Từ xa xưa, khi quan hệ trao đổi, mua bán hàng hoá bắt đầu phát triển thì “lãi suất” bắt đầu hình thành. Lãi suất tín dụng là một phạm trù kinh tế tổng hợp mang tính lịch sử, nó có liên quan chặt chẽ đến một số phạm trù kinh tế khác, và đóng vai trò như¬ một đòn bẩy kinh tế cực kỳ nhạy bén. Quan trọng hơn cả, lãi suất là công cụ điều hành nền kinh tế ở tầm vĩ mô. Lãi suất là một trong những vấn đề đư¬ợc quan tâm nhiều nhất trong các vấn đề kinh tế.
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về lãi suất, theo Sammuelson “Lãi suất là giá của ngư¬ời đi vay phải trả cho ng¬ười cho vay để sử dụng một khoản tiền trong một khoảng thời gian xác định”.
25 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1355 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách lãi suất & tác động của nó đến nền kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chính sách lãi suất & tác động của nó đến nền kinh tế thị trường.
CHƯƠNG I . NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ
LÃI SUẤT VÀ CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT
1.1 KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA LÃI SUẤT
1.1.1 Khái niệm
1.1.2 Đặc điểm
1.2 CÁC LOẠI LÃI SUẤT TÍN DỤNG.
1.2.1 Nhóm lãi suất chịu tác động của quan hệ cung – cầu vốn
1.2.2 Nhóm lãi suất do Ngân hàng Nhà nước công bố được sử dụng để điều hành chính sách tiền tệ
1.3 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN LÃI SUẤT
1.3.1 Lạm phát kỳ vọng
1.3.2 Đầu tư
1.3.3 Thuế thu nhập
1.3.4 Ngân sách của chính phủ
1.3.5 Các yếu tó khác của đời sống xã hội
1.4 VAI TRÒ CỦA LÃI SUẤT ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ
1.4.1 Vai trò Vĩ mô:
1.4.2 Vai trò vi mô
1.5 MỘT SỐ CHÍNH LÃI SUẤT TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.5.1 Chính sách lãi suất cố định
1.5.2 Chính sách lãi suất trần
1.5.3 Chính sách tự do hoá lãi suất
1.5.4 Chính sách lãi suất ưu đãi
CHƯƠNG II. PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT VIỆT NAM VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ TỚI TĂNG TRƯỞNG CỦA NÓ TỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ NƯỚC TA QUA MỘT SỐ GIAI ĐOẠN
2.1 GIAI ĐOẠN ĐẦU ĐỔI MỚI ( NĂM 1986 ĐẾN 1990)
2.1.1 Thực trạng và tình hình quản lý lãi suất giai đoạn này
2.1.2 Đánh giá những tác động của chính sách lãi suất tới nền kinh tế
2.2 CƠ CHẾ LÃI SUẤT TÍN DỤNG GIAI ĐOẠN TỪ 1991 ĐẾN 1995
2.2.1 Diễn biến quản lý lãi suất thời kỳ này
2.2.2 Đánh giá những tác động của chính sách lãi suất tới nền kinh tế
2.3 CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT GIAI ĐOẠN TỪ 1996 ĐẾN 2000
2.3.1 Thực trạng chính sách lãi suất giai đoạn này chưa cho phép tự do hóa hoàn toàn mà có sự điều tiết của Nhà nước.
2.3.2 Đánh giá những tác động của chính sách lãi suất tới nền kinh tế
2.4 GIAI ĐOẠN CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT CÓ NHIỀU ĐỔI MỚI THEO HƯỚNG TỰ DO HOÁ (NĂM 2000- ĐẾN NAY)
2.4.1 Tình hình quản lý lãi suất giai đoạn này
2.4.2 Đánh giá những tác động của chính sách lãi suất tới nền kinh tế:
CHƯƠNG III. CÁC GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI CHÍNH SÁCH
LÃI SUẤT TRONG THỜI GIAN TỚI.
