Đề tài Chính sách đối ngoại Việt Nam trong nỗ lực gia nhập Asean (giai đoạn 1991-1995)

Từ sau Đại hội VII, các Hội nghị lần thứ hai và thứ ba Ban chấp hành TW Đảng ta đã đánh giá diễn biến tình hình thế giới và khu vực cũng như những tác động của diễn biến ấy đến chính sách đối ngoại của ta. Những diễn biến trong quan hệ quốc tế từ đó đến nay càng khẳng định và cho thấy rõ thêm những đánh giá cơ bản về cục diện thế giới và những xu thế chủ yếu trong quan hệ quốc tế. Với thời gian, chúng ta ngày càng nhận thức được ý nghĩa cực kì quan trọng của chính sách đối ngoại theo định hướng mới của Đảng và Nhà nước ta. Hạt nhân của chính sách định hướng mới này là đường lối độc lập tự chủ và đa dạng hóa được triển khai từ những tháng cuối năm 1991. Với định hướng này, chúng ta đã và đang thực hiện một bước chuyển căn bản về tư duy và thực tiễn của hoạt động đối ngoại. Kiên trì đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, chúng ta lấy mục tiêu hòa bình và phát triển làm chuẩn mực trong mọi hoạt động quốc tế của mình. Để thực hiện mục tiêu ấy, trong khi triển khai đường lối đa dạng và đa phương hóa quan hệ, chúng ta coi trọng việc tạo ra những chuyển biến cơ bản trong quan hệ với các nước lớn và thúc đẩy nhanh quan hệ với các nước trong khu vực. Mở ra và tăng cường quan hệ với các nước lớn là tạo điều kiện để thực sự tham gia vào quá trình hòa nhập thế giới, trong khi đẩy nhanh quan hệ với các nước ở khu vực Đông Nam Á tạo điều kiện cho ta tích cực tham gia quá trình hòa nhập khu vực. Phải nói rõ rằng, sở dĩ cần đặc biệt coi trọng chính sách khu vực bởi vì tính chất địa lý – chính trị đặc biệt của nó. Có thể nói, hội nhập khu vực chính là sự bắc cầu để bước vào hội nhập với thế giới, nhất là khi xu thế khu vực hóa ngày càng phổ biến trên trường quốc tế. Trong giai đoạn 1991 – 1995, khu vực Đông Nam Á có những thay đổi tích cực chưa từng thấy theo hướng tăng cường thiết lập và đẩy mạnh sự liên kết trong khu vực, tiến tới xây dựng một khu vực hòa bình, thịnh vượng. Sự đối lập và đối đầu trước đây đã nhường chỗ cho các quan hệ hữu nghị và hợp tác vì lợi ích chung và lợi ích của mỗi nước.

doc15 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1911 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Chính sách đối ngoại Việt Nam trong nỗ lực gia nhập Asean (giai đoạn 1991-1995), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU LUẬN CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI VIỆT NAM TRONG NỖ LỰC GIA NHẬP ASEAN (GIAI ĐOẠN 1991-1995) Danh sách thành viên: Nguyễn Quốc Nghĩa (Nhóm trưởng) Nguyễn Thị Thơm Lê Ngọc Hà Nguyễn Thị Thu Hằng Trần Thị Thúy Ngô Vân Khanh Bùi Thị Phương Hiền MỤC LỤC I. Lời nói đầu 3 II. Bối cảnh. 4 1. Tình hình quốc tế: 4 2. Tình hình khu vực: 5 3. Tình hình trong nước: 5 III. Chính sách đối ngoại Việt Nam đối với ASEAN (1991- 1995) 6 1. Mục tiêu, nhiệm vụ và phương châm chỉ đạo: 6 2. Chính sách 7 3. Quá trình triển khai và kết quả: 7 a. Về chính trị, ngoại giao, an ninh: 8 b. Về kinh tế: 8 c. Về văn hoá, xã hội: 9 4. Đánh giá kết quả triển khai chính sách 10 IV. “Tại sao Việt Nam lại chọn thời điểm này mà không phải sớm hơn hay muộn hơn để gia nhập ASEAN ?” 