Trong điều kiện kinh tế thị trường với xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, đòi hỏi doanh nghiệp phải xác định chiến lược kinh doanh phù hợp để đảm bảo sản phẩm sản xuất ra có sức cạnh tranh quốc tế. Việt Nam đang nỗ lực xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập vào khu vực và thế giới, điều này đòi hỏi các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu phải có các chiến lược xuất khẩu để có vị thế trên thị trường khu vực và thế giới mang tính cạnh tranh khốc liệt như hiện nay.
Trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam thì mặt hàng thủ công mỹ nghệ được coi là mặt hàng xuất khẩu truyền thống và hứa hẹn nhiều tiềm năng phát triển. Công ty TNHH sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ xuất nhập khẩu Phú Nghĩa đã kịp thời nhận thức được vấn đề đó, từ đó xây dựng và phát triển để trở thành một trong những doanh nghiệp đi đầu trong lĩnh vực xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của nước ta.
Sau 4 năm học tập và rèn luyện tại khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế tại trường Đại học Ngoại thương và qua thời gian nghiên cứu và tìm hiểu quá trình hoạt động của công ty, tôi thấy chiến lược xuất khẩu là một trong những yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại của các doanh nghiệp xuất khẩu. Việc nghiên cứu các chiến lược trở thành một nhu cầu cấp bách của các doanh nghiệp trong điều kiện tự do hóa toàn cầu như hiện nay. Chính vì thế tôi xin chọn đề tài “Chiến lược xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty TNHH sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ xuất nhập khẩu Phú Nghĩa” làm đề tài cho bài viết khóa luận tốt nghiệp của mình.
85 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1435 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chiến lược xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty TNHH sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ xuất nhập khẩu Phú Nghĩa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Tính tất yếu của việc nghiên cứu đề tài
Trong điều kiện kinh tế thị trường với xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, đòi hỏi doanh nghiệp phải xác định chiến lược kinh doanh phù hợp để đảm bảo sản phẩm sản xuất ra có sức cạnh tranh quốc tế. Việt Nam đang nỗ lực xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập vào khu vực và thế giới, điều này đòi hỏi các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu phải có các chiến lược xuất khẩu để có vị thế trên thị trường khu vực và thế giới mang tính cạnh tranh khốc liệt như hiện nay.
Trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam thì mặt hàng thủ công mỹ nghệ được coi là mặt hàng xuất khẩu truyền thống và hứa hẹn nhiều tiềm năng phát triển. Công ty TNHH sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ xuất nhập khẩu Phú Nghĩa đã kịp thời nhận thức được vấn đề đó, từ đó xây dựng và phát triển để trở thành một trong những doanh nghiệp đi đầu trong lĩnh vực xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của nước ta.
Sau 4 năm học tập và rèn luyện tại khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế tại trường Đại học Ngoại thương và qua thời gian nghiên cứu và tìm hiểu quá trình hoạt động của công ty, tôi thấy chiến lược xuất khẩu là một trong những yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại của các doanh nghiệp xuất khẩu. Việc nghiên cứu các chiến lược trở thành một nhu cầu cấp bách của các doanh nghiệp trong điều kiện tự do hóa toàn cầu như hiện nay. Chính vì thế tôi xin chọn đề tài “Chiến lược xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty TNHH sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ xuất nhập khẩu Phú Nghĩa” làm đề tài cho bài viết khóa luận tốt nghiệp của mình.
Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là nhằm tìm ra những điểm mạnh và điểm yếu trong khâu chiến lược xuất khẩu của công ty TNHH sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ xuất nhập khẩu Phú Nghĩa, từ đó đưa ra một số kiến nghị góp phẩn đẩy mạnh xuất khẩu của công ty.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Bài viết tập trung nghiên cứu sự tác động của môi trường đối với các hoạt động xuất khẩu hàng hóa của công ty TNHH sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ XNK Phú Nghĩa. Nghiên cứu tình hình hoạt động của công ty thời gian qua để xây dựng chiến lươc xuất khẩu hàng hóa trong những năm tới.
Phương pháp nghiên cứu
Bài viết sử dụng phương pháp: thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp…để giải quyết vấn đề đặt ra.