3.1. HOÀN THIỆN MÔI TRƯỜNG TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT BẰNG VNĐ
3.2 NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CÁC CÔNG CỤ LS
3.3. KINH NGHIỆM Ở MỘT SỐ NƯỚC VÀ NHỮNG ĐIỀU RÚT RA TỪ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ĐỐI VỚI VN
CHƯƠNG I . NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ
LÃI SUẤT VÀ CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT
1.1 KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA LÃI SUẤT
1.1.1 Khái niệm
Từ xa xưa, khi quan hệ trao đổi, mua bán hàng hoá bắt đầu phát triển thì “lãi suất” bắt đầu hình thành. Lãi suất tín dụng là một phạm trù kinh tế tổng hợp mang tính lịch sử, nó có liên quan chặt chẽ đến một số phạm trù kinh tế khác, và đóng vai trò như một đòn bẩy kinh tế cực kỳ nhạy bén. Quan trọng hơn cả, lãi suất là công cụ điều hành nền kinh tế ở tầm vĩ mô. Lãi suất là một trong những vấn đề được quan tâm nhiều nhất trong các vấn đề kinh tế.
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về lãi suất, theo Sammuelson “Lãi suất là giá của người đi vay phải trả cho người cho vay để sử dụng một khoản tiền trong một khoảng thời gian xác định”.
1.1.2 Đặc điểm
Trong nền kinh tế thị trường, lãi suất có thể được thoả thuận giữa khách hàng và các tổ chức tín dụng (TCTD), giữa người đi vay và người cho vay… Sự tự do thoả thuận ấy đã dẫn đến hai đặc điểm chính của lãi suất:
- Tính cạnh tranh: Lãi suất huy động vốn hình thành trên cơ sở cạnh tranh giữa các Ngân hàng thương mại(NHTM, Tổ chức tín dụnh(TCTD)… Mỗi NHTM, TCTD… phải có lãi suất hấp dẫn để thu hút khách hàng trên nguyên tắc kinh doanh có hiệu quả và giữ được vị trí cạnh tranh với các NHTM và TCTD khác.
- Tính linh hoạt: Lãi suất tín dụng hình thành một cách linh hoạt, nhạy bén, thích ứng với mọi hoàn cảnh, đối tượng. Sự thay đổi thường xuyên của lãi suất tín dụng phù hợp với sự biến động của cung, cầu về vốn vay, tỷ lệ lạm phát, thu chi ngân sách Nhà nước, yếu tố tâm lý của người đi vay và người cho vay trên thị trường tiền tệ, tín dụng.
1.2 CÁC LOẠI LÃI SUẤT TÍN DỤNG.
Trên thực tế, lãi suất có thể có nhiều cách phân chia khác nhau như phân loại theo nội tệ và ngoại tệ, phân theo nghiệp vụ kinh doanh của các Tổ chức tín dụng, phân loại theo thời gian hay phân loại theo nội dung kinh tế...Ở đây, ta chia lãi suất trên thị trường theo các nhân tố tác động thành 2 nhóm:
1.2.1 Nhóm lãi suất chịu tác động của quan hệ cung – cầu vốn
- Lãi suất tín phiếu kho bạc, đóng vai trò là lãi suất chuẩn, thấp nhất trên thị trường tiền tệ
- Lãi suất các công cụ huy động vốn của các trung gian tài chính như tiền gửi, chứng chỉ tiền gửi, hối phiếu được NTTM chấp nhận...
- Lãi suất vay vốn giữa các NHTM trên thị trường tệ liên ngân hàng.
- Lãi suất của các khoản tín dụng ngắn hạn của các NHTM cho các doanh nghiệp vay, là lãi suất cao nhất trên thị trường tiền tệ, lãi suất của các NHTM lớn áp dụng cho các doanh nghiệp có uy tín là mức lãi suất thấp nhất trên thị trường này và thường gọi là lãi suất cho vay cơ bản (Prime rate bank loans)
1.2.2 Nhóm lãi suất do Ngân hàng Nhà nước công bố được sử dụng để điều hành chính sách tiền tệ
Các lãi suất này không được xác định chủ yếu theo quan hệ cung-cầu về vốn mà được Ngân hàng Nhà nước xác định tùy thuộc vào mục tiêu chính sách tiền tệ, diễn biến tiền tệ và kinh tế vĩ mô. Bao gồm lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cho vay qua đêm, lãi suất định hướng thị trường liên ngân hàng, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở.
