Đề tài Chiết xuất và phân lập isoflavone từ cây đậu nành Glycine max

Nước ta có được những điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý và khí hậu nên nguồn dược liệu phong phú là một trong những lợi thế để ngành Dược nước ta phát triển theo hướng hiện đại hóa các thuốc y học cổ truyền , thuốc có nguồn gốc dược liệu. Mặt khác, các chế phẩm dược liệu có tính an toàn và đạt hiệu quả điều trị không kém so với các chế phẩm tân dược.

doc33 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1722 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chiết xuất và phân lập isoflavone từ cây đậu nành Glycine max, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẶT VẤN ĐỀ Nước ta có được những điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý và khí hậu nên nguồn dược liệu phong phú là một trong những lợi thế để ngành Dược nước ta phát triển theo hướng hiện đại hóa các thuốc y học cổ truyền , thuốc có nguồn gốc dược liệu. Mặt khác, các chế phẩm dược liệu có tính an toàn và đạt hiệu quả điều trị không kém so với các chế phẩm tân dược. Đậu tương hay đỗ tương, đậu nành (Glycine max) là loại cây họ Đậu (Fabaceae) giàu hàm lượng chất đạm protein. Cây đậu tương là cây thực phẩm có hiệu quả kinh tế lại dễ trồng. Từ trước đến nay, sản phẩm từ cây đậu tương được sử dụng rất đa dạng như dùng trực tiếp hạt thô hoặc chế biến thành đậu phụ, ép thành dầu đậu nành, nước tương, làm bánh kẹo, sữa đậu nành, okara... đáp ứng nhu cầu đạm trong khẩu phần ăn hàng ngày của người. Trong nhiều năm qua, các nhà khoa học trên thế giới đã tìm ra flavonoid, là những chất chống oxy hóa, có nhiều trong các loại thực phẩm khác nhau như trái cây, rau củ, thảo mộc, ngũ cốc và chocolate, rất tốt cho sức khỏe con người. Trong cây cỏ, flavonoids giúp điều hoà sự sống và tăng trưởng, chống tác dụng nguy hại của ánh sáng cực tím. Tiến sĩ Catherine Rice Evans thuộc International Antioxidant ResearchCentre, Luân Ðôn báo cáo rằng: genistein và daidzein thuộc nhóm isoflavones có khả năng chống oxi hóa hữu hiệu nhất. Năm 1989, Viện Nghiên Cứu Ung Thư Quốc Gia Hoa Kỳ (National CancerInstitute, NCI) đã trợ cấp cho chương trình 5 năm nghiên cứu về những thực phẩm ngăn chận ung thư. Qua đó, giới khoa học gia khám phá ra đậu nành là một thực phẩm đặc biệt, vừa bổ dưỡng vừa có thể ngăn ngừa bệnh ung thư. Người Á Ðông nhờ ăn nhiều đậu nành, nên có tỷ lệ bệnh ung thư thấp hơn người dân Mĩ gấp 4 lần. Theo nghiên cứu của các bệnh viện, thực đơn với đậu nành có thể làm hạ thấp cholesterol dưới mức mục tiêu. Phytoestrogen là thành phần có thể gặp với hàm lượng tương đối cao ở nhiều thực phẩm quen thuộc của dân cư châu Á, đặc biệt trong đậu nành và các thực phẩm được chế biến từ đậu nành. Phytoestrogen trong đậu nành, là isoflavones có cấu trúc hóa học rất gần với estrogen, một nội tiết tố nữ, có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ xương, bằng cách làm giảm tỷ lệ tiêu hao xương và kích hoạt hình thành các tế bào tạo xương. Đậu