Chỉnh hình tai giữa ở tai duy nhất còn nghe được luôn là thách thức đối với
tất cả các phẫu thuật viên về tai(0), vì một sai sót dù nhỏ trong phẫu thuật
cũng có thể làm sức nghe giảm hơn hay điếc hoàn toàn(16), trong khi người
bệnh luôn mong muốn sức nghe trở về bình thường sau phẫu thuật(9). Cho
nên, việc đánh giá trước mổ(2), lựa chọn kỹ thuật mổ tương thích cho từng
trường hợp cụ thể(15), luôn được quan tâm, cân nhắc, lựa chọn thật kỹ
lưỡng trước khi phẫu thuật nhằm đạt được kết quả tốt nhất về sức nghe cho
người bệnh(5). Trên thế giới đã có một số công trình nghiên cứu, báo cáo về
vấn đề này, song không nhiều. Tại Việt Nam, chưa ghi nhận báo cáo nào về
chỉnh hình tai giữa ở tai nghe duy nhất. Thực tế trong khi can thiệp phẫu
thuật về tai, không ít trường hợp chúng tôi đã can thiệp phẫu thuật chỉnh
hình tai giữa ở tai nghe duy nhất, do tổn thương bệnh lý ở tai rất phong phú,
đa dạng và phứctạp nên kết quả hồi phục sức nghe có khác nhau. Chính vì
vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Chỉnh hình tai giữa ở tai nghe duy
nhất” nhằm mục đích: ghi nhận tổn thương bệnh lý ở tai nghe duy nhất và
đánh giá liền kín màng nhĩ và hồi phục sức nghe sau phẫu thuật.
43 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1493 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chỉnh hình tai giữa ở tai nghe duy nhất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHỈNH HÌNH TAI GIỮA Ở TAI NGHE DUY NHẤT
TÓM TẮT
Mục tiêu: ghi nhận tổn thương bệnh lý ở tai nghe duy nhất; đánh giá liền kín
màng nhĩ và hồi phục sức nghe sau phẫu thuật.
Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu tiền cứu ở 30 bệnh nhân từ 9 đến 66
tuổi, trong thời gian 5 năm (2002 – 2007) tại khoa TMH bệnh viện Đại Học
Y Dược và bệnh viện Vạn Hạnh.
Kết quả:Về màng nhĩ: lỗ thủng màng nhĩ đơn thuần với nhiều kích thước và
vị trí khác nhau chiếm đa số 26 ca (86,8%), 4 ca còn lại (13,2%) là sụp nhĩ
hay túi lõm trong đó 2 ca có cholesteatoma. Về chuỗi xương con: tổn thương
rất phức tạp; chuỗi xương con còn liên tục về hình thái là 14 ca (46,7%), 16
ca (53,3%) có tổn thương xương con thực thể với nhiều mức độ khác nhau.
Về niêm mạc hòm nhĩ: chủ yếu là dày niêm mạc 26 ca (86,8%). Sức nghe
trước mổ: có 23 ca 76,7%) nghe kém dẫn truyền và 7 ca (23,3%) nghe kém
tiếp nhận. Kỹ thuật mổ: đa số là kỹ thuật underlay đơn thuần; những trường
hợp nặng có sự phối hợp của nhiều kỹ thuật khác nhau như: lấy bỏ túi lõm,
chỉnh hình xương con, … , có thể mổ 1 lần hay 2 hoặc 3 giai đoạn. Với thời
gian theo dõi 23,8 tháng, tỉ lệ liền kín màng nhĩ là 29 ca (96,7%); sức nghe
tăng nhiều ở nhóm nghe kém dẫn truyền, nhóm nghe kém tiếp nhận tăng ít
hơn. Có 4 ca nghe kém tần số cao sau phẫu thuật.
Kết luận: Cần khám và đánh giá thật kỹ để chọn lựa phương pháp phẫu thuật
tương thích từ đó sức nghe mới hồi phục tốt.
ABSTRACT
TYMPANOPLASTY ON THE ONLY HEARING EAR
Pham Ngoc Chat * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 1
- 2009: 250 - 255
Objectives: to record pathologic findings in the middle ear of the only
hearing ear; and to evaluate the tympanic membrane perforation healing and
the recovery of hearing postoperatively.