1.3 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN LÃI SUẤT
Trong các nền kinh tế thị trường, nhà nhà nước chỉ đóng vai trò là người điều tiết vĩ mô, thị trường tài chính và các tổ chức tài chính trung gian. Các nước có nền kinh tế thị trường chủ yếu theo đuổi chính sách tự do hoá tài chính, do vậy cơ chế hình thành lãi suất chủ yếu dựa trên cơ chế thị trường. Đó là sự thay đổi về cung-cầu của vốn vay ảnh hưởng tới sự hình thành và biến đổi lãi suất trên thị trường.
Cung về vốn vay bắt nguồn từ những người có thu nhập dôi ra mà họ muốn tiết kiệm và cho vay kiếm lời, qua đó cho thấy rằng tiết kiệm là nguồn cung về vốn vay. Còn cầu về vốn vay bắt nguồn từ các hộ gia đình và các doanh nghiệp muốn vay tiền để đầu tư, mua nhà đất hay xây dựng nhà máy...Như vậy, đầu tư là nguồn gốc làm phát sinh nhu cầu về vốn vay.
Trên thị trường có rất nhiều tác nhân ảnh hưởng đến sự thay đổi về cung và cầu vốn vay, dưới dây ta chỉ phân tích những tác nhân có ảnh hưởng quan trọng đến đường cung và đường cầu về vốn vay, qua đó tác động đến lãi suất.
1.3.1 Lạm phát kỳ vọng
Khi mức lạm phát được dự đoán sẽ tăng lên trong một thời kỳ nào đó, lãi suất sẽ có xu hướng tăng.
Ta thấy rằng : Lãi suất danh nghĩa = Lãi suất thực tế + Tỷ lệ lạm phát
Do đó, để duy trì lãi suất thực tế không giảm, khi tỷ lệ lạm phát tăng thì lãi suất danh nghĩa cũng phải tăng lên tương ứng.
Bên cạnh đó, khi lạm phát tăng, công chúng sẽ chuyển phần tiết kiệm của mình sang dự trữ hàng hóa hoặc các dạnh thức tài sản phi tài chính khác như vàng, ngoại tệ mạnh hơn là cho vay. Điều đó làm giảm cung về vốn vay, qua đó làm dịch chuyển đường cung sang trái và làm lãi suất tăng lên.
Ngược lại, ta thấy rằng, nếu lạm phát dự tính có xu hướng giảm thì sẽ làm cho lãi suất giảm xuống.
1.3.2 Đầu tư
Đầu tư là nhân tố tác động trực tiếp đến lượng cầu về vốn vay. Khi Nhà nước có các chính sách khuyến khích về đầu tư, ví dụ như nhà nước giảm thuế lợi tức công ty, nó có khuyến khích doanh nghiệp vay tiền và đầu tư nhiều hơn vào tư bản mới. Qua đó làm thay đổi đầu tư tại mọi mức lãi suất và làm thay đổi đến cầu về vốn vay. Nhu cầu vay vốn tăng lên, đường cầu về vốn vay dịch chuyển sang bên phải và làm cho lãi suất tăng lên. Ngược lại, các chính sách của chính phủ làm kìm hãm đầu tư sẽ là nhân tố làm giảm lãi suất.