nành đang được nghiên cứu vì nó có khả năng bảo vệ cơ thể trước nguy cơ bệnh Alzheimer, tiểu đường type 2, giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch, giảm các triệu chứng mệt mỏi của phụ nữ ở tuổi mản kinh. Vì thế, phụ nữ Châu Á ít bị bệnh tim mạch hơn phụ nữ Mỹ và châu Âu. Bên cạnh đó, flavonoid từ thực phẩm đậu nành hoạt động như chất chống viêm trong phổi và giúp phòng chống các tác nhân gây ung thư của thuốc lá. Ðậu nành cũng tạo ích lợi cho nam giới. Ðậu nành bảo vệ nam giới tránh bệnh ung thư tuyến tiền liệt (prostate gland). Do genistein ngăn cản sự tăng trưởng của bướu. Theo tiến sĩ Wing-Ming Keung của đại học Harvard thì các hoạt chất của isoflavones ngăn cản không cho kích thích tố nam bị phá hoại. Ngoài ra, đậu nành cung cấp vitamin B, amino axit và chất béo có lợi cho tim. Mặc dù trên thế giới có rất nhiều công trình nghiên cứu về cây đậu nành, nhưng tại Việt Nam chưa có nhiều công trình nghiên cứu về thành phần hóa học trong đậu nành, đặc biệt là các isoflavonoid. Hơn nữa, nguồn nguyên liệu đậu nành ở Việt Nam rất đa dạng và có giá trị sinh học cao. Từ những lí do trên, đề tài “chiết xuất và phân lập các isoflavonoid từ đậu nành (Glycine max)” được xây dựng. Phần I : TỔNG QUAN VÀI NÉT VỀ CÂY ĐẬU NÀNH Tìm hiểu chung về cây đậu nành Đậu nành có tên khoa học là Glycine max L, thuộc họ đậu (Fabaceae), còn được gọi là đậu tương hay đại đậu . [1]trên thới giới có 1000 loại đậu tương với nhiều đặc điểm khác nhau, hạt đậu nành có giá trị dinh dưỡng và kinh tế rất cao.[2,3] Đậu nành là loại cây thân thảo, hằng năm. Thân cây mảnh, cao từ 0.8-0.9m, có lông, cành hướng lên phía trên. Lá mọc cách có ba lá chét hình trái xoan, mũi gần nhọn, không điều ở gốc. hoa có màu trắng hay tím sếp thành chùm ở nách cành. Quả thõng, hình lưởi liềm, gân bị ép, trên quả có nhiều lông mềm màu vàng, thắt lại ở giữa các hạt. các hạt thứ 2, 3, 5 gần hình cầu, các hạt còn lại hình thận dài, có màu vàng gơm nhạt, [1] ở nước ta phân biệt rỏ ràng đậu nành (hạt màu vàng nhạt) với đậu đen, đậu đỏ nhưng trong các tài liệu thực vật nước ngoài người ta miêu tả hạt đậu nành có thể màu vàng, đỏ, lục hay đen với nhiều đặc điểm khác nhau, hạt đậu có kích thước nhỏ nhất như hạt đậu Hà Lan cho tới lớn nhất như trái anh đào.[1,3] Theo từ điển thực phẩm, đậu nành có nguồn gốc từ Trung Quốc, sau đó được truyền bà sang Nhật Bản vào khoảng thế kỷ thứ VIII, vào nhiều thế kỷ sau đó có mặt ở các nước Á Châu như Thái Lan, Malaixia, Hàn Quốc, Việt Nam… Từ cổ xưa đậu nành đã được sử dụng ở những nước này làm thực phẩm. Cây đậu nành có mặt ở Châu Âu vào đầu thế kỷ 17 và ở Hoa Kỳ vào thế kỷ 18, việc trồng trọt bắt đầu phát triển lớn ở Liên Xô củ nhưng phát triển nhanh chóng tại những nước Châu Mỹ: những nước thuộc miền trung và đồng bằng sông Mitsixipi.