Sau những thời kỳ phát triển lớn lao, kể từ khi bước vào thập kỉ 90 đến nay nền kinh tế Nhật Bản suy thoái và kéo dài chưa từng có. Cũng giống như hai cuộc cải cách trước đây cải cách Minh trị (giữa thế kỷ 19) và công cuộc cải tổ sau chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản đang đứng trước sức ép rất lớn đòi hỏi phải tiến hành cải cách và mở cửa nền kinh tế để phát triển đất nước.
44 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1683 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách tư nhân hoá hệ thống công cộng của thủ tướng Koizumi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Sau những thời kỳ phát triển lớn lao, kể từ khi bước vào thập kỉ 90 đến nay nền kinh tế Nhật Bản suy thoái và kéo dài chưa từng có. Cũng giống như hai cuộc cải cách trước đây cải cách Minh trị (giữa thế kỷ 19) và công cuộc cải tổ sau chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản đang đứng trước sức ép rất lớn đòi hỏi phải tiến hành cải cách và mở cửa nền kinh tế để phát triển đất nước. Tuy vậy, khác với hai lần trước đây Nhật Bản buộc phải cải cách là do những sức ép to lớn từ bên ngoài (gaiatsu) thì lần này đó là những sức ép từ bên trong nền kinh tế, chính trị và xã hội Nhật Bản. Chính vì thế mà công cuộc cải cách và cải tổ này sẽ hết sức đau đớn và khó khăn, đòi hỏi phải có sự quyết tâm thực sự của cả dân tộc và những quyết định sáng suốt của các nhà lãnh đạo cầm quyền.
Chương trình cải cách kinh tế của thủ tướng Koizumi đặc biệt với chính sách tư nhân hoá hệ thống công cộng được coi là một trong những chính sách mang tính đột phá để cải thiện tình hình kinh tế Nhật Bản hiện nay. Với mục tiêu của chính sách nhằm chuyển đổi nền kinh tế Nhật Bản sang hoạt động theo sự tự điều chỉnh của nền kinh tế thị trường mở, lấy nhu cầu tư nhân trong nước làm động lực tăng trưởng chủ đạo. Tác động của nó đã tạo nên một cơ cấu kinh tế hợp lý, hài hoà và dần dần xây dựng lên nền tảng tăng trưởng bền vững cho nền kinh tế Nhật Bản trong quá trình toàn cầu hoá hiện nay.
Việc Chính phủ Nhật Bản thực hiện các chính sách kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hoá đạt được sự tăng trưởng kinh tế cao cũng tác động không nhỏ đến nền kinh tế khu vực. Nhật Bản là nước cung cấp nhiều ODA cho sự phát triển kinh tế Châu Á. Một khi Nền kinh tế Nhật Bản tăng sẽ dẫn đến các việc cung cấp ODA từ Nhật Bản đến các nước Châu Á cũng tăng. Việt Nam cũng không nằm ngoài tác động đó. Với truyền thống hơn 30 năm quan hệ tốt đẹp giữa Việt Nam và Nhật Bản, nước ta đã nhận được rất nhiều sự hỗ trợ lớn lao từ ODA và các công nghệ tiên tiến của Nhật Bản. Chính vì vậy sự tăng trưởng kinh tế Nhật Bản tác động quan trọng đến sự tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Do đó việc học hỏi và tiếp thu kinh nghiệm các chính sách hoạch định kinh tế của Nhật Bản đối với Việt Nam là điều rất cần thiết. Nhận biết được tính cấp thiết của vấn đề này tôi đã đi sâu và tìm hiểu để viết lên nội dung bài niên luận với đề tài “Chính sách tư nhân hoá hệ thống công cộng của thủ tướng Koizumi”
Nội dung của bài niên luận này được chia làm 4 chương :
Chương I : Sự ra đời và phát triển của chính sách tư nhân hoá hệ thống công cộng. Trong phần này tôi tập trung tìm hiểu về bối cảnh ra đời của chính sách tư nhân hoá hệ thống công cộng những năm trước đây, những thành tựu và những hạn chế của các chính sách này.