1.3.3 Thuế thu nhập
Thuế thu nhập luôn tác động đến lãi suất giống như khi thuế tác động đến giá cả hàng hóa. Thông thường người ta quan tâm nhiều đến lợi nhuận sau thuế hơn là thu nhập danh nghĩa. Nên khi thuế thu nhập tăng lên, nó làm giảm đi một phần thu nhập của những cá nhân và tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng hay những người tham gia chứng khoán. Nghĩa là khi thuế thu nhập tăng, phần tiết kiệm của các cá nhân và tổ chức sẽ giảm đi, do đó lượng tiền cho vay trên thị trường sẽ giảm đi. Qua đó làm giảm cung về vốn vay, đường cung vốn vay dịch chuyển sang trái, lãi suất tăng lên. Ngược lại, khi thuế thu nhập giảm đi sẽ là nhân tố làm giảm lãi suất
1.3.4 Ngân sách của chính phủ
Ta biết rằng :
Tiết kiệm quốc dân = Tiết kiệm tư nhân + Tiết kiệm Chính phủ.
Khi Chính phủ chi tiêu nhiều hơn thu nhập từ thuế, tình trạng thâm hụt ngân sách làm giảm tiết kiệm quốc dân, cung về vốn vay giảm, đường cung vốn vay dịch chuyển sang trái và làm tăng lãi suất cân bằng. Bên cạnh đó, Chính phủ bội chi ngân sách như vậy sẽ tác động đến tâm lý dân chúng về sự gia tăng của lạm phát và nó sẽ gây sức ép làm tăng lãi suất.
1.3.5 Các yếu tó khác của đời sống xã hội
Ngoài những yếu tố trên, sự thay đổi của lãi suất trên thị trường còn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố về đời sống xã hội khác như: sự đa dạng của các công cụ tài chính, sự thay đổi trong cơ cấu chứng khoán, sự phát triển của các thể chế tài chính trung gian, hiệu suất sử dụng vốn trong các thời kỳ khác nhau do những thay đổi trong công nghệ và sự phát triển mang tính chu kỳ của nền kinh tế, và cả các biến động về kinh tế, chính trị,... cũng ít nhiều ảnh hưởng đến lãi suất.
1.4 VAI TRÒ CỦA LÃI SUẤT ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ
Lãi suất là một trong những biến số được quan tâm chặt chẽ nhất trong nền kinh tế,bởi lãi suất không chỉ ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của mỗi chúng ta mà còn là một chỉ số đo lường sức khỏe của nền kinh tế. Có thể khái quát vai trò của lãi suất qua 2 nội dung là vai trò vĩ mô và vai trò vi mô:
1.4.1 Vai trò Vĩ mô:
Đối với Ngân hàng Nhà nước thì lãi suất là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô. Sự biến động của lãi suất trong quá trình điều chỉnh của Ngân hàng Nhà nước tác động đến nhiều mặt của nền kinh tế như đầu tư,tiêu dùng ,tiết kiệm,tỷ giá…qua đó ảnh hưởng trực tiếp đến các mục tiêu kinh tế vĩ mô của đất nước.
Trong nền kinh tế thị trường, người tiêu dùng và các doanh nghiệp có thể tiến hành bất cứ việc gì nếu họ muốn trong khuôn khổ pháp luật,miễn là họ có phương tiện thanh toán.Vì vậy bằng cách kiểm soát giá bán và mua quyền sử dụng tiền tức lãi suất, Ngân hàng Nhà nước ở bất kì quốc gia nào cũng có thể chi phối dược sự tăng trưởng nền kinh tế. Bằng cách tăng lãi suất, Ngân hàng Nhà nước có thể làm yếu đi khả năng cho vay của các Ngân hàng thương mại và do đó thực hiện chính sách tiền tệ, giảm bớt khối lượng tiền cần thiết cho việc mở rộng sản xuất kinh doanh và chi tiêu của người tiêu dùng. Cũng như vậy, bằng cách sử dụng lãi suất, Ngân hàng Nhà nước có thể tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển. Hoặc muốn kìm hãm tốc độ phát triển hay đẩy mạnh phát triển một ngành nào đó,Ngân hàng Nhà nước có thể tăng hoặc giảm lãi suất cho vay để thu hẹp hay mở rộng đầu tư ở ngành này.