Kết cấu của đề tài
Ngoài phẩn mở đầu và kết luận, bài viết được trình bày gồm có 3 chương:
Chương 1. Lý luận chung về hoạt động xuất khẩu và chiến lược xuất khẩu
Chương 2. Phân tích chiến lược xuất khẩu của công ty TNHH sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ xuất nhập khẩu Phú Nghĩa
Chương 3. Giải pháp thực hiện chiến lược xuất khẩu và một số đề xuất trong việc hoàn thiện chiến lược xuất khẩu của công ty.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của PGS.TS Bùi Thị Lý, người trực tiếp hướng dẫn tôi hoàn thành khóa luận này. Tôi cũng xin cảm ơn anh GĐ Nguyễn Danh Tân cùng và tập thể cán bộ nhân viên công ty TNHH sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ xuất nhập khẩu Phú Nghĩa đã giúp tôi hoàn thành bài viết khóa luận này. Do sự hạn chế về thời gian trong quá trình nghiên cứu nên bài viết khó tránh khỏi những sai sót và hạn chế, rất mong được sự chỉ dẫn và góp ý của quý thầy cô.
Xin trân trọng cảm ơn!
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU VÀ CHIẾN LƯỢC XUẤT KHẨU
1.1. Lý luận chung về hoạt động xuất khẩu
1.1.1. Bản chất và vai trò của xuất khẩu
1.1.1.1. Khái niệm
Xuất khẩu là hoạt động buôn bán trên phạm vi quốc tế là hoạt động kinh tế thương mại với nước ngoài do những tổ chức hoặc cá nhân tiến hành nhằm đem lại những lợi ích kinh tế trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh của nước mình.
1.1.1.2. Vai trò của xuất khẩu
Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy cá quan hệ kinh tế đối ngoại, tăng cường địa vị kinh tế của mỗi quốc gia trên thị trường thế giới. Xuất khẩu tạo điều kiện cho các quốc gia tận dụng được lợi thế so sánh của mình. Sức cạnh tranh của hàng hoá được nâng cao, tăng trưởng kinh tế trở nên ổn định và bền vững hơn nhờ các nguồn lực được phân bổ một cách hiệu quả hơn. Quá trình này cũng tạo ra cơ hội lớn cho tất cả các nước, nhất là các nước đang phát triển, đẩy mạnh công nghiệp hoá trên cơ sở ứng dụng thành quả của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ.
Trong mối quan hệ với nhập khẩu, xuất khẩu tạo nguồn với chủ yếu cho nhập khẩu. Hoạt động xuất khẩu kích thích các ngành kinh tế phát triển, góp phần tăng tích luỹ vốn, mở rộng sản xuất, giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống người dân, tăng thu nhập cho nền kinh tế, cải thiện mức sống của các tầng lớp dân cư .
1.1.1.3. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu
Xuất khẩu trực tiếp:
Giống như các hoạt động mua bán thông thường trực tiếp ở trong nước, phương thức xuất khẩu trực tiếp trong kinh doanh thương mại quốc tế có thể được thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi trong đó người mua và người bán trực tiếp gặp mặt (hoặc thông qua thư từ, điện tín...) để bàn bạc và thoả thuận với nhau về hàng hoá, giá cả, điều kiện giao dịch, phương thức thanh toán... mà không qua người trung gian. Những nội dung này được thoả thuận một cách tự nguyện, việc mua không nhất thiết gắn liền với việc bán.
Tuy nhiên, hoạt động mua bán theo phương thức này khác với hoạt động nội thương ở chỗ: bên mua và bên bán là những người có trụ sở ở các quốc gia khác nhau, đồng tiền thanh toán có thể là ngoại tệ đối với một trong hai bên, hàng hoá là đối tượng của giao dịch được di chuyển qua khỏi biên giới của một nước.
Xuất khẩu gián tiếp
Nếu trong xuất khẩu trực tiếp người bán tìm đến người mua, người mua tìm đến người bán và họ trực tiếp thoả thuận quy định những điều kiện mua bán, thì trong xuất khẩu gián tiếp, một hình thức giao dịch qua trung gian, mọi việc kiến lập quan hệ giữa người bán và người mua và việc quy định các điều kiện mua bán đều phải thông qua người thứ ba. Người thứ ba này gọi là người trung gian buôn bán. Người trung gian buôn bán phổ biến trên thị trường thế giới là đại lý và môi giới.
Đại lý: là tự nhiên nhân hoặc pháp nhân tiến hành một hay nhiều hành vi theo sự uỷ thác của người uỷ thác (principal). Quan hệ giữa người uỷ thác với đại lý là quan hệ hợp đồng đại lý.
Môi giới: là loại thương nhân trung gian giữa người mua và người bán, được người bán hoặc người mua uỷ thác tiến hành bán hoặc mua hàng hoá hay dịch vụ.