Chương II : Chính sách tư nhân hoá hệ thống công cộng của thủ tướng Koizumi. Bao gồm nội dung chính là : cơ sở để Thủ tướng Koizumi thực hiện Chính sách tư nhân hoá hệ thống công cộng. Nêu lên những nội dung của các Chính sách mà Thủ tướng đã thực hiện.
Chương III : Tác động của chính sách tư nhân hoá ngành công cộng đến nền chính trị, kinh tế, xã hội Nhật Bản: Với các nội dung chính là những tác động của chính sách tư nhân hoá đến nền chính trị, kinh tế, xã hội Nhật Bản.
Chương IV : Những đánh giá, phân tích về chính sách tư nhân hoá của hệ thống công cộng của thủ tướng Koizumi: Đây là chương nêu lên những suy nghĩ, nhận xét về những mặt tích cực, tiêu cực cùng với những bài học có thể ứng dụng cho nền kinh tế Việt Nam hiện nay.
Đề tài mà bài niên luận này khai thác là một vấn đề mới, tuy nhận được nhiều sự quan tâm hiện nay nhưng tài liệu tham khảo, các ý kiến đánh gía của các nhà nghiên cứu chưa thực sự phong phú. Đồng thời do năng lực nghiên cứu và trình độ tiếng Nhật còn hạn chế trong việc dịch và nghiên cứu tài liệu nên trong bài niên luận này không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy tôi rất mong sẽ nhận được nhiều ý kiến đóng góp từ thầy cô giáo và bạn bè.
Để hoàn thành được bài niên luận này ngoài những nỗ lực của bản thân, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Đông Phương học đã giúp đỡ tôi trong quá trình tìm tài liệu. Đặc biệt tôi xin trân trọng cảm ơn Thạc sĩ Phùng Kim Anh đã trực tiếp hướng dẫn và tận tình chỉ bảo cho tôi để khắc phục những thiếu xót và hoàn thành tốt bài niên luận này.
Chương I
Sự ra đời và phát triển chính sách tư nhân hóa
hệ thống công cộng.
1/Bối cảnh ra đời của chính sách tư nhân hoá Hệ thống công cộng
Từ sau chiến tranh thế giới thứ II, Nhật Bản bắt đầu đi vào phục hồi nền kinh tế trong những điều kiện vô cùng khó khăn. Chính phủ Nhật luôn đưa ra nhiều chính sách xã hội nhằm phát triển đất nước. Trong đó chính sách về “phúc lợi xã hội” là vấn đề được chính phủ Nhật Bản quan tâm nhiều nhất. Mục đích cuả chính sách này nhằm mở rộng vai trò của nhà nước trong việc bảo vệ người lao động, thúc đẩy giáo dục, y tế an sinh xã hội. Một số bộ luật về “phúc lợi xã hội “ ra đời như: “Bộ luật phát triển cuộc sống” (năm 1946), “Luật phúc lợi đối với trẻ em” (1947) “Luật phúc lợi đối với người tàn tật” (năm 1949).[2,188]
Vì vậy từ sau Đại chiến thế giới thứ II tỉ lệ chi tiêu cho an sinh xã hội trong ngân sách được coi là cơ sở đánh giá cho sự phát triển của khu vực kinh tế công cộng của Nhật Bản. Các khu vực kinh tế này thường được gọi là các công ty - doanh nghiệp công cộng có sở hữu hoàn toàn hoặc một phần (thuộc chính phủ trung ương hoặc chính quyền địa phương) chuyên cung cấp các dịch vụ xã hội và phục vụ cho cuộc sống hàng ngày của người dân.
*Nhật Bản gồm có 3 loại hình công ty công cộng:
a. Công ty trực tiếp do chính phủ Trung ương hoặc chính quyền Địa phương thành lập và quản lý (GENGYO). Trong đó chính phủ Trung ương quản lý trực tiếp 4 lĩnh vực chính là bưu điện, lâm nghiệp, in ấn /xuất bản và in tiền.
b. Công ty công cộng (KOUYKYO-HOUIJIN) được xây dựng trên cơ sở nguồn vốn của Chính phủ Trung ương và một phần của địa phương .
c. Công ty hợp doanh công tư (KOUSGU-KIGYO) thường tồn tại dưới hình thức là công ty trách nghiệm hữu hạn và công ty cổ phần (60 công ty)[1,74].