Bên cạnh vai trò hướng dẫn điều hành nền kinh tế, lãi suất tín dụng còn đóng vai trò tích cực trong kìm chế lạm phát. Tháng 3 năm 1989, Việt Nam chủ trương áp dụng chế độ siêu lãi suất tiền gửi đã nhanh chóng đem lại kết quả là chặn đứng lạm phát: từ 7% trong tháng 1; 9,2% trong tháng 2 đã giảm xuống 4,5% trong tháng 3; 3,5% trong tháng 4 và tiếp tục giảm trong những tháng sau. Điều này khẳng định sức mạnh của công cụ lãi suất trong điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô dù có gây nên hiệu ứng tiêu cực đến hoạt động kinh tế. Từ năm 1989 đến nay, chính sách lãi suất luôn được sử dụng để điều chỉnh nền kinh tế ở Việt Nam. Sau khi đã kiềm chế và giữ được lạm phát ở mức độ ổn định, Ngân hàng Nhà nước đang thực hiện hạ thấp dần khung lãi suất để khuyến khích hoạt động đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh,khôi phục kinh tế.
Có thể nói chính sách lãi suất là một bộ phận của chính sách tiền tệ của nhà nước nhằm điều hòa lưu thông tiền tệ, kích thích, điều tiết và hướng dẫn sản suất kinh doanh của các đơn vị kinh tế. Lãi suất cho vay được sử dụng để mở rộng cung ứng tiền tệ, thu hẹp đầu tư và kiềm chế lạm phát.
Thực hiện vai trò đòn bẩy kinh tế, lãi suất sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với mục tiêu kinh tế ở những giai đoạn khác nhau. Những ưu đãi về lãi suất, về điều kiện cung ứng tín dụng và thanh toán là công cụ của nhà nước nhằm khuyến khích các doanh nghiệp vào các loại sản phẩm cần ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế. Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với các nước chậm phát triển muốn có những bước nhảy vọt để đi ngay vào công nghệ hiện đại trong thời đại hiện nay. Như vậy, có thể coi lãi suất là công cụ trực tiếp của chính sác tiền tệ. Nó ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông, từ đó đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Một sự điều chỉnh trong cơ chế điều hành lãi suất sẽ tác động đến lượng tiền trong lưu thông, đặc biệt là lượng tiền cung ứng của các ngân hàng vào lưu thông vì lãi suất ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận kinh doanh của các ngân hàng.Việc mở rộng khung lãi suất, hoặc tăng trần lãi suất đối với cơ chế điều hành lãi suất cũ hoặc tăng lãi suất cơ bản trong cơ chế điều hành lãi suất mới đều có tác dụng làm tăng lượng tiền trong lưu thông và ngược lại.
Một tác động khác của lãi suất đó là ảnh hưởng của nó tới đầu tư,tiết kiệm. Có nhiều ý kiến khác nhau về tác động của lãi suất đến sự hình thành tiết kiệm, nhưng hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng mức lãi suất có tác động đến quy mô tiết kiệm của nhân dân. Nếu lãi suất thực tế càng cao thì số tiền gửi vào ngân hàng càng lớn.Việc này sẽ tác động đến quy mô mua sắm tài sản của nhân dân. Khi lãi suất dương,nó sẽ kích thích người dân gửi tiết kiệm tại ngân hàng vì nó có khả năng sinh lời cao và an toàn hơn việc tích trữ tài sản, nhờ đó nguồn vốn nói chung của ngân hàng tăng lên và khối lượng tiền tệ phục vụ cho nền kinh tế quốc dân cũng tăng lên, ảnh hưởng của lãi suất thực tế dương đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiết kiệm tài chính.
Tóm lại, lãi suất tác có tác động đến nhiều mặt đến nền kinh tế, đến sự phát triển và tăng trưởng kinh tế. Một chính sách lãi suất hợp lý sẽ vừa là điều kiện thu hút các khoản vốn nhàn rỗi, vừa để thúc đẩy đầu tư trong nền kinh tế, giúp cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định.