11 V. Tổng kết 13 Lời nói đầu Từ sau Đại hội VII, các Hội nghị lần thứ hai và thứ ba Ban chấp hành TW Đảng ta đã đánh giá diễn biến tình hình thế giới và khu vực cũng như những tác động của diễn biến ấy đến chính sách đối ngoại của ta. Những diễn biến trong quan hệ quốc tế từ đó đến nay càng khẳng định và cho thấy rõ thêm những đánh giá cơ bản về cục diện thế giới và những xu thế chủ yếu trong quan hệ quốc tế. Với thời gian, chúng ta ngày càng nhận thức được ý nghĩa cực kì quan trọng của chính sách đối ngoại theo định hướng mới của Đảng và Nhà nước ta. Hạt nhân của chính sách định hướng mới này là đường lối độc lập tự chủ và đa dạng hóa được triển khai từ những tháng cuối năm 1991. Với định hướng này, chúng ta đã và đang thực hiện một bước chuyển căn bản về tư duy và thực tiễn của hoạt động đối ngoại. Kiên trì đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, chúng ta lấy mục tiêu hòa bình và phát triển làm chuẩn mực trong mọi hoạt động quốc tế của mình. Để thực hiện mục tiêu ấy, trong khi triển khai đường lối đa dạng và đa phương hóa quan hệ, chúng ta coi trọng việc tạo ra những chuyển biến cơ bản trong quan hệ với các nước lớn và thúc đẩy nhanh quan hệ với các nước trong khu vực. Mở ra và tăng cường quan hệ với các nước lớn là tạo điều kiện để thực sự tham gia vào quá trình hòa nhập thế giới, trong khi đẩy nhanh quan hệ với các nước ở khu vực Đông Nam Á tạo điều kiện cho ta tích cực tham gia quá trình hòa nhập khu vực. Phải nói rõ rằng, sở dĩ cần đặc biệt coi trọng chính sách khu vực bởi vì tính chất địa lý – chính trị đặc biệt của nó. Có thể nói, hội nhập khu vực chính là sự bắc cầu để bước vào hội nhập với thế giới, nhất là khi xu thế khu vực hóa ngày càng phổ biến trên trường quốc tế. Trong giai đoạn 1991 – 1995, khu vực Đông Nam Á có những thay đổi tích cực chưa từng thấy theo hướng tăng cường thiết lập và đẩy mạnh sự liên kết trong khu vực, tiến tới xây dựng một khu vực hòa bình, thịnh vượng. Sự đối lập và đối đầu trước đây đã nhường chỗ cho các quan hệ hữu nghị và hợp tác vì lợi ích chung và lợi ích của mỗi nước. Xây dựng quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước láng giềng trong môi trường hòa bình ổn định luôn là một ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra chủ trương phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước Đông Nam Á, bày tỏ mong muốn sẵn sàng cùng các nước trong khu vực thương lượng để giải quyết các vấn đề ở Đông Nam Á, thiết lập quan hệ để cùng tồn tại hòa bình, xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình, ổn định và hợp tác. Đại hội VII khẳng định chủ trương mở rộng quan hệ với các nước Đông Nam Á về nhiều mặt theo nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, không can thiệp vào nội bộ của nhau, hai bên cùng có lợi. Trong khuôn khổ bài tiểu luận này, chúng tôi sẽ đi sâu phân tích chủ trương, quá trình hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta nhằm mục tiêu chủ động hội nhập khu vực và gia nhập ASEAN. Bài tiểu luận được triển khai như sau: Phần I: Bối cảnh: phần này chủ yếu nêu tình hình quốc tế, khu vực và trong nước giai đoạn 1991-1995 Phần II: Chính sách đối ngoại Việt Nam – ASEAN giai đoạn 1991-1995: gồm các phần Chính sách, Triển khai chính sách, Kết quả và đánh giá kết quả triển khai chính sách. Phần III: Lí giải nỗ lực của Việt Nam trong việc gia nhập ASEAN vào thời điểm này. Những lý giải cho nỗ lực của Việt Nam trong việc gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á sớm hơn dự kiến sẽ là câu trả lời cho câu hỏi nghiên cứu: “Tại sao Việt Nam lại chọn thời điểm này mà không phải sớm hay muộn hơn để gia nhập ASEAN ?”. Bối cảnh. Tình hình quốc tế: Cục diện thế giới giai đoạn này có sự thay đổi sâu sắc. Tháng 12/1991, Liên Xô tan rã, khối Vacsava giải thể, “chiến tranh lạnh”kết thúc, thế giới với hai cực đối đầu không còn.Cách mạng thế giới lâm vào giai đoạn thoái trào, các mâu thuẫn cơ bản của thời đại vẫn tồn tại và phát triển dưới nhiều hình thức mới. Trong giai đọan này, nguy cơ chiến tranh thế giới có tính hủy diệt bị đẩy lùi. Xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ, xung đột về dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, và đặc biệt là nạn