Cả ba loại hình công ty này đều dựa trên nguồn vốn của Chính phủ Trung ương bởi vậy nó chịu sự quản lý giám sát của nhà nước. Nhưng mặt khác nó cũng dựa trên tính chất đặc trưng trong quản lý và tổ chức của Nhật Bản. Đó là “chế độ làm việc suốt đời và hưởng lương theo thâm niên” và “sự luân phiên theo chức vụ, quản lý theo chiều dọc”. Những yếu tố này đã từng là điểm chủ chốt trong sự phát triển rực rỡ của kinh tế Nhật Bản những năm trước đây. Tuy nhiên từ sau cuộc khủng hoảng năng lượng năm 1975 cùng với hiệp định Plaza 1985 về tăng giá đồng Yên thì những yếu tố đó không còn phù hợp nữa. Kinh tế Nhật Bản bước vào thời kì trì trệ và kém phát triển chưa từng có, tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày càng giảm đi.
Bảng 1:Tốc độ tăng trưởng kinh tế Nhật Bản thời kì 1989-2000
Năm
1989
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
GNP
(%)
4.9
5.5
2.9
0.4
0.3
0.6
1.4
2.9
- 0.7
-1.9
0.5
1.2
Nguồn: Tạp chí Đông Bắc á số 7 năm 2001 tr46
Tăng trưởng kinh tế giảm, các nguồn thu ngân sách không theo kịp được với các khoản chi công cộng gia tăng. Bên cạnh đó xã hội Nhật Bản ngày càng bị lão hoá với tốc độ nhanh, cùng với việc xã hội hoá các dịch vụ phúc lợi tại nhà là những nguyên nhân làm tăng nhu cầu đối với khu vực kinh tế công cộng. Nhu cầu tăng nhanh kéo theo những khoản chi tiêu của Chính phủ đối với khu vực này ngày càng gia tăng, dẫn đến thâm hụt ngân sách. Bội chi trong ngân sách đối với khu vực công cộng là gánh nặng với Chính phủ.
Bởi vậy vào giữa những năm 80, Chính phủ đã nhận thấy cần phải thay đổi vai trò của khu vực kinh tế công cộng và làm tăng tính hiệu quả của khu vực kinh tế này. Một trong những giải pháp được lựa chọn là “Tư nhân hoá hệ thống công cộng”.
2.Quá trình phát triển của chính sách tư nhân hoá hệ thống công cộng
2.1.Khái niệm tư nhân hoá.
Tư nhân hoá là việc bán sở hữu của nhà nước cho các cá nhân và các tổ chức tư nhân, xoá bỏ hạn chế về pháp luật, nới lỏng các quy chế. Tư nhân hoá ở Nhật Bản còn được hiểu là cải tạo các công ty quốc doanh thành công ty cổ phần hoặc thành các “pháp nhân chuẩn y”*1 *1:”pháp nhân chuẩn y” về cơ bản gần giống với công ty tư nhân, nhưng được thành lập nhờ vào sự giúp đỡ về tài chính của nhà nước.Nó không thuộc sở hữu công cộng nhưng là đối tượng điều tiết công cộng.
thuộc sở hữu tư nhân, hoặc cải tạo các công ty hợp doanh thành công ty tư nhân hoàn toàn[1,79].