1.4.2 Vai trò vi mô
Lãi suất là yếu tố thúc đẩy kinh doanh có hiệu quả của các doanh nghiệp, bù đắp chi phí và đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng: Doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng phải hoàn trả đúng kì hạn cả vốn lẫn lãi.Vì vậy, muốn đảm bảo có nguồn vốn trả nợ, doanh nghiệp phải quan tâm thực sự đến kết quả sản xuất kinh doanh của mình. Nếu hoàn trả nợ không đúng kì hạn, lãi suất quá hạn cao hơn lãi suất đúng hạn (bằng 1,5 lần lãi suất đúng hạn) điều này thúc đẩy các doanh nghiệp phải cố gắng kinh doanh tốt, đảm bảo khả năng trả nợ đúng hạn. Hoạt động tài chính của ngân hàng kinh doanh và tổ chức tín dụng là huy động vốn để cho vay. Khi huy động vốn, ngân hàng phải trả lãi cho người gửi, khi cho vay sẽ thu lãi của người vay. Ngân hàng phải tính toán mức lãi suất cho vay và đi vay hợp lý để bù đắp các khoản chi phí nghiệp vụ và có lợi nhuận cho mình.
Mặt khác, lãi suất chính là công cụ để cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng.Thời gian gần đây, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chỉ khống chế “trần” tối đa về lãi suất cho vay và mức độ chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay nhằm đảm bảo các lợi ích cho người gửi, người vay và ngân hàng kinh doanh có khả năng bù đắp chi phí và một phần rủi ro nếu có. Trong kinh tế thị trường, do yêu cầu của quy luật cạnh tranh, mọi thành phần kinh tế đều có sự cạnh tranh quyết liệt vì sản phẩm tiêu thụ, giá bán, phương thức phục vụ, dịch vụ bán hàng…. Đứng vững được trong quá trình cạnh tranh đó là điều khồng đơn giản. Với phương châm “đi vay để cho vay”, hoạt động huy động và sử dụng vốn của ngân hàng có liên quan chặt chẽ với nhau. Vì vậy, các ngân hàng thương mại đều phải đổi mới phương thức phục vụ và huy động vốn để huy động được vốn tối đa đồng thời cũng phải đẩy mạnh cho vay. Ngoài ra, các tổ chức tín dụng khác cũng cần phấn đấu hạ thấp chi phí, tạo cơ sở hạ thấp lãi suất”đầu ra” để thu hut được nhiều khách hàng đến mở tài khoản và vay vốn.
1.5 MỘT SỐ CHÍNH LÃI SUẤT TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.5.1 Chính sách lãi suất cố định
Lãi suất cố định là lãi suất mà Ngân hàng Nhà nước khống chế NHTM cả về lãi suất huy động và lãi suất cho vay. Khi đó sẽ không có sự cạnh tranh giữa các ngân hàng, không thúc đẩy tăng trưởng. Chính phủ hoàn toàn có thể kiểm soát được lãi suất, bảo vệ được nhiều doanh nghiệp nhà nước.
1.5.2 Chính sách lãi suất trần
Chính sách lãi suất trần là chính sách chỉ ấn định lãi suất cho vay tối đa. Khuyến khích huy động vốn, khả năng kiểm soát của chính phủ tốt hơn. Chính phủ ấn định một mức lãi suất và áp đặt cho toàn bộ các ngân hàng, chính sách lãi suất này được ấn định cho toàn bộ nền kinh tế.