khủng bố lại diễn ra ngày càng tăng ở nhiều khu vực. Tuy nhiên xu thế chủ đạo giai đoạn này là các quốc gia cùng hòa bình hợp tác và phát triển. Xu thế toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập quốc tế ngày càng tăng tạo ra những cơ hội cho quá trình phát triển nhưng cũng có những thách thức gay gắt đối với tất cả các nước. Giai đoạn này cũng đánh dấu sự xuất hiện của một loạt những tổ chức khu vực như Khu vực Tự do thương mại Bắc Mỹ (NAFTA), Khu vực tự do thương mại (AFTA), Cộng đồng phát triển miền Nam châu Phi (COMESA)… Hội nhập kinh tế giờ đây trở thành xu thế tất yếu. Các nước đều ưu tiên phát triển kinh tế vì kinh tế đang trở thành nhân tố quyết định trong sức mạnh tổng hợp của mỗi quốc gia. Các nước cũng đẩy mạnh đa dạng hóa quan hệ đối ngoại nhằm tạo thuận lợi cho an ninh và phát triển của mình. Có thể nói, đa dạng hóa quan hệ chính trị và kinh tế trở thành một xu thế chủ đạo của đời sống quốc tế. Tình hình khu vực: Tình hình châu Á- Thái Bình Dương nói chung và Đông Nam Á nói riêng có nhiều biến đổi sâu sắc. Đông Á trở thành khu vực có tốc độ tăng trưởng cao hàng đầu trên thế giới; một số quốc gia và vùng lãnh thổ vươn lên trở thành “con rồng”, “con hổ”mới về kinh tế. Các nước trong khu vực đều có nguyện vọng cùng tồn tại trong hòa bình, hữu nghị và hợp tác để phát triển. Sự hợp tác ngày càng tăng ở nhiều hình thức và nhiều lĩnh vực như tổ chức Hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), khu vực thương mại tự do ASEAN(AFTA), Hiệp hội hợp tác khu vực Nam Á(SAARC)….Mặc dù cuối những năm 1990, các nước ở Đông Á lâm vào cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, kéo theo khủng hoảng kinh tế- xã hội nghiêm trọng gây ra nhiều bất lợi cho các nước trong khu vực song đây vẫn là khu vực rộng lớn, tập trung những nước đông dân nhất, tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng, nằm trên trục giao thông quan trọng bậc nhất thế giới, vẫn được coi là khu vực đầy tiềm năng, có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn các khu vực khác và không ngừng lớn mạnh. Tại Đông Nam Á, giải pháp chính trị cho Campuchia với việc kí kết Hiệp định Paris ngày 23/10/1991, sau đó tổng tuyển cử được tiến hành vào tháng 6/1993 bầu ra Quốc hội mới và Chính phủ liên hiệp hai Đảng ở Campuchia được thành lập, đã làm quan hệ giữa hai nhóm nước ASEAN và Đông Dương thay đổi cơ bản, chuyển từ trạng thái đối đầu sang đối thoại, thúc đẩy hòa bình, hữu nghị và hợp tác. Cùng năm đó, Mỹ rút quân khỏi hai căn cứ không quân Clác và hải quân Xubích ở Philippin. Như vậy, đây là lần đầu tiên trong lịch sử từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Đông Nam Á không có căn cứ quân sự và quân đội nước ngoài, và không còn đối đầu nữa. Tuy nhiên, vẫn còn hiện hữu mẫu thuẫn về lợi ích giữa các nước lớn có ảnh hưởng trong khu vực và những toan tính của họ nhằm tác động, can thiệp vào công việc nội bộ của khu vực. Tình hình trong nước: Ở trong nước, lúc này đã giải quyết xong vấn đề Campuchia, ta từng bước cải thiện quan hệ với các quốc gia trong khu vực cũng như các quốc gia có ảnh hưởng lớn trên thế giới. Quốc phòng được giữ vững, an ninh được đảm bảo. Từng bước, đất nước ta phá thế bao vây về kinh tế và chính trị, mở rộng quan hệ quốc tế, tạo ra môi trường thuận lợi hơn cho công cuộc xây dựng và bảo về tổ quốc. Kế hoạch đổi mới toàn diện 5 năm lần thứ nhất (1986-1991) tại Đại hội Đảng VI đã đạt được những thành tựu đáng kể trước hết thể hiện ở đổi mới tư duy kinh tế, xóa cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập quốc tế, điều chỉnh chính sách đối ngoại thành đa phương hóa, Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước….đề ra Cương lĩnh chính trị cho thời kì mới (1991). Nước ta tiếp tục đề ra những mục tiêu và nhiệm vụ về mọi mặt cho kế hoạch 5 năm tiếp theo (1991-1996) tại Đại hội Đảng VII. Chính sách đối ngoại Việt Nam đối với ASEAN (1991- 1995) Mục tiêu, nhiệm vụ và phương châm chỉ đạo: Nhiệm vụ đối ngoại bao trùm trong thời gian tới là giữ vững hoà bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Cần nhạy bén nhận thức và dự báo được những diễn biến phức tạp và thay đổi sâu sắc trong quan hệ quốc tế. Trong điều kiện mới cần phải coi trọng và vận dụng bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại. Ta chủ trương hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị-xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình. Không ngừng củng cố và phát triển quan hệ đoàn kết và hữu nghị đặc biệt giữa Đảng và nhân dân ta với Đảng và nhân dân Lào, Đảng và nhân dân Campuchia anh em. Đổi mới phương thức hợp tác, chú trọng hiệu quả theo nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và lợi ích chính đáng của nhau. Phấn đấu góp phần sớm đạt được một giải pháp chính trị toàn bộ về vấn đề Campuchia, trên cơ sở tôn trọng chủ quyền của Cam-pu-chia và Hiến chương Liên hợp quốc. Trong thời kỳ 1991-1996, khi vấn đề Campuchia đã cơ bản được giải quyết, Việt Nam ngày càng có những mối quan hệ khăng khít hơn với các nước trong khu vực. Nhận thức được sự mở ra một thời kì mới và rút kinh nghiệm từ kết quả của những chính sách trong giai đoạn 1986-1991, Đại hội VII đã tuyên bố:”Chúng ta chủ trương hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị-xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình. Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Năm 1991, Nghị quyết TW III cũng khẳng định tư tưởng chủ đạo: “Gĩư vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất, chủ nghĩa xã hội, đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của nước ta cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực với đặc điểm từng đối tượng quan hệ”. Với những mục tiêu đã đặt ra như trên, Việt Nam cũng đưa ra những phương châm nhằm đảm bảo phương hướng thực hiện đã đề ra: Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yếu nước với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Giữ vững độc lập dân tộc, tự lực tự cường, đẩy mạnh đa dạng hoá, đa phương hoá. Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế. Ưu tiên tham gia hợp tác khu vực, đồng thời chú trọng phát triển quan hệ với tất cả các nước. Chính sách Đảng và Nhà nước ta chủ trương “tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa. Việt Nam muốn làm bạn với các nước trong cộng đồng thế giới phấn đầu vì hòa bình, độc lập và phát triển.”(Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, tháng 1/1994). Đại hội VII chú trọng những chủ trương, chính sách để phát triển quan hệ hữu nghị với Đông Nam Á và Châu Á-Thái Bình Dương, phấn đấu cho một Đông Nam Á hoà bình, hữu nghị và hợp tác. Ngày 15/10/1993, đồng chí Đỗ Mười đã nêu lên chính sách 4 điểm: Chính sách đối ngoại đa dạng hoá, đa phương hoá. Phát triển quan hệ với từng nước và tổ chức ASEAN, sẵn sàng gia nhập ASEAN. Sẵn sàng tham gia các diễn đàn đảm bảo hoà bình, an ninh, xây dựng khu vực Đông Nam Á thành khu vực hoà bình, hợp tác, phát triển, không có căn cứ quân sự nước ngoài, không vũ khí hạt nhân. Thông qua thương lượng giải quyết vấn đề tồn tại, kể cả tranh chấp ở Biển Đông. Theo đó, Việt Nam coi trọng phát triển quan hệ hữu nghị với Đông Nam Á và Châu Á-Thái Bình Dương, phấn đấu cho một Đông Nam Á hoà bình, hữu nghị và hợp tác. Quá trình triển khai và kết quả: Trước những nhiệm vụ và chính sách đã được đề ra ở Đại hội VII và Nghị quyết TW III, Việt Nam đã có hàng loạt những hoạt động