Buôn bán đối lưu.
Buôn bán đối lưu (counter- trade) là một phương thức giao dịch trao đổi hàng hoá, trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng giao đi có giá trị tương xứng với lượng hàng nhận về. Buôn bán đối lưu đã ra đời lâu trong lịch sử quan hệ hàng hoá- tiền tệ, trong đó sớm nhất là “ hàng đổi hàng”, rồi đến trao đổi bù trừ. Ngày nay, ngoài hai hình thức truyền thống đó, đã có nhiều loại hình mới ra đời từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Các loại hình buôn bán đối lưu phải kể đến như: Nghiệp vụ hàng đổi hàng (barter), Nghiệp vụ bù trừ (compensation), Nghiệp vụ mua đối lưu (counter- purchase), Giao dịch bồi hoàn (offset), Nghiệp vụ mua lại sản phẩm (buy- backs).
Gia công quốc tế.
Gia công quốc tế là một phương thức kinh doanh thương mại trong đó một bên (gọi là bên đặt gia công) giao (hoặc bán) nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho một bên khác (gọi là bên nhận gia công) để chế biến ra thành phẩm giao lại (hoặc bán lại) cho bên đặt gia công và nhận thù lao (gọi là phí gia công). Như vậy trong gia công quốc tế hoạt động xuất nhập khẩu gắn liền với hoạt động sản xuất.
Giao dịch tái xuất.
Tái xuất là một hình thức kinh doanh quốc tế theo đó hoạt động xuất khẩu diễn ra cho những mặt hàng ngoại nhập mà chưa qua gia công chế biến ở trong nước.
Bản chất của hình thức này là xuất khẩu sản phẩm ngoại nhập nhằm nhận được một khoản thu nhập nhất định từ dịch vụ tái xuất.
Xuất khẩu theo nghị định thư.
Là hình thức xuât khẩu hàng hoá (hay trả nợ) được kí theo nghị định thư của chính phủ. Xuất khẩu theo hình thức này có ưu điểm: khả năng thanh toán chắc chắn (do nhà nước trả cho đối tác xuất khẩu), giá cả hàng hóa dễ chấp nhận
1.1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu:
Chủ trương, chính sách của Nhà nước về công tác xuất khẩu:
- Chính sách khuyến khích đối với xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu: giá thành sản phẩm hàng xuất khẩu của những quốc gia đang phát triển thường cao hơn mặt bằng giá quốc tế. Vì vậy, để đảm bảo sự cạnh tranh hữu hiệu cho sản phẩm của đất nước, Chính phủ phải có những chính sách khuyến khích cho khu vực này, từ khâu sản xuất nguyên vật liệu hoặc nhập khẩu nguyên vật liệu đến khâu sản xuất hàng xuất khẩu, đầu tư cơ sở hạ tầng cho vùng nguyên liệu nông sản hoặc khoáng sản xuất khẩu, đầu tư cơ sở hạ tầng cho các cảng xuất khẩu hàng hóa,…
- Nguyên liệu và các vật liệu chính để sản xuất hàng xuất khẩu: đây là nhân tố nội tại mang tính quyết định chính yếu cho tính đặc trưng của sản phẩm xuất khẩu, qua đó quyết định yếu tố cạnh tranh của sản phẩm trên thương trường quốc tế. Để tăng tính chủ động cho nguồn nguyên liệu và vật liệu chính thì nguồn nguyên vật liệu chính cấu thành sản phẩm xuất khẩu phải tối thiểu 40% thuộc về sở hữu của nhà sản xuất, 40% thuộc về sở hữu của mạng lưới cung ứng do nhà sản xuất xây dựng và duy trì qua nhiều năm, còn lại là mua từ các nguồn trôi nổi khác (theo thống kê của đại đa số các nhà nghiên cứu).
Trình độ công nghệ sản xuất và tính hiện đại của máy móc thiết bị trong sản xuất hàng xuất khẩu:
Để thắng lợi trong cạnh tranh, hàng hóa phải đạt được tối thiểu hai yêu cầu gồm: yêu cầu chất lượng sản phẩm cao và yêu cầu về giá cả cạnh tranh. Để thỏa mãn cả hai yêu cầu này thì chỉ có thể dựa trên việc triển khai, ứng dụng nhanh chóng những thành tựu mới nhất của thế giới về trình dộ công nghệ sản xuất cũng như về máy móc, thiết bị và phương pháp quản lý sản xuất kinh doanh.