2.2.Quá trình tư nhân hóa
Quá trình tư nhân hoá của Nhật Bản đã được bắt đầu từ năm 1964 khi Uỷ ban Cải cách hành chính lâm thời đầu tiên được thành lập dưới sự chỉ đạo của nội các Ikeda. Tuy nhiên “Quá trình tư nhân hoá hệ thống công cộng” chỉ thực sự được nhìn nhận vào thời kì của thủ tướng Nakasone (1982-1987). Lúc này Uỷ ban Cải cách hành chính lâm thời lần thứ 2 được thành lập do ông Doko – chủ tịch liên đoàn các tổ chức kinh tế Nhật Bản (keidanren) đứng đầu đã đề nghị tư nhân hoá 3 doanh nghiệp lớn là công ty Đường sắt quốc gia Nhật Bản (JNR) (1987), công ty liên doanh độc quyền Nhật Bản JMC, thuốc lá và muối (1985) và công ty Điện thoại, điện tín quốc gia Nhật Bản NTTPC (1985)[1,180]
Bảng 2: Quá trình tư nhân hoá từ năm 1982 đến năm 1998
Năm
Tiến trình
1985
-Tư nhân hóa công ty Liên doanh Điện tín và điện thoại Nhật Bản
-Tư nhân hóa công ty liên doanh độc quyền (JMC, thuốc lá, muối)
1987
-Tư nhân hóa công ty đường sắt Nhật Bản (JNR)
-Tư nhân hóa công ty hàng không Nhật Bản (JAL)
1998
-Xoá bỏ luật công ty điện tín và Điện thoại quốc tế (KDD) và tư nhân hoá toàn bộ KDD
Nguồn : Cơ quan quản lý và hợp tác (1998) –sách trắng về bãi bỏ quy định
Sau khi tiến hành tư nhân hoá 3 doanh nghiệp lớn nêu trên, hàng năm Uỷ ban Cải cách hành chính lâm thời lại kiến nghị sửa đổi và nới lỏng thêm. Chú trọng tới việc nâng cao chất lượng cuộc sống, chuyển đổi cơ cấu công nghiệp sang cơ cấu thị trường hơn, cho phép các công ty nước ngoài đầu tư vào thị trường Nhật Bản, Quốc tế hoá các hệ thống hành chính và cơ chế tổ chức.
Như vậy ta có thể thấy vào cuối những năm 80 Chính phủ Nhật Bản đã bắt đầu nhận thấy sự kém hiệu quả trong hoạt động của các công ty thuộc khu vực kinh tế công cộng. Sự kém hiệu quả là nguyên nhân sâu sa trong việc điều tiết của nhà nước. Nhà nước đã can thiệp quá sâu vào việc quản lý của các công ty tạo ra sự ỷ lại, trì trệ và không năng động trong điều hành công ty. Cũng vì vậy các công ty không cần quá quan tâm đến hiệu quả sản xuất kinh doanh bởi lỗ đã có nhà nước bù đắp.
Nhận thức được những bất cập này Chính phủ Nhật Bản đã có những bước cải thiện lớn. Giải pháp khuyến khích các khu vực tư nhân tham gia vào hệ thống công cộng được coi là một trong những biện pháp tối ưu. Mục tiêu của giải pháp này là ưu tiên cho khu vực tư nhân vì khu vực này dựa vào cơ chế thị trường để quyết định phân bổ nguồn lực. Với cơ chế thị trường thích hợp, phân bổ nguồn lực thông qua cạnh tranh sẽ tạo ra hiệu quả kinh tế hơn là tự do phát triển trong sự “o bế ” của chính phủ.
Có thể nói cùng với việc cắt giảm chi tiêu công cộng, tư nhân hoá các dịch vụ công cộng Chính phủ Nhật đang trú trọng vào việc chuyển từ một “Chính phủ lớn” sang mô hình “Chính phủ thu nhỏ”*2 *2: “mô hình chính phủ thu nhỏ” là mô hình chính phủ giảm bớt bộ máy hành chính, giảm chi tiêu cho tổ chức hoạt động chính quyền”
để dễ quản lý và tạo hiệu quả cao. Đồng thời cũng phát huy được tính “cạnh tranh” của khu vực kinh tế tư nhân để kích thích sự phát triển kinh tế.