[1,2,3]. Theo tài liệu [4]đậu nành có nguồn gốc ở phía Bắc và Đông Châu Á, là một trong những thực phẩm quan trọng. Đậu nành có thể dể trồng trong suốt mùa hè và mùa thu, trồng xen trên các cánh đồng lúa. Ngày nay, Hoa Kì là quốc gia đứng đầu sản xuất đậu nành chiếm 50% sản lượng trên toàn thế giới, rồi đến Trung Quốc, Ấn Độ. Cây đậu nành là một trong năm cây thực phẩm quan trọng ở Hoa Kì, theo số liệu thống kê của bộ nông nghiệp Hoa Kì năm 2008 diện tích trồng cây đậu nành chuyển gen chiếm 92% trong tổng diện tích trồng cây đậu nành trên cả nước.[2]. Một số ứng dụng chính từ đậu nành Xưa nay, đậu nành vẩn được các nhà dinh dưỡng học đánh giá rất cao vì giàu protit và lipit. Trong 100g đậu nành có từ 34-40g protit và khoảng gần 20g lipit, nhiều hơn bất cứ loại thịt động vật nào. Chất protein trong đậu nành ở đưới dạng các casein thực vật không khác với casein động vật có trong sữa, có đầy đủ các axic amin cần thiết cho sự phát triển và duy trì cơ thể con người. ngoài ra, đậu nành còn rất giàu vitamin và khoáng chất. Từ đậu nành, nhân dân ta đã chế biến nhiều thức ăn ngon như : Bột đậu nành, sữa đậu nành, đậu phụ, tào phớ, tương…[5] Hạt đậu nành có giá trị và kinh tế rất cao. Cùng một mẫu đất, số thu hoạch chât đạm đậu nành nhiều hơn 33% với bất kỳ một thứ nông sản nào khác. Hàm lượng protein của đậu nành cũng cao hơn của thịt, cá và gần gấp đôi các loại đậu khác.[2] Đậu nành chứa hàm lượng dầu béo cao hơn các loại đậu khác nên được coi là loại cây cung cấp dầu thảo mộc. Chất béo lipit của đậu nành có chứa một tỷ lệ cao chất fatty axid không bão hòa, có mùi vị thơm ngon, cho nên dùng dầu đậu nành thay thế cho mở động vật.[2] Dầu đậu nành còn được sử dụng để nghiên cứu tổng hợp biodiezen trên xúc tác NaOH/MgO. Biodiezen là nhiên liệu sinh học nhằm thay thế cho nhiên liệu diezen khoáng đang ngày càng cạn kiệt.[6] Ở Trung Hoa, Nhật Bản và Hàn Quốc người ta đã chế biến ra được trên 600 sản phẩm khác nhau, trong đó có hơn một nửa loại thực phẩm được chế biến theo phương pháp cổ truyền dưới dạng tươi, khô và lên men cho đến các sản phẩm hiện đại bằng kỉ thực mới như: cà phê, thịt chay nhân tạo, socola…[2] Ngày nay, tại các nước Á Châu, đậu hũ được xem là thức ăn hằng ngày và coi như một nền văn hóa Á Đông giống như văn hóa Humburger của Hoa Kì vậy.[2] Đậu nành sau khi đã ép lấ dầu, người ta dùng bã Đậu chế biến thành thức ăn nuôi gia súc. Ở những quốc gia phát triển, họ dùng đậu nành vào các kỹ nghệ khác như: chế biến cao su nhân tạo, mực in, sơn, xà phòng, chất tơ nhân tạo, chất nhiên lỏng, dầu làm trơn trong kỹ nghệ hàng không ….[2]. Bột đậu nành sau khi đã loại dầu hay nước đậu nành sau khi đã tinh chế được dùng chế men ureaza, thuốc thử đặc hiệu đối với Ure trong hóa sinh.[1] Cây đậu nành còn có khả năng tồn trữ chất đạm của khí trời và làm giàu chất đạm cho đất. Do đó kỹ nghệ trồng cây đậu nành không những không làm hư đất mà còn làm cho đất thêm màu mỡ.[2] Ngoài giá trị dinh dưỡng, đậu nành và những món ăn chế biến từ đậu nành còn có giá trị phòng và chữa bệnh.