Trình độ tay nghề của đội ngũ người lao động:
Trong thời đại ngày nay, khi mà nền kinh tế các nước đã và đang dựa trên nền tảng sản xuất công nghiệp hóa, tự động hóa, thậm chí nhiều nước đã đạt đến trình độ cao, thì lao động kết tinh trong sản phẩm ngày càng đòi hỏi phải có hàm lượng tri thức cao, chứ không chỉ cần sức lao động. Thật vậy, một trong những yêu cầu của việc đầu tư đổi mới công nghệ và trang thiết bị máy móc là phải tương xứng với trình độ nghiệp vụ và tay nghề của đội ngũ người lao động. Người lao động có trình độ kỹ xảo thấp, chắc chắn không thể chế tạo ra được những sản phẩm chất lượng cao, sản phẩm không thể đứng vững ở thị trường trong nước và nước ngoài.
Trình độ quản lý của người lãnh đạo:
Hiện nay, lãnh đạo đã được thừa nhận là một nghề. Điều này đòi hỏi người lãnh đạo phải vừa có nghệ thuật quản lý, vừa có trình độ chuyên môn về quản trị. Khi trình độ và kỹ năng lành nghề của người lao động ngày càng cao, máy móc thiết bị ngày càng hiện đại thì yêu cầu về trình độ của người lãnh đạo càng phải cao. Hơn thế, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, người lãnh đạo không những chỉ cần khả năng hiểu biết trong phạm vi doanh nghiệp mà còn phải có sự hiểu biết tốt về tất cả các lĩnh vực trên bình diện quốc gia cũng như quốc tế.
1.1.3 Nội dung của công tác xuất khẩu
1.1.3.1. Nghiên cứu và lựa chọn thị trường xuất khẩu
Không chỉ riêng với hoạt động xuất khẩu mà với bất kỳ hoạt động kinh doanh nào trước khi bước vào nghiên cứu thực hiện các khâu nghiệp vụ người kinh doanh phải nắm bắt được các thông tin về thị trường. Nghiên cứu thị trường xuất khẩu là vấn đề đầu tiên cần thiết được tiến hành hết sức kỹ lưỡng trong hoạt động xuất khẩu. Nghiên cứu thị trường tốt tạo khả năng cho các nhà kinh doanh nhận ra được quy luật vận động của từng loại hàng hoá cụ thể thông qua sự biến đổi cung cầu và giá cả trên thị trường giúp họ giải quyết được các vấn đề của thực tiễn kinh doanh như yêu cầu của thị trường, khả năng tiêu thụ, khả năng cạnh tranh của hàng hoá... từ đó mà lựa chọn thị trường xuất khẩu thích hợp nhất cho sản phẩm của mình.
Nghiên cứu thị trường
Nghiên cứu thị trường theo nghĩa rộng đó là quá trình điều tra để tìm triển vọng bán hàng cho một sản phẩm cụ thể hay một nhóm sản phẩm, kể cả phương pháp thực hiện mục tiêu đó. Quá trình nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập thông tin, số liệu về thị trường, so sánh, phân tích những số liệu đó và rút ra kết luận. Những kết luận này sẽ giúp cho nhà quản lý đưa ra các quyết định đúng đắn để lập kế hoạch kinh doanh. Công tác nghiên cứu thị trường phải góp phần chủ yếu trong phương châm hành động “chỉ bán cái thị trường cần chứ không bán cái có sẵn”.
Lựa chọn thị trường xuất khẩu
Trên cơ sở nghiên cứu tình hình thị trường xuất khẩu giúp đơn vị kinh doanh lựa chọn thị trường, việc lựa chọn thị trường phải căn cứ vào những tiêu chuẩn mà các thị trường phải đáp ứng được:
Tiêu chuẩn chung:
Về địa lý: khoảng cách địa lý, khí hậu, tháp dân số...
Về chính trị xã hội: có những chính thể này thuận lợi hơn những chính thể khác đối với hoạt động xuất khẩu, nghiên cứu cả những bất chắc chính trị và sự ổn định của chính thể.
Về kinh tế: những chỉ tiêu về tổng sản phẩm quốc nội (GDP), GDP bình quân đầu người, tỷ lệ tăng GDP...
Về văn hóa: nhu cầu, sở thích thói quen mua sắm
Về kỹ thuật: những khu vực phát triển và triển vọng phát triển.
Tiêu chuẩn về quy chế thương mại và tiền tệ:
Biện pháp bảo hộ mậu dịch: thuế quan, các giấy phép và hạn ngạch...