thiết thực: Về chính trị, ngoại giao, an ninh: Tháng 10/1991 và đầu năm 1992, Việt Nam đã cử đoàn cấp cao đi thăm các nước ASEAN, mở ra giai đoạn mới trong quan hệ với các nước trong khu vực. Các nước ASEAN đã bỏ những hạn chế về thương mại và đầu tư với Việt Nam, từng bước phát triển quan hệ với Việt Nam. Việt Năm cũng đón các đoàn cấp cao của ASEAN. Việt Nam đã tiến hành giải quyết những vấn đề tồn tại với các nước ASEAN bằng thương lượng: với Malaysia thoả thuận việc cùng khai thác vùng chống lấn, hồi hương người di tản; Thái Lan tiếp tục giải quyết thuận lợi cho Việt Kiều nhập quốc tịch; khai thông hợp tác sông Mêkông; lập quỹ khu vực; duy trì viện trợ; thoà thuận về vùng chống lấn trên biển. Ta cùng tiến hành giải quyết với Inđônêsia về phân định lãnh hải giữa hai nước. Năm 1992, Việt Nam gia nhập hiệp ước Bali, trở thành quan sát viên của ASEAN. Tháng 7/1994 Việt Nam tham gia ARF và trở thành thành viên sáng lập của ARF. Nhằm tạo môi trường thuận lợi hơn nữa cho sự tham gia của Việt Nam vào quá trình hợp tác khu vực, nhất là vào ASEAN, tháng 2-1993, Việt Nam tuyên bố sẵn sàng tham gia ASEAN vào thời điểm thích hợp và trong chuyến tham chính thức Inđônêxia, Chủ tịch Lê Đức Anh tuyên bố: “Việt Nam đang xúc tiến những công việc chuẩn bị thiết thực để sớm trở thành thành viên đầy đủ của ASEAN”. Tháng 7/1995: Việt Nam gia nhập ASEAN, đây là một quyết định chiến lược, đúng đắn và kịp thời, phù hợp với xu thế khu vực hóa, quốc tế hóa và lợi ích của Việt Nam. Việc Việt Nam gia nhập ASEAN đã góp phần quan trọng vào việc củng cố xu thế hòa bình hợp tác ở khu vực, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược hòa bình và phát triển ở Việt Nam. Về kinh tế: Từ khi gia nhập ASEAN, Việt Nam đã thực hiện lộ trình AFTA, tích cực tham gia mọi chương trình hợp tác kinh tế của ASEAN, phù hợp với quyền lợi của đất nước. Từ năm 1995, Việt Nam đã đưa vào danh sách CEPT 4233 mặt hàng, chiếm 67% trong tổng số 6332 mặt hàng trong biểu thuế thu nhập ưu đãi MFN. Về quan hệ mậu dịch giữa Việt Nam và ASEAN từ thập niên 1990, nhất là sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN năm 1995, tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm đạt trên 20%. Năm 1994, tổng giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam với ASEAN chiếm tỷ trọng 21%. Thương mại Việt Nam – ASEAN tăng 26,8%/năm, chiếm 32,4% tổng kim ngạch. Đến quý II/1997 ASEAN có 331 dự án với tổng vốn là 7,9 tỉ đô la. Về đầu tư, đến tháng 6/1995, các nước ASEAN đầu tư vào Việt Nam gần 200 dự án với tổng số vốn pháp định trên 2 tỉ USD, chiếm 15% FDI vào nước ta thời điểm đó. Không chỉ hội nhập kinh tế với ASEAN, Việt Nam cùng các nước này mở rộng không gian hợp tác kinh tế với các nước Đông Nam Á (ASEAN +3), với các nước EU trong khuôn khổ ASEM, với các nước châu Á – Thái Bình Dương trong khuôn khổ APEC. Việt Nam luôn phấn đấu phát triển kinh tế đạt tốc độ cao, trung bình khoảng 7%. Tuy vẫn còn là nước nghèo nhưng chúng ta đã rút ngắn được một chút khoảng cách tụt hậu về kinh tế với các nước ASEAN-6. Việt Nam cũng đã ruta ngắn khoảng cách GDP/đầu người so với các nước trong khu vực. Tốc độ thu nhập bình quân đầu người theo sức mua tương đương hàng năm từ năm1994 của Việt Nam đạt khoảng 7%, cao hơn so với các nước trong khu khối. Điều lớn nhất Việt Nam đạt được từ khi hợp tác với các nước trong khu vực và gia nhập tổ chức ASEAN là Việt Nam đã đoạn tuyệt với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển mạnh theo xu hướng kinh tế thị trường, vẫn giữ định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên những thành tựu mà Việt Nam đạt được còn chưa vững chắc, còn nhiều bất cập, nhiều thách thức, cần tiếp tục có những