[5] Đậu nành có tác dụng làm cho cơ thể con người trẻ lâu sung sức, tăng thêm trí nhớ và tái tạo các mô, làm cứng xương và tăng sức đề kháng cho cơ thể[2]. Trong Y dược, bột đậu nành (đã làm mất mùi bằng hơi nước) trộn với bột ngũ cốc, ca cao dùng làm thức ăn cho trẻ sơ sinh, người bệnh tiểu đường, người bị thấp khớp, bệnh gút, người mới ốm dậy, người lao động quá sức.[1] Lexitin và casein dùng riêng hay phối hợp làm thuốc bổ dưỡng làm ta dược Stigmasteron dùng trong tổng hợp progesterone[1] Trong công nghiệp dược phẩm, bột đậu nành được dùng chế môi trường nuôi cấy nấm mốc kháng sinh chế biến một số axit amin như acginin, axit glutamic bằng thủy phân acid bột đậu nành.[1] Các nhà khoa học còn khám phá ra các hóa thảo mộc đậu nành có đặc tính chống lại các mầm ung thư như: ung thư vú, ung thư kết tràng, ung thư phổi, ung thư dạ dày, ung thư nhiếp hộ tuyến.[2,3,7] Hơn thế nữa, đậu nành có khả năng làm hạ cholesterol trong máu những người bị xơ vữa động mạch, phòng ngừa các chứng bệnh về tim mạch, bệnh tiểu đường, bệnh xốp xương, bệnh thận…[5,2] THÀNH PHẦN HÓA HỌC TRONG ĐẬU NÀNH Theo GS. Ðỗ Tất Lợi [1], toàn cây chứa 12% nước, 16% gluxit, 14-15% protein, 6% muối khoáng và các chất khác không có nito. Hạt cây là thành phần có giá trị sử dụng nhất vì nó không những chứa đầy đủ các chất dinh dưỡng cần thiết mà còn tồn tại các hoá thảo mộc có tác dụng phòng ngừa và trị bệnh đặc biệt là các căn bệnh thời đại như: bệnh ung thư, các bệnh liên quan đến tim mạch. Các thành phần có giá trị dinh dưỡng trong đậu nành Protein: Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, hạt Đậu nành có giá trị dinh dưỡng rất cao. Người ta đã xác định thành phần protein trong hạt Đậu nành chứa đầy đủ 8 loại amino axit thiết yếu : tryptophan, threonine, isoleuxin, valin, lysin, methionin, phenylalanin và leucin. Hàm lượng của các chất amino axit này tương đương với hàm lượng của các chất amino axit trứng gà đặc biệt là tryptophan gần gấp rưỡi của trứng. [2,7]. Protein trong hạt Đậu nành chứa khoảng trên 38% tuỳ loại, hiện nay nhiều giống Đậu nành có hàm lượng protein đặc biệt cao tới 40-50%. Có những chế phẩm của Đậu nành mang tới 90-95% protein, dây là nguồn protein thực vật có giá trị cao cung cấp cho con người. [3] Protein của Đậu nành dễ tiêu hoá, không có cholesterol và ít chất béo bão hoà thường có nơi thịt động vật. Hàm lượng protein của Đậu nành cũng cao hon cả thịt cá và gần gấp đôi các lọai Đậu khác. [2] Chất sinh tố và chất khoáng. Không chỉ giàu protein hơn bất cú loại thực phẩm nào, kể cả thịt động vật. Ðậu nành còn rất giàu chất sinh tố và chất khoáng như: sắt, canxi, photpho, kẽm, các vitamin nhóm B: B1, B2, B3, B6 ngoài ra còn có vitamin E. Trong Ðậu nành còn chứa nhiều chất xơ rất tốt cho tiêu hoá. [2,3] Theo GS. Ðỗ Tất Lợi [1], hạt Ðậu nành chứa trung bình 8% nước, 4-5% chất vô cơ, trong đó rất nhiều Kali 2%, Natri 0,38%, Canxi 0,23%, photpho 0,65%, Magiê 0,24%, lưu huỳnh 0,45%. Ðậu nành chứa các vitamin tan trong nước như: các vitamin B1, B2, B3, B6; vitamin PP và chứa các vitamin tan trong dầu như: vitamin A, vitamin