Tình hình tiền tệ: tỷ lệ lạm phát, sự diễn biến của tỷ giá hối đoái
Tiêu chuẩn về thương mại:
Phần của sản xuất nội địa
Sự hiện diện của hàng hoá Việt Nam trên các thị trường
Sự cạnh tranh quốc tế trên các thị trường lựa chọn.
Những tiêu chuẩn này sau đó phải được cân nhắc, điều chỉnh tuỳ theo mức quan trọng của chúng đối với doanh nghiệp.
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp kết quả hoạt động kinh doanh còn phụ thuộc vào khách hàng. Trong cùng những điều kiện như nhau việc giao dịch với khách hàng cụ thể này thì thành công, với khách hàng khác thì bất lợi. Vì vậy một nhiệm vụ quan trọng của đơn vị kinh doanh trong lựa chọn thị trường là lựa chọn khách hàng. Việc lựa chọn khách hàng (hay lựa chọn thương nhân) để giao dịch không nên căn cứ vào những lời quảng cáo, tự giới thiệu mà cần tìm hiểu khách hàng về:
Tình hình sản xuất kinh doanh của họ, năng lực, phạm vi kinh doanh và tư cách pháp nhân.
Khả năng về vốn và cơ sỏ vật chất kỹ thuật.
Năng lực con người và năng lực quản lý của họ
Trình độ và quan điểm kinh doanh của thương nhân đó
Uy tín của họ trong kinh doanh
Trong việc lựa chọn thương nhân giao dịch tốt nhất là nên lựa chọn những đối tác trực tiếp, tránh những đối tác trung gian, trừ trường hợp doanh nghiệp muốn thâm nhập vào các thị trường mới mà mình chưa có kinh nghiệm.
Việc lựa chọn các đối tượng giao dịch có căn cứ khoa học là điều kiện cần thiết để thực hiện thắng lợi các hợp đồng TMQT, song nó phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm của người làm công tác giao dịch.
Nghiên cứu thị trường hàng hoá quốc tế trong TMQT nói chung và trong kinh doanh xuất khẩu nói riêng là hết sức cần thiết trong hoạt động kinh doanh. Đó là bước chuẩn bị và là tiền đề để doanh nghiệp có thể tiến hành các hoạt động kinh doanh TMQT một cách có hiệu quả nhất.
1.1.3.2. Lập phương án kinh doanh hàng xuất khẩu
Trên cơ sở những kết quả thu lượm được trong quá trình nghiên cứu tiếp cận thị trườn, đơn vị kinh doanh lập phương án kinh doanh. Phương án này là kế hoạch hoạt động của đơn vị nhằm đạt đến những mục tiêu xác định trong kinh doanh.
Việc xây dựng phương án kinh doanh bao gồm các bước sau:
Đánh giá tình hình thị trường và thương nhân: trong bước này, người lập phương án rút ra những nét tổng quát về tình hình, phân tích thuận lợi và khó khăn trong kinh doanh.
Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh. Sự lựa chọn này phải có tính thuyết phục trên cơ sở phân tích những tình hình có liên quan.
Đề ra mục tiêu. Những mục tiêu đề ra trong một phương án kinh doanh bao giờ cũng là mục tiêu cụ thể như: sẽ bán được bao nhiêu hàng với giá cả bao nhiêu, sẽ thâm nhập vào những thị trường nào...
Đề ra biện pháp thực hiện. Những biện pháp này có thể bao gồm nhiều biện pháp trong nước (như đầu tư vào sản xuất, cải tiến bao bì, ký hợp đồng kinh tế, tăng giá thu mua...) và cả các biện pháp ở ngoài nước (như đẩy mạnh quảng cáo, lập chi nhánh ở nước ngoài, mở rộng mạng lưới đại lý...)
Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của việc kinh doanh thông qua một số chỉ tiêu chủ yếu: chỉ tiêu tỷ suất ngoại tệ, chỉ tiêu thời gian hoàn vốn, chỉ tiêu tỷ suất doanh lợi, chỉ tiêu điểm hoà vốn.
Sau khi phương án đã được đề ra, đơn vị kinh doanh phải cố gắng để thực hiện phương án, tức là tiến tới ký kết hợp đồng mua bán với khách hàng đã chọn. Nhưng để tiến tới ký kết hợp đồng mua bán với nhau người xuất khẩu và nhập khẩu thường phải qua một quá trình giao dịch, thương thảo về các điều kiện giao dịch. Quá trình đó có thể bao gồm những bước chính như: hỏi hàng, chào hàng, đặt hàng.