chủ trương, đường lối đúng đắn để đạt được những thành quả lớn hơn nữa trong mọi lĩnh vực. Về văn hoá, xã hội: Việt Nam đã tích cực hội nhập với Đông Nam Á và thế giới, giữ vững bản sắc văn hoá dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hoá của khu vực và thế giới; giao lưu học hỏi, tăng cường hiểu biết lẫn nhau giữa các nước bạn bè ASEAN. Trong đó, các trường đại học, các trung tâm nghiên cứu đã góp phần quan trọng vào công việc này. Hàng ngàn sinh viên theo học ngành Đông Phương học là nguồn nhân lực chất lượng cao cho các cơ quan ngoại giao, cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp. Viện nghiên cứu Đông Nam Á là cơ quan nghiên cứu hàng đầu của cả nước, đã công bố rất nhiều công trình có giá trị về Đông Nam Á, về quan hệ Việt Nam – ASEAN. Việc trao đổi văn hoá giáo dục với các nước ASEAN cũng được mở rộng. Có sự trao đổi biểu diễn của các đoàn nghệ thuật Việt Nam ở các nước bạn cũng như các đoàn nghệ thuật các nước ASEAN đến Việt Nam giới thiệu, giao lưu với nhau về các nền văn hoá nghệ thuật phong phú, đậm đà bản sắc của các dân tộc Đông Nam Á. Mạng lưới đại học ASEAN tuy đã hình thành nhưng sự hợp tác giáo dục đại học giữa các nước còn rất hạn chế, cần phải tăng cường hợp tác cả bề rộng lẫn bề sâu hơn nữa. Kinh tế phát triển, du lịch giữa công dân các nước ASEAN ngày càng mở rộng. Đã có rất nhiều khách du lịch đến Việt Nam cũng như hàng chục nghìn người Việt Nam đến các nước ASEAN. Qua những con người cụ thể, “tinh thần cộng đồng ASEAN”dần dần hình thành. Đánh giá kết quả triển khai chính sách Chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1991 – 1995 đã thu được nhiều thành tựu to lớn. Đặc biệt năm 1995 là đỉnh cao của đối ngoại Việt Nam: chúng ta đã phá được thế bao vây, cấm vận kinh tế và đã thành công trong chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại. Để đạt được những thành tựu này, việc hoạch định và triển khai thành công chính sách đối ngoại của ta với ASEAN đóng vai trò rất quan trọng. Ngày 28/7/1995, tại thủ đô Bandar Seri Begawan của Vương quốc Brunây, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 7 của tổ chức ASEAN là một thành công lớn của chính sách đối ngoại của ta giai đoạn 1991 – 1995. Đây là một bước tiến quan trọng nhất trong lịch sử quan hệ Việt Nam – ASEAN, đã mở ra một trang hoàn toàn mới, chuyển từ sự nghi kị, thù địch sang hữu nghị, hợp tác và phát triển. Việc Việt Nam gia nhập ASEAN năm 1995 là một bước chuyển đổi nhận thức và tư duy sâu sắc của không chỉ bản thân Việt Nam đối với ASEAN mà còn là sự thay đổi tư duy của ASEAN và thế giới về Việt Nam. Đây là bước đột phá trong quan hệ với các nước trong khu vực Đông Nam Á nói riêng và đối với quốc tế nói chung. Sự kiện này phù hợp với xu thế khu vực hoá đang diễn ra trên thế giới cùng như ở khu vực, đáp ứng lợi ích của cả nước ta và ASEAN cần có môi trường hoà bình, ổn định và đẩy mạnh hợp tác vì lợi ích phát triển, trùng với ý nguyện của nhân dân các nước, nhất là châu Á – Thái bình dương muốn được thấy một Đông Nam Á ổn định, mở rộng thêm thị trường và đối tác về kinh tế - thương mại, khoa học - công nghệ, văn hoá - xã hội. Như vậy thì nước ta gia nhập ASEAN có lợi cho xu thế chung là hoà bình và hợp tác. Việc đó không gây trở ngại mà còn hỗ trợ cho việc thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, mở rộng hơn nữa quan hệ hữu nghị hợp tác với tất cả các nước theo khẩu hiệu “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.” Việc Việt Nam gia nhập ASEAN đã tạo nên một tiền lệ để biến khu vực Đông Nam Á thành khu vực thống nhất trong đa dạng. Trước khi Việt Nam gia nhập vào ASEAN thì ASEAN là một tổ chức bao gồm các nước có cùng một hệ thống chính