D, vitamin E (trong Ðậu nành ở châu Á và châu Mỹ), vitamin K, vitamin F không có vitamin C. Các vitamin A và D xuất hiện khi hạt mới chín, sau đó bị men oxy hoá phá hủy. Trong nhóm vitamin B, Ðậu nành chứa lượng vitamin B1 gấp 3 lượng vitamin B1 trong sữa bột và trong bột những loại hạt Ðậu khác chứa tinh bột, lượng vitamin B2 chứa ít hơn trong sữa bột khoảng 1/3 nhưng lại gấp 6 lần so với một số loài Ðậu khác. Chất béo và chất cholesteron. Ðậu nành là thực phẩm nhiều protein nhưng lại ít calorit, ít chất béo bão hoà và hoàn toàn không có cholesteron. [2] Chất béo chiếm khoảng 15-20% có khi đạt tới 23%. Tỷ lệ phần trăm của các glyxerit axit béo: linolein 49,3%, olein 32%, linolenin 2%, panmitin 6,5%, stearin 4,2%, aracgidin 0,7%, lignoxerin 0,1% và 0,5% axit panmitoleic. [1] So sánh với các loài Ðậu khác thì Ðậu nành có chứa các axit béo thiết yếu cao hơn, tổng số chất béo chứa khoảng 18%, thành phần cacbonhydrat chiếm 31%.[8] Dầu đậu nành Dầu đậu nành thuộc loại dầu khô như dầu hạt lanh, chứa khoảng 14% chất béo bão hoà, 59% chất béo không bão hoà đa tính, 23% chất béo không bão hoà đơn tính. Trong số lượng chất béo không bão hoà đa tính lại chứa 8% linoleic axit (omega – 3- fatty acid), hiếm có trong các thực phẩm nguồn gốc thực vật. [1,2] Trong dầu béo Ðậu nành còn có photpholipit chủ yếu là lexitin 1-5%. Lexitin hoặc nằm trong dầu béo (tách ra bằng lạnh), hoặc còn nằm trong phần bã (tách ra bằng dung môi bay hơi). Ngoài ra dầu béo còn có các chất steron nhu: stigmasteron, sitosteron và một số sapogenon khác. [1] Thành phần hoá thảo mộc trong Ðậu nành Ðiều làm các nhà khoa học thích thú nhất trong những năm nghiên cứu gần đây là sự khám phá ra các hoá thảo mộc có trong Ðậu nành và những ứng dụng của chúng trong linh vực y khoa trị liệu. Viện ung thư quốc gia Hoa Kì, viện đại học Havard, viện đại học Alabama, Minnesota, Helsinki và Finland đã thực hiện nhiều công trình khảo cứu khoa học đã xác định những lợi ích của các hoá thảo Đậu nành. Họ đã thấy rằng sự tiêu thụ những chất này không những có khả năng ngăn ngừa mà còn có khả năng trị liệu một số bệnh như: bệnh đau tim, bệnh tai biến mạch máu não, ung thư vú, ung thư nhiếp hộ tuyến và ung thư kết tràng…[7] Protease inhibitor Năm 1980, Dr. Walter troll thuộc trường đạii học y khoa New York university Medical Center đã khám phá ra rằng Đậu nành nguyên sơ có khả năng ngăn cản không cho bệnh ung thư phát triển trên các loài động vật, do tác động của chất protease inhibitors. Tiếp sau đó, nhiều nhà khoa học đã khảo sát và thử nghiệm chất protease inhibitors Đậu nành trong phòng thí nghiệm và thấy rằng nó có tác động chống lại sự phát triển mầm ung thư kết tràng, ung thu phổi, ung thu miệng… Protease inhibitor ngăn ngừa sự tác động của một số gen di truyền gây nên chứng ung thư. Nó cung bảo vệ các tế bào cơ thể không cho hư hại, gây nên bởi sự tác động của môi trường xung quanh nhu tia nắng phóng xạ và các chất có thể tấn công ADN. [2,7] Phytate[2,7] Phytate là một hợp thể chất khoáng phosphorus và inositon. Các nhà khoa học đã chứng minh phytate không những có tác động ngăn ngừa mầm ung thư mà còn có khả năng ngăn ngừa bệnh tim mạch. Hai nhà nghiên cứu Drs.E.Graf và J. W.Eator đã cho biết phytate bảo vệ chúng ta khỏi bệnh ung thư kết tràng, kết quả trong phòng thí nghiệm cho thấy phytate đã liên tiếp ngăn cản không cho bệnh ung thư kết tràng phát triển và không cho phát sinh mầm ung thư vú. Mặt khác phytate có tác động ngăn cản sự hấp thụ sắt trong ruột do đó bảo vệ chúng ta khỏi chứng có quá nhiều chất sắt vì chất sắt thặng dư cũng là một trong những yếu tố nguy hại đến chứng nhồi máu cơ tim. Phytates hành xử giống nhu chất antioxydant, vitamin C, Beta – carotin. Phytosteron [2,7] Phytosteron có liên hệ với cholesteron, tuy nhiên cholesteron chỉ có nơi các thực phẩm có nguồn gốc từ thịt động vật còn phytosteron chỉ có trong các thực phẩm rau đậu. Không giống như cholesteron, phytosteron có tác động ngăn ngừa các bệnh về tim mạch qua việc dành chổ thẩm thấu qua ruột của cholesteron để vào máu.Do đó cholesteron không vào máu được mà phải bài tiết ra ngoài, lượng cholesteron trong máu giảm, mức độ giảm tuỳ từng cá thể. Phytosteron cung có khả năng làm giảm sự phát triển các bướu ung thư kết tràng và chống lại ung thư da. Saponin Năm 2007 các nhà khoa học Hàn Quốc và Nhật Bản dùng bột Đậu nành đã khử dầu đem chiết xuất trong metanol, butanol 80%. Dịch chiết sau khi làm khô trong chân không được đem định tính bằng sắc kí lớp mỏng, sỏc kí lỏng hiệu năng cao HPLC và xác định cấu trúc bằng cách ghi phổ. Sau khi xác định thành phần saponin trong Đậu nành, các khoa học gia tiến hành thí nghiệm thử hoạt tính của saponin trên chuột đực 5 tuần tuổi bằng cách tiêm qua tĩnh mạch đuôi. Kết quả cho thấy saponin trong Đậu nành có tác động ngăn cản sự di căn của những tế bào ung thu. [9] Nhiều công trình nghiên cứu khác đã chỉ ra, saponin là một loại hoá thảo có đặc tính giống như antioxydant. Saponin có khả năng trực tiếp ngăn cản sự phát triển ung thư kết tràng đồng thời làm giảm lượng cholesteron trong máu. Phenolic axit [2,7] Phenolic axit là một hoá thảo chống oxy hoá anti – oxidant và phòng ngừa các nhiễm sắc thể AND khỏi bị tấn công bởi những tế bào ung thư. Lecithin [2,7] Khi nghiên cứu thành phần hoạt chất trong Đậu nành các nhà khoa học đã nhận thấy, đạm chất Đậu nành có chứa 3% lecithin bằng với lượng lecithin có trong lòng đỏ trứng gà. Lecithin là một hoá chất thực vật quan trọng, đóng một vai trò quyết định trong việc kích thích sự biến dưỡng ở khắp các tế bào co thể. lecithin có khả năng làm gia tăng trí nhớ bằng cách nuôi dưỡng tốt các tế bào não và hệ thần kinh, làm vững chắc các tuyến và tái tạo các mô tế bào cơ thể. Ngoài ra, lecithin có tác động cải thiện hệ thống tuần hoàn, bộ xương và tăng cường sức đề kháng. Khi hệ thần kinh thiếu năng lượng, chất lecithin ở Đậu nành sẽ phục hồi năng lượng đã mất. Browman– Birk Inhibitor (BBI) [2] BBI là một hoá thảo mới nhất tìm thấy trong Đậu nành, có khả năng ngăn cản tiến trình phát triển mầm ung thư. Trong nhiều năm qua, các nhà khoa học đã thí nghiệm và thành công trên các mẫu tế bào trong ống thí nghiệm và trong các thú vật qua hai dạng tinh chế PBBI và cô đặc BBIC. Theo báo cáo kết quả tường trình tại hội nghị khoa học thế giới về vai trò của Đậu nành trong việc phòng và trị bệnh (1996) thì PBBI và BBIC đã kiểm soát được sự phát triển tiến trình ung thư miệng, vú, ruột già, gan, phổi, thực quản cả các tế bào trong ống thí nghiệm lẫn ở các con chuột bạch và chuột đồng. Hiện nay BBI đã được dùng trên con người ở vài trung tâm nghiên cứu và kết quả sơ bộ rất khả quan. BBIC đã được thẩm định là loại thuốc mới bởi cơ quan F.D.A(the U.S.Food and Drug Administration). Omega – 3 fatty axit [2] Omega – 3 fatty axit là loại chất béo không bão hoà có khả năng làm giảm luợng cholesterol xáu LDL đồng thời làm gia tăng lượng cholesterol tốt HDL trong máu. Nhiều nghiên cứu khoa học đã xác nhận tiêu thụ nhiều Omega – 3 fatty axit giúp ngăn chặn sự phát triển của các bệnh tim mạch. Isoflavone Do những tính năng kì diệu trong việc phòng và điều trị bệnh, đặc biệt là các căn bệnh thời đại, isoflavone đang là hoá thảo thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học hiện nay. THÀNH PHẦN VÀ HOẠT TÍNH ISOFLAVONE TRONG ĐẬU NÀNH Thành phần isoflavone trong Đậu nành Năm 2005, các nhà khoa học Brazil dã tiến hành phân tích 18 mẫu Đậu nành. Mục đích của thí nghiệm là xác định thành phần hợp chất isoflavon từ đó so sánh tỷ lệ các chất trong 18 mẫu. Qua phân tích, cho thấy isoflavon trong Đậu nành là một hợp chất phenolic gồm có: aglucone (daidzein, genistein và glyxitein), ß – glucozit (genistin, daidzin, glyxitin), ß – glucozit kết hợp với nhóm malonyl ( 6 ” - O – malonyldaidzin, 6 ” – O – malonylgenistin và 6 ” – O – malonylglycitin), ß - glucozit kết hợp với nhóm axetyl ( 6 ” – O – axetyldaidzin, 6 ” – O - axetylgenistin và 6 ” – O – axetylglycitin). [10] Bằng các phương pháp sắc kí HPLC/DAD và phổ UV các nhà khoa học Bồ Ðào Nha cũng đã xác định thành phần của isoflavone trong 40 mẫu hạt Đậu nành. Sau khi so sánh với các kết quả nghiên cứu đã được thực hiện trước đó với kết quả phân tích trong thí nghiệm, các khoa học gia khẳng định trong hạt Đậu nành các aglucone chiếm một lượng nhỏ, hợp chất chính trong hạt Đậu nành là các dẫn xuất malonyl và dẫn xuất axetyl của ß – glucozit. Báo cáo còn chỉ ra trong hạt Đậu nành còn chứa các aglucone : sissotrin, ononin; các dẫn xuất axetyl của ß – glucozit : 6 ” – axetylsissotrin, 6 ” – axetylononin; các dẫn xuất malonyl của ß – glucozit : 6 ” - malonylsissotrin, 6 ” – malonylononin. [11] Năm 2006 các nhà khoa học Hàn Quốc đã thực hiện một nghiên cứu so sánh thành phần isoflavone trong phôi, lá mầm, hạt và vỏ hạt Đậu nành. Kết quả nhận được, tổng tỷ lệ trung bình của isoflavone là 2887µg/g trong phôi, 575µg/g trong hạt, 325µg/g trong lá mầm, 33µg/g trong vỏ
Tài liệu liên quan