Methods: a prospective study of 30 patients, aged from 9 to 66 years old,
undergoing tympanoplasty surgery at ENT department of the hospital of the
University of Medicine and Pharmacy of Ho Chi Minh city and Van Hanh
hospital, between 2002 and 2007.
Results: Perforated eardrums: 26 cases (86.6%) had perforation only with
different sizes and locations , 4 cases (13.2%) had tympanic atelectasis or
retraction pockets (with cholesteatoma in 2 cases). Ossicles: the defect was
very complicated; 14 cases (46.7%) had intact ossicular chain, 16 cases has
ossicular defect with various degrees. Middle ear mucosa: most cases had
mucosal thickening (26 cases-866%). Preoperative audiogram: 23 cases
(76.7%) were conductive hearing loss, 7 cases (23.3%) were sensorineural
hearing loss. Surgical technique: underlay tympanoplasty technique was
perfomed in most cases; for the complicated cases, several techniques was
performed including retraction pocket removal, ossiculoplasty,… in one-
stage or two-stage or even three-stage surgery. The perforation healing was
found in 29 cases (96.7%), with the mean follow-up time were 23.3 months.
The recovery of hearing was high in the conductive hearing loss group and
was low in the sensorineural hearing loss group. 4 cases had hearing loss at
high frequencies.
Conclusions: it is very important to evaluate the middle ear carefully before
the surgery in order to get the good result of hearing postoperatively
ĐẶT VẤN ĐỀ
Chỉnh hình tai giữa ở tai duy nhất còn nghe được luôn là thách thức đối với
tất cả các phẫu thuật viên về tai(0), vì một sai sót dù nhỏ trong phẫu thuật
cũng có thể làm sức nghe giảm hơn hay điếc hoàn toàn(16), trong khi người
bệnh luôn mong muốn sức nghe trở về bình thường sau phẫu thuật(9). Cho
nên, việc đánh giá trước mổ(2), lựa chọn kỹ thuật mổ tương thích cho từng
trường hợp cụ thể(15), … luôn được quan tâm, cân nhắc, lựa chọn thật kỹ
lưỡng trước khi phẫu thuật nhằm đạt được kết quả tốt nhất về sức nghe cho
người bệnh(5). Trên thế giới đã có một số công trình nghiên cứu, báo cáo về
vấn đề này, song không nhiều. Tại Việt Nam, chưa ghi nhận báo cáo nào về
chỉnh hình tai giữa ở tai nghe duy nhất. Thực tế trong khi can thiệp phẫu
thuật về tai, không ít trường hợp chúng tôi đã can thiệp phẫu thuật chỉnh
hình tai giữa ở tai nghe duy nhất, do tổn thương bệnh lý ở tai rất phong phú,
đa dạng và phức tạp nên kết quả hồi phục sức nghe có khác nhau. Chính vì
vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Chỉnh hình tai giữa ở tai nghe duy
nhất” nhằm mục đích: ghi nhận tổn thương bệnh lý ở tai nghe duy nhất và
đánh giá liền kín màng nhĩ và hồi phục sức nghe sau phẫu thuật.
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Là những bệnh nhân hội đủ những điều kiện sau
- Tuổi ≥ 9 tuổi
- Một bên tai điếc hoàn toàn.
- Bên tai còn lại bị viêm tai giữa mạn.
- Tai không còn chảy dịch ³ 4 tuần.
- Các bệnh lý lân cận (xoang, amiđan,…) đã được điều trị ổn định.
- Không biến chứng nội sọ do tai; không dị dạng vùng đầu mặt cổ.
- Không có các bệnh nội khoa khác.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu tiền cứu mô tả hàng loạt ca.
Tiến hành nghiên cứu
- Nghiên cứu thực hiện tại khoa TMH bệnh viện Đại Học Y Dược; bệnh viện
Vạn Hạnh, trong thời gian 5 năm (2002 – 2007)
- Khám lâm sàng, làm xét nghiệm tiền phẫu, ghi nhận tổn thương tai, nội soi
lưu hình ảnh trước mổ, đo thính lực, …
- Can thiệp chỉnh hình tai giữa bằng cân cơ thái dương, theo kỹ thuật
underlay cơ bản hay underlay có tăng cường ½ trước, giải quyết túi lõm hay
cholesteatoma, có hay không có chỉnh hình xương con.