Hỏi hàng: hỏi hàng còn gọi là hỏi giá, tuy không ràng buộc trách nhiệm của người hỏi, nhưng nếu hỏi nhiều nơi, nhiều hãng quá có thể gây lên hiểu lầm về nhu cầu của mình. Vả lại, hỏi nhiều sẽ kéo theo việc trả lời và các công việc hành chính văn thư khác. Điều này cũng dễ gây nên tốn thời gian và chi phí.
Chào hàng: là lời đề nghị biểu thị muốn bán hàng do người bán đưa ra. Trước khi chào hàng cần nắm được quan hệ cung cầu về hàng hoá đó trên thế giới, mức giá hiện hành trên thị trường, nhu cầu của đối phương và khả năng của ta. Trên cơ sở đó, ta xác định nên đưa ra đơn chào hàng cố định hay đơn chào hàng tự do.
Chào hàng cố định: là lời đề nghị ký hợp đồng của người bán chỉ gửi cho một đối tác, trong thời hạn có hiệu lực của chào hàng thì không được gửi cho các đối tác khác. Nếu người nhận chào hàng cố định chấp nhận mua coi như chào hàng được ký.
Chào hàng tự do:là lời đề nghị chào bán một mặt hàng nào đó được gửi cho nhiều người và không ràng buộc về mặt pháp lý. Nếu người nhận chào hàng tự do đồng ý mua nhưng người bán vẫn có thể không thực hiện lời chào hàng đó.
Có khi, bên mua chưa hỏi mua, nhưng ta chủ động tìm hiểu thấy họ có nhu cầu và ta đưa ra đơn chào hàng (chào hàng chủ động). Cũng có khi, trên cơ sỏ hỏi hàng của bên mua, chúng ta chào hàng để đáp lại thư hỏi hàng của đối phương (chào hàng thụ động).
Dù chào hàng theo cách nào, đơn chào hàng cũng cần rõ ràng và có sức hấp dẫn. Sự hấp dẫn không chỉ thể hiện ở giá thấp, ở sự giảm giá, mà có thể ở cả dịch vụ cung cấp cho người mua, phẩm chất hàng tốt, điều kiện thanh toán có lợi cho người mua.
Đặt hàng: đặt hàng là lời đề nghị chắc chắn về việc ký kết hợp đồng, xuất phát từ người mua. Do đó, người mua chỉ đặt hàng ở nhà cung cấp nào mà đã biết rõ về chất lượng hàng, mức giá cả, khả năng giao hàng của họ. Người bán cần nắm được điều này để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng tăng hiệu quả kinh doanh.
1.1.3.3. Ký kết hợp đồng xuất khẩu
Việc giao dịch đàm phán nếu có kết quả sẽ dẫn tới việc ký kết hợp đồng ngoại thương: là sự thoả thuận giữa những đương sự có trụ sở kinh doanh ở các nươc khác nhau, theo đó một bên gọi là bên xuất khẩu (bên bán) có nghĩa vụ chuyển giao quyền sở hữu cho một bên khác gọi là bên nhập khẩu (bên mua) một tài sản nhất định, gọi là hàng hoá, bên mua có nghĩa vụ nhận tiền hàng và trả tiền hàng.
1.1.3.4. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu
Sau khi hợp đồng mua bán ngoại thương được ký kết, đơn vị kinh doanh xuất khẩu- với tư cách là một bên ký kết- phải tổ chức thực hiện hợp đồng đó. Đây là một công việc rất phức tạp. Nó đòi hỏi phải tuân thủ luật quốc gia và quốc tế, đồng thời bảo đảm được quyền lợi quốc gia và đảm bảo uy tín kinh doanh của đơn vị.
Trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu bao gồm các bước sau:
Kiểm tra L/C.
Nếu trong điều khoản thanh toán của hợp đồng ngoại thương quy định sử dụng phương thức tín dụng chứng từ thì bước đầu tiên đơn vị kinh doanh xuất khẩu cần phải làm đó là đôn đốc người nhập khẩu ở nước ngoài mở L/C đúng hạn và nội dung như hợp đồng quy định. Sau khi nhận được L/C, người xuất khẩu phải kiểm tra so sánh với nội dung và điều kiện ghi trong hợp đồng, nếu phù hợp người xuất khẩu mới tiến hành làm những công việc thực hiện hợp đồng còn chưa p