chuyển từ kế hoạch dài hạn sang chiến lược kinh doanh.
ở phạm vi hẹp như một công ty thì chiến lược kinh doanh có chức năng như một kế hoạch dài hạn, chiến lược kinh doanh nhằm thực hiện các mục tiêu và chức năng của một kế hoạch dài hạn. Kế hoạch của quản trị bao gồm quá trình từ phân tích môi trường đến việc xác định nhiệm vụ, mục tiêu và chiến lược xây dựng doanh nghiệp. Chiến lược là phương thức mà các doanh nghiệp sử dụng để định hướng tương lai nhằm đạt được những thành công để duy trì sự ổn định và phát triển của doanh nghiệp.
Cũng như sự chuyển đổi từ quản trị sang quản trị chiến lược thì chiến lược kinh doanh là sự phản ánh đặc trưng của kế hoạch dài hạn. Sau chiến tranh thế giới lần II, đặc biệt là sau những năm 1960, do việc ứng dụng thành công các thành tựu của khoa học kỹ thuật vào việc sản xuất kinh doanh nên hầu hết các công ty trên thế giới đã chuyển từ kế hoạch tác nghiệp ngắn hạn sang kế hoạch dài hạn. Nhưng vào những năm 1970 thì do sự phát triển bùng nổ của nền kinh tế toàn cầu cộng với sự cạnh tranh gay gắt từ phía các đối thủ nên các công ty muốn tồn tại thì phải đặt ra cho mình một kế hoạch sao cho phù hợp với sự phức tạp của môi trường. Do vậy nét đặc trưng của tầm nhìn dài hạn đòi hỏi phải hướng tới sự mềm dẻo cần thiết nhằm đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của tổ chức trrước những thời cơ và thách thức mới các nhà quản trị gọi đặc trưng này là mang tính chiến lược. Chính điều này đã đưa các công ty chuyển từ kế hoạch dài hạn sang việc thực hiện các chiến lược kinh doanh vì chiến lược kinh doanh có ưu việt hơn kế hoạch dài hạn để thích ứng với sự biến động thường xuyên của môi trường kinh tế.
Thuật ngữ “Chiến lược”xuất phát từ lĩnh vực quân sự .Trong quân sự chiến lược được hiểu là “Nghệ thuật phối hợp các lực lượng quân sự, chính trị, tinh thần, kinh tế được huy động vào chiến tranh để đánh thắng kẻ thù ”.Hai yếu tố cơ bản tạo ra thành công của chiến lược là cạnh tranh và bất ngờ, nếu tổ chức nào tạo ra được bất ngờ và phát huy được sức mạnh trong cạnh tranh thì tổ chức đó sẽ thành công. Ngày nay những yếu tố này cũng được coi là những yếu tố cơ bản để chiến thắng trong kinh doanh.Từ đó cũng có thể hiểu chiến lược chiến lược kinh doanh là quá trình xác định các mục tiêu tổng thể phát triển doanh nghiệp và sử dụng tổng hợp các yếu tố kỹ thuật,tổ chức kinh tế và kinh doanh để chiến thắng trong cạnh tranh và đạt được những mục tiêu đề ra.
* Các cấp chiến lược.
Chiến lược có thể được tiến hành ở nhiều cấp khác nhau, nhưng thông thường có hai cấp cơ bản nhất là cấp công ty và cấp cơ sở kinh doanh
Chiến lược cấp công ty: Chiến lược cấp công tý xác định ngành kinh doanh mà các doanh nghiệp đang hoặc sẽ phải tiến hành. Do đó nó phải đề ra được đúng hướng phát triển cho các đơn vị kinh doanh đơn ngành giới hạn lĩnh vực hoạt động của họ trong một ngành công nghiệp hoặc dịch vụ chính. Các đơn vị kinh doanh đa ngành hoạt động trong hai ngành trở lên, vì vậy nhiệm vụ của họ sẽ phức tạp hơn. Họ cần phải quyết định xem sẽ tiếp tục hay không các ngành hiện đang kinh doanh, đánh giá khả năng cac ngành mới và đưa ra quyết định cần thiết.
Chiến lược cấp cơ sở kinh doanh cần được đưa ra đối với các đơn vị kinh doanh đơn ngành cũng như đối với mỗi đơn vị kinh doanh cơ sở trong đơn vị kinh doanh đa ngành. Chiến lược phải làm rõ xem các đơn vị tham gia cạnh tranh như thế nào. chiến lược cấp cơ sở kinh doanh có mức độ quan trọng như nhau đối với các đơn vị kinh doanh dơn ngành và từng đơn vị kinh doanh trong đơn vị đa ngành. Chiến lược cấp cơ sở kinh doanh dựa trên dựa trên tổ hợp các chiến lược khác nhau ở cấp chiến lưọc trung tâm. Đối với mỗi hãng khác nhau sẽ có chiến lược trung tâm khác nhau.có hãng thì coi chiến lược marketing là trung tâm, có hãng thì lại coi về nghiên cứu phát triển (Thường được coi là chiến lược trung tâm ở các công ty lớn của các nước phát triển – còn gọi là chi