1.5.3 Chính sách tự do hoá lãi suất
Chính sách tự do hóa lãi suất là chính sách mà chính phủ sẽ can thiệp khi mức lãi suất vượt quá mức lãi suất chung.Lãi suất tăng giảm hoàn toàn do những biến đổi trong cung và cầu về vốn vay trên thị trường.Tuy nhiên, nó chỉ thực hiện được trong môi trường cạnh tranh hoàn hảo. ở Việt Nam hiện nay, chúng ta đang sử dụng chính sách lãi suất thoả thuận
Các Tổ chức tín dụng được thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động tín dụng thương mại, thay thế cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng VND. Xét về dài hạn, việc xóa bỏ “trần” lãi súat cho vay khiến các TCTD có thể mở rộng mạng lưới để huy động, cho vay với lãi suất phù hợp cung – cầu của thị trường. đặc biệt đối với những người sản xuất và tổ chức kinh tế ở khu vực nông thôn. Nhất là trong bối cảnh mà tăng trưởng tín dụng đang nhanh hơn nhiều so với tăng trưởng huy động vốn. Theo NHNN, cơ chế lãi suất mới sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc cải cách hệ thống ngân hàng theo định hướng thị trường. Nói đúng hơn, là xoá bỏ dần những “dị biệt” của hệ thống ngân hàng Việt Nam, nhằm tiến tới hội nhập với thị trường tài chính tiền tệ quốc tế.
1.5.4 Chính sách lãi suất ưu đãi
Chính sách lãi suất ưu đai là chính sách dành cho một số đối tượng đặc biệt như người nghèo, gia đình chính sách...với lãi suất thấp. Việc thực hiện chính sách này làm người đi vay không hoặc ít chú ý đến hiệu quả dẫn đến việc dùng vốn đổ vào những dự án không mấy hiệu quả.Điều đó không giúp tăng trưởng vốn và phần lớn chính sách này lấy từ Ngân sách nhà nước.Các đối tượng được vay vốn với lãi suất ưu đãi thường là những hộ nghèo,các khu vực ở vùng sâu vùng xa, hải đảo, miền núi... Việc vay vốn với lãi suất ưu đãi tuy tạo điều kiện cho người vay, nhưng lại hạn chế phát triển thị trường vốn vay. ( à Giai phap ???)
CHƯƠNG II. PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT VIỆT NAM VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ TỚI TĂNG TRƯỞNG CỦA NÓ TỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ NƯỚC TA QUA MỘT SỐ GIAI ĐOẠN
2.1 GIAI ĐOẠN ĐẦU ĐỔI MỚI ( NĂM 1986 ĐẾN 1991)
2.1.1 Thực trạng và tình hình quản lý lãi suất giai đoạn này
Chúng ta hãy nhìn nhận lại sự ra đời của Ngân hàng từ trước năm 1986, trong thời kỳ này chỉ có sự hoạt động duy nhất của Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam hay Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam. Ngân hàng Quốc gia ra đời thực hiện nhiệm vụ chủ yếu cung cấp tín dụng cho các tổ chức kinh tế quốc doanh và hợp tác xã theo sự chỉ đạo trực tiếp của Nhà nước. Ngân hàng thực hiện nhiệm vụ phân bổ Ngân sách Nhà nước chủ yếu là cho các doanh nghiệp Quốc doanh, chưa có khái niệm kinh doanh và chủ động theo nguyên tắc thị trường. Tóm lại, Nhà nước chưa quan tâm đến công cụ lãi suất mà áp đặt trong quản lý. Vai trò công cụ lãi suất trong giai đoạn này là không có.
Từ 1986, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước ra khỏi chức năng tiền tệ, tín dụng, chuyển hoạt động ngân hàng sang hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Do những nguyên nhân như chiến tranh kéo dài tàn phá để lại những hậu quả nặng nề cho nền kinh tế, sai lầm trong cơ chế điều hành nền kinh kế theo tập trung bao cấp. Xét trên khía cạnh tài chính, giai đoạn này hệ thống tài chính không phát triển do chưa nhìn nhận được vai trò của chính sách lãi suất theo tín hiệu thị trường dẫn đến nền kinh tế đã trì trệ lại càng trì trệ hơn. Nhận thấy tình hình trên, ĐH Đảng 6 tháng 12-1986 quyết định đổi mới nền kinh tế chuyển sang kinh tế thị trường, trong đó đổi mới quản lý đối với hoạt động Ngân hàng.
Nhìn chung, hoạt động của Ng