Tuy nhiên có thể nhận thấy quá trình tư nhân hoá hay sự chuyển giao giữa công và tư ở Nhật Bản mới chỉ diễn ra ở một sỗ lĩnh vực quan trọng như giao thông, vận tải, hàng không. Còn các lĩnh vực khác như bảo hiểm, y tế, giáo dục, bưu điện cũng không được trú trọng và quan tâm nhiều. Phải chăng đó là hình thức “xã hội chủ nghĩa” theo kiểu Nhật Bản, nơi mà y tế và giáo dục phổ thông vẫn được coi là miễn phí. Chính phủ vẫn muốn duy trì vai trò của mình trong lĩnh vực này nhằm đảm bảo cho sự phát triển lành mạnh của khu vực kinh tế.
Quá trình thực hiện chính sách “Tư nhân hoá hệ thống công cộng” tuy vẫn còn nhiều bất cập và thiếu sót như : “ Việc tư nhân hoá không toàn diện, việc giải thể một số hệ thống công cộng làm cho gia tăng về thất nghiệp” nhưng xét cho cùng đây cũng chỉ là chặng đường đầu trong việc thực hiện chính sách và thành quả của nó mang lại vẫn đang chờ những nỗ lực mới của các nhà lãnh đạo sau này thực hiện.
Chương II:
Chính sách tư nhân hóa hệ thống công cộng
của thủ tướng Koizumi:
1.Cơ sở hình thành chính sách của thủ tướng Koizumi
Vào năm 1990 kinh tế Nhật Bản bắt đầu với cơn khủng hoảng giá tài sản trong cả thị trường chứng khoán lẫn thị trường địa ốc. Giá cả liên tục giảm sút (nhất là về địa ốc) làm cho nhiều công ty bị phá sản không trả được nợ. Việc này cũng khiến các ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Một mặt vì các món nợ không đòi được mặt khác vì số lượng khách hàng vay tiền ít đi. Khi các ngân hàng rơi vào bế tắc thì cả nền kinh tế cũng trì trệ theo vì tiền bạc khó lưu thông. Để kích thích cho người dân vay tiền trong thời gian qua, ngân hàng Trung ương Nhật Bản đã chủ trương giữ lãi suất thấp, nhiều khi đến gần mức con số không. Tuy nhiên tình hình kinh tế của Nhật Bản vẫn không được cải thiện.
Không chỉ vậy kinh tế Nhật Bản còn gặp nhiều khó khăn trong việc cải thiện mức tiêu thụ của người dân Nhật Bản. Nguyên nhân của vấn đề này là do kinh tế Nhật Bản phần lớn phụ thuộc vào xuất khẩu. Người ta tính được khi GDP tăng 100 đồng thì 30 đồng là do hàng xuất khẩu. Trong đó vai trò của người tiêu thụ Nhật Bản rất thấp so vơí các nước tiên tiến về kinh tế như Mỹ khi kinh tế phát triển chủ yếu là do người tiêu thụ. Theo bảng tính cứ 100 đô la trong GDP thì 70 đô la là do người tiêu thụ mua, phần còn lại do xí nghiệp đầu tư và các cấp chính phủ tiêu dùng chỉ chiếm 30%. Ở Nhật Bản thì khác, người tiêu thụ chỉ giúp tạo nên 57% vào tổng sản lượng nội địa, trong khi đầu tư xí nghiệp là 18%.[5,14] Một nước giàu thứ nhì trên thế giới mà người dân tiêu thụ với tỉ lệ thấp như vậy là một điều bất thường (Vì cơ cấu Nhật Bản thiên về sản xuất hơn tiêu thụ). Trong khi đó muốn nền kinh tế phát triển người ta phải tăng lãi suất để giảm bớt việc vay nợ, giảm bớt số tiền trong túi người dân cũng như các xí nghiệp. Tuy nhiên do sự tự do hoá lãi suất, cạnh tranh lớn trong thị trường vốn, do những cải thiện về hạ tầng cơ sở của thị trường và đơn xin vay quá nhiều làm cho ngân hàng Nhật Bản không đảm bảo đủ lợi nhuận để gánh chịu những rủi ro tín dụng và không đạt được mức lợi nhuận tiêu chuẩn của Quốc tế. Dẫn đến “việc giải quyết các khoản nợ khó đòi” không chỉ còn là vấn đề của ngân hàng mà thực sự đã trở thành một cản trở lớn cho sự phục hồi nền kinh tế.