- Hẹn tái khám 1,3,6,12 tháng để đánh giá lành màng nhĩ và đó thính lực sau
mổ
Đánh giá kết quả sau mổ
Theo dõi ít nhất 6 tháng, các số liệu được xử lý với phần mềm thống kê
SPSS 15.0.
* ĐÁNH GIÁ MÀNG NHĨ
Màng nhĩ liền
Lỗ thủng màng nhĩ được bít kín.
Màng nhĩ không bị tù góc trước, không bị hút lõm hay di lệch.
Màng nhĩ không liền
Màng nhĩ không kín: còn lỗ thủng màng nhĩ (kích thước lỗ thủng bằng, lớn
hơn hay nhỏ hơn lỗ thủng trước mổ).
* ĐÁNH GIÁ SỨC NGHE
Sức nghe được đánh giá theo chuẩn thống nhất của:
+ Ủy Ban Thính Học và Thăng Bằng thuộc Hội Hàn Lâm về Tai-Mũi-
Họng và Phẫu Thuật đầu Cổ, Hoa Kỳ.
+ Ủy Ban Bảo Tồn Sức Nghe thuộc Hội Hàn Lâm Mắt – Tai Mũi Họng
Hoa Kỳ.
Tất cả các trường hợp nghiên cứu đều được đánh giá theo chuẩn thống
nhất như sau: Trung bình trước và sau mổ của đường dẫn truyền khí và dẫn
truyền xương của các tần số trong khoảng hội thoại (500,1000,2000 và 4000
Hz). Sức nghe được so sánh giữa thính lực đồ đo trong 1 tuần trước khi mổ
và thính lực đồ ở lần khám sau cùng.
KẾT QUẢ
Tổng số ca:
30 bệnh nhân
Tuổi
Tối thiểu
Tối đa
Trung bình
Tuổi
9
66
37,5
Giới
Giới
Số ca
Tỉ lệ %
Nam
12
40
Nữ
18
60
Tổng số
30
100
Tai điếc hoàn toàn
Tai điếc
Số ca
Tỉ lệ %
P
9
30
T
21
70
Tổng số
30
100
Tiền căn bên tai điếc
Tai điếc
Số ca
Tỉ lệ %
Không rõ
14
46,7
VTG
10
33,3
Đã phẫu thuật
6
20
Tổng số
30
100
Thời gian điếc (Tháng)
Số ca
Tối thiểu
Tối đa
Trung bình
13
11
240
94
17
Không rõ
Bên tai bệnh
Tai bệnh
Số ca
Tỉ lệ %
P
21
70
T
9
30
Tổng số
30
100
Điều trị tai bệnh
Điều trị
Số ca
Tỉ lệ %
Chưa
28
93,4
Vá nhĩ
1
3,3
SBTN
1
3,3
Tổng số
30
100
Tổn thương màng nhĩ
Màng nhĩ
Số ca
Tỉ lệ %
Thủng trung tâm
14
46,8
Thủng sát rìa trước
10
33,3
Thủng sát rìa sau
2
6,7
Túi lõm màng chùng
1
3,3
Sụp màng nhĩ
2
6,6
Túi lõm ¼ sau-trên
1
3,3
Tổng số
30
100
Kích thước lỗ thủng
Kích thước
Số ca
Tỉ lệ %
< 50%
5
16,6
50 – 75%
14
46,7
> 75%
8
26,7
Tổng số
27/30
90/100
Niêm mạc hòm nhĩ
Niêm mạc
Số ca
Tỉ lệ %
Bình thường
4
13,3
Dày
26
86,7
Tổng số
30
100
Tổn thương xương con
Xương con
Số ca
Tỉ lệ %
Bình thường
14
46,7
Cứng khớp
9
30
An mòn x.búa
1
3,3
Gián đoạn x.con
6
20
Tổng số
30
100
Cholesteatoma
Cholesteatoma
Số ca
Tỉ lệ %
Không
28
93,3
Có
2
6,7
Tổng số
30
100
Màng nhĩ còn lại (Rìa lỗ thủng)
Rìa lỗ thủng
Số ca
Tỉ lệ %
Bình thường
20
31,3
Teo mỏng
3
8,3
Sụp lõm
3
10,4
Dày lên
1
50
Tổng số
27/30
100
Sức nghe trước mổ:
Nghe kém
Số ca
Tỉ lệ %
Dẫn truyền
23
76,7
Tiếp nhận
7
23,3
Tổng số
30
100
Nghe kém dẫn truyền
Số ca
Tỉ lệ %
Độ 1
7
23,3
Độ 2
6
20,0
Độ 3
10
33,3
Tổng số
23/30
76,7/100
Nghe kém tiếp nhận
Số ca
Tỉ lệ %
Độ 2
2
6,7
Độ 3
4
13,3
Độ 4
1
3,3
Tổng số
7/30
23,3/100
Sức nghe giảm trung bình trước mổ
Sức nghe
trước mổ (dB)
Tối thiểu
Tối đa
Trung bình
31
93
49
Tổn thương tai giữa
Tổn thương tai giữa
Số ca
Tỉ lệ %
Thủng nhĩ đơn thuần
22
73,3
Thủng nhĩ+ GĐXC
4
13,3
Sụp lõm
2
6,7
Sụp lõm+GĐXC+Choles
2
6,7
Tổng số
30
100
Kỹ thuật mổ
Kỹ thuật THMN
Số ca
Tỉ lệ %
THMN Underlay
20
66,7
Underlay+Tăng cường ½ trước
6
20
THMN + CHXC
3
10
Lấy bỏ túi lõm
1
3,3
Tổng số
30
100
Số lần can thiệp phẫu thuật
Số lần phẫu thuật
Số ca
Tỉ lệ %
1
26
86,7
2
3
10,0
3
1
3,3
Tổng số
30
100
Thời gian theo dõi sau mổ
Thời gian theo dõi
sau mổ (tháng)
Tối thiểu
Tối đa
Trung bình
13
48
23,8
Kết quả màng nhĩ sau mổ
Màng nhĩ sau mổ
Số ca
Tỉ lệ %
Liền kín
29
96,7
Không liền
1
3,3
Tổng số
30
100
Sức nghe sau mổ (Nhóm dẫn truyền)
SN trước mổ
Sức nghe sau mổ
Bình thường
Độ 1
Độ 2
Độ 3
Độ 1 (7)
5
2
Độ 2 (6)
4
1
1
Độ 3 (10)
5
3
2
Sức nghe sau mổ (Nhóm tiếp nhận)
SN trước mổ
Sức nghe sau mổ
Độ 1
Độ 2
Độ 3
Độ 2 (2)
1
1
Độ 3 (4)
3
1
Độ 4 (1)
1
Giảm sức nghe ở tần số cao
Giảm tần số cao
Số ca
Tỉ lệ %
Không
26
86,7
Có
Dẫn truyền
3
10,0
Tiếp nhận
1
3,3
Tổng số
30
100
BÀN LUẬN
Nguyên nhân gây điếc một tai: thực tế cho đến nay chưa có tài liệu nào xác
định được nguyên nhân gây ra điếc hoàn toàn 1 bên tai, có thể do: bẩm sinh;
sử dụng thuốc; bệnh lý trước đó như viêm màng não, khối u(12); … .
Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận 14 ca (46,7%) không xác định được
nguyên nhân gây ra điếc; ở nhóm còn lại, qua bệnh sử, chúng tôi ghi nhận 2
nhóm nguyên nhân: (1) do viêm tai giữa mạn kéo dài, độc tố của vi khuẩn
trong những lần bội nhiễm gây chảy mủ tai hay các hóa chất trung gian trong
tiến trình viêm có thể ngấm qua màng của sổ tròn gây tổn thương tế bào lông
của ốc tai mà hệ quả là nghe kém tiếp nhận(8); chảy mủ tai tái đi tái lại
nhiều lần, kết quả sau cùng là nghe kém hỗn hợp hay điếc hoàn toàn. Đây có
lẽ cũng là nguyên nhân gây ra nghe kém hỗn hợp ở tai duy nhất còn lại mà
kết quả là sức nghe không thể hồi phục nhiều sau CHTG(10,1). Một số
trường hợp khác do can thiệp phẫu thuật tai trước đó, sau mổ người bệnh
không còn nghe được nữa, phẫu thuật chủ yếu là KRĐC hay SBTN hở, sau
mổ bị điếc hoàn toàn thường do đụng chạm quá mạnh vào chuỗi xương
con(8).
Tổn thương tai giữa ở tai nghe duy nhất: do một bên tai không còn nghe
được nữa nên bên tai còn lại dù biết rằng bị bệnh và nghe kém nhưng người
bệnh vẫn không muốn điều trị vì sợ rằng sẽ điếc luôn (đặc biệt là nhóm điếc
do phẫu thuật); do đó, bệnh lý VTG mạn ở tai duy nhất cứ âm thầm tiến triển
theo thời gian(2). Do bệnh tiến triển trong nhiều năm nên về mặt biểu hiện
lâm sàng rất phong phú đa dạng:
(1) Về màng nhĩ: đa số là lỗ thủng màng nhĩ đơn thuần với nhiều vị trí và
kích thước lỗ thủng khác nhau; một số khác là sụp lõm màng nhĩ, túi lõm
màng chùng hay màng căng ở ¼ sau-trên.
(2) Về chuỗi xương con: có thể đi kèm với nhưng tổn thương rất đa dạng
như: cứng khớp, tiêu cán búa, gián đoạn mấu dài xương đe, mất cành và
chỏm xương bàn đạp, … tổn thương chỗi xương con có thể đơn thuần hay
phồi hợp mà nặng nề nhất là tiêu mất toàn bộ chuỗi xương con(4,3)
Về niêm mạc hòm nhĩ: do viêm nhiễm kéo dài, mặt khác do niêm mạc hòm
nhĩ tiếp xúc trực tiếp với không khí kéo dài nên đa số trường hợp niêm mạc
hòm nhĩ dày lên (26 ca, 86,7%)(12); chỉ một số ít trường hợp niêm mạc hòm
nhĩ có vẻ còn bình thường. Niêm mạc hòm nhĩ dày lên là một dấu hiệu dự
báo kết quả không thật sự tốt sau CHTG do thông khí tai giữa sẽ bị giảm
đi(12,0) có 2 trường hợp (6,7%) ghi nhận có cholesteatoma kết hợp với túi
lõm màng chùng và túi lõm màng căng ở ¼ sau-trên, cholesteatoma phá hủy
chuỗi xương con, lan vào sào đạo, sào bào và xương chũm. Sự hiện diện của
chlesteatoma càng làm cho điều trị trở nên phức tạp hơn, khó khăn hơn rất
nhiều(9).
So sánh với nghiên cứu của các tác giả khác, biểu hiện lâm sàng của tai nghe
duy nhất của chúng tôi phong phú đa dạng hơn.
Sức nghe trước mổ ở tai nghe duy nhất: do thời gian bệnh lý kéo dài cùng
với tổn thương bệnh lý tai phối hợp đa dạng nên sức nghe trước mổ giảm
khá nhiều, có thể phân chia thành 2 nhóm:
(1) Nhóm nghe kém dẫn truyền: chiếm đa số (23 ca, 76,7%), trong đó nghe
kém dẫn truyền độ 3 chiếm tỉ lệ cao hơn (10 ca, 33,3%), số còn lại chia đều
cho độ 1 và độ 2.
(2) Nhóm nghe kém tiếp nhận: tuy chỉ có 7 ca (23,3%) nhưng rải rác đều từ
độ 2 đến độ 4. Do yêu cầu phục hồi chức năng nghe của người bệnh, trong
khi sức nghe giảm nhiều là một áp lực tâm lý đè nặng lên phẫu thuật viên,
nhất là trong điều kiện thực tế ở Việt Nam. Với những trường hợp tổn
thương tai duy nhất còn nghe được nhưng bệnh lý nặng như: cholesteatoma,
túi lõm, … một vài tác giả cho rằng giải quyết “tai an toàn” là quan trọng
nhất(13), sức nghe không hồi phục có nhiều cách khác giải quyết như đeo
máy trợ thính, BAHA hay cấy điện ốc tai(1); … thực tế tại Việt Nam, những
phương tiện trên chưa thể phổ cập một cách rộng rãi được, do đó sức nghe
của người bệnh hồi phục nhiều hay ít chủ yếu dựa vào tay nghề, kinh
nghiệm của phẫu thuật viên(11), điều kiện trang thiết bị của bệnh viện cũng
như hiểu biết của người bệnh quyết định.
Kỹ thuật mổ và số lần phẫu thuật ở tai nghe duy nhất: do tổn thương tai giữa
đơn thuần chiếm đa số, một số ít là tổn thương phối hợp (thủng nhĩ với gián
đoạn xương con; thủng nhĩ với cố định xương con; xụp lõm với gián đoạn
xương con; túi lõm với cholesteatoma và gián đoạn xương con; …), mặt
khác các phương tiện hỗ trợ chẩn đoán như nội soi, x quang, CT scan, thính
lực, … chưa thể giúp đánh giá chính xác bản chất của tổn thương tai giữa,
cho nên trong lựa chọn phương pháp phẫu thuật đòi hỏi phẫu thuật viên có
nhiều kinh nghiệm về phẫu thuật tai(14). Với lỗ thủng màng nhĩ đơn thuần,
tùy theo vị trí mà chọn lựa những kỹ thuật khác nhau: underlay đơn thuần
hay underlay cải tiến, … với những tổn thương tai giữa phức tạp, đòi hỏi
phẫu thuật phải đơn giản nhưng hiệu quả, có thể mổ thành nhiều giai
đoạn(15). Với trường hợp lỗ thủng màng nhĩ với cholesteatoma và gián đoạn
xương con, phẫu thuật có thể chia thành 3 giai đoạn, lần 1: mổ lấy bỏ
cholesteatoma; lần 2: kiểm tra và lấy bỏ cholesteatoma tái phát và tạo hình
màng nhĩ; lần 3: kiểm tra lấy bỏ cholesteatoma tái phát (nếu có) và chỉnh
hình chuỗi xương con(2,8). Trong nghiên cứu của chúng tôi đã có trường
hợp phải tiến hành mổ 3 lần để giữ lại sức nghe cho người bệnh. Một số tác
giả cho rằng khi xương con bị gián đoạn, chức năng nghe sẽ phục hồi tốt
hơn khi chỉnh hình xương con thì 2(4).
Kết quả sau mổ: với thời gian theo dõi trung bình là 24 tháng, có 29 ca
(96,7%) màng nhĩ liền kín, chỉ có 1 ca (3,3%) màng nhĩ không liền. Về sức
nghe, với nhóm nghe kém dẫn truyền, sức nghe có thể trở về bình thường
hoàn toàn khi chuỗi xương con bình thường và còn rung tốt(4), khi chuỗi
xương con còn nguyên vẹn nhưng đã bị cứng khớp nhiều hay ít, sức nghe
không thể trở về bình thường được(6). Ngay cả trong chỉnh hình xương con,
niêm mạc hòm nhĩ dày là một dấu hiệu xấu vì sẽ làm xơ dính, giảm rung của
xương bàn đạp và sức nghe hồi phục kém(5). Kết quả nghiên cứu ghi nhận
đa số có chuyển đổi sức nghe theo hướng tốt hơn, tuy nhiên một số ít trường
hợp sức nghe tăng lên ít hay không tăng. Với nhóm nghe kém tiếp nhận, do
tổn thương tế bào thần kinh thính giác nên về lý thuyết sức nghe chỉ cải
thiện trong khoảng khí-cốt đạo mà thôi(12), thực tế cho thấy có sự cải thiện
của đường xương, nên về lâm sàng có tăng sức nghe nhưng không nhiều.
Tuy nhiên, kết quả của chúng tôi có 4 trường hợp nghe kém tần số cao, có lẽ
do trong lúc phẫu thuật đã đụng chạm vào chuỗi xương con(3).
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu trên chúng tôi có thể rút ra kết luận:
- Tổn thương tai giữa ở tai nghe duy nhất có thể đơn thuần hay phối hợp, cần
phải đánh giá thật kỹ để từ đó lựa chọn phương pháp phẫu thuật thích hợp.
- Sức nghe trước mổ tùy thuộc vào tổn thương của tai; nghe kém dẫn truyền
có dự hậu tốt hơn nghe kém tiếp nhận.
- Tùy theo tổn thương của tai giữa mà lựa chọn kỹ thuật mổ tương thích, có
thể mổ một hay nhiều giai đoạn sao cho sức nghe hồi phục tốt nhất có thể
được.
- Kết quả liền kín màng nhĩ rất cao; sức nghe hồi phục tốt nếu chỉ là nghe
kém dẫn truyền; nghe kém tiếp nhận có sức nghe hồi phục sau mổ kém hơn.