Bảng 3: Nợ quốc gia trong chi tiêu ngân sách của Nhật Bản từ năm 1997-2001
Năm
1997
1998
1999
2000
2001
Tổng số nợ Tỷ lệ %
168.628
(21.7)
172.628
(22.2)
198.319
(24.2)
219.663
(25.8)
171.705
(20.8)
Nguồn : Ashahi Shinbun, Japan Almanac 2002, p.85
Ngoài ra Nhật bản còn phải chịu những tác động bên ngoài như: sự kiện khủng bố ngày 11/9/2001 ở Mỹ, sự tác động của quá trình toàn cầu hoá qua việc đổi mới công nghệ thông tin (IT) ngày càng sâu rộng. Cùng với việc tiếp tục nới lỏng xoá bỏ những quy định khác nhau về thị trường vốn theo chương trình cải cách tài chính “Big Bang”của thủ tướng Hasimoto (1996)*3thị trường vốn của Nhật Bản sẽ có những bước phát triển mạnh hơn nữa với sự tham gia tích cực của các nhà đầu tư tư nhân, tập thể và cá nhân .
Bên cạnh đó với sự thâm nhập mạnh mẽ hơn nữa của các nhà đầu tư nước ngoài dẫn tới áp lực cạnh tranh của thị trường vốn vào các ngân hàng tăng lên có thể sẽ làm giảm quy mô cho vay truyền thống của ngân hàng. Điều đó cũng có nghĩa là hệ thống tài chính dựa trên cơ sở ngân hàng của Nhật Bản sẽ có hướng dịch chuyển theo sàn kiểu hệ thống tài chính dựa trên thị trường vốn như ở Mỹ và một số nước phương Tây hiện nay.
Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng sự dịch chuyển này không thể diễn ra một cách nhanh chóng ngay lập tức mà là một sự chuyển dịch dần dần. Một trong những lý do hàng đầu đó là sự tồn tại của hệ thống tiết kiệm bưu điện an toàn và tiện lợi (đây là nguồn huy động vốn quan trọng cho khu vực tài chính công được sự đảm bảo của Chính phủ). Nguồn tiết kiệm bưu điện này là một nguồn thu hút tiết kiệm đáng kể của người dân Nhật Bản, do đó nó hạn chế sự đầu tư vào thị trường vốn – nơi có rủi co cao.
Như vậy trong một tương lai gần, hệ thống tài chính vẫn dựa trên cơ sở ngân hàng. Song vai trò của các ngân hàng trong việc huy động vốn cho khu vực kinh doanh sẽ ngày càng giảm dần và thay vào đó là sự phát triển ngày càng mạnh của các thị trường có vốn độc lập.
Nắm bắt được những yêu cầu cấp thiết này thủ tướng Joinichi Koizumi (Thủ tướng nhậm chức vào ngày 26/4/2001) đã đưa ra giải pháp hết sức quan trọng trong năm 2001 đó là tiến hành cải cách cơ cấu. Thủ tướng đã xắp xếp lại hệ thống ngân hàng tài chính và một loạt các chính sách tiến hành tư nhân hoá của các công ty nhà nước làm không hiệu quả. Ông đã kiên quyết thực hiện cuộc cải cách bất chấp khó khăn kinh tế và các tác động từ bên ngoài. Đặc biệt ông đã chủ trương nhấn mạnh tập trung vào mục tiêu tăng trưởng thực sự cho khu vực tư nhân, tiến hành chính sách tư nhân hoá hệ thống công cộng trên các lĩnh vực chủ chốt như bưu điện, y tế, phúc lợi, giáo dục…Thủ tướng Koizumi đã tiến hành các chính sách này như thế nào, nội dung của các chính sách ra sao điều này sẽ được phân tích rõ ở các phần sau.
2.Chính sách tư nhân hoá của thủ tướng Koizumi
2.1. Chính sách tư nhân hoá ngành bưu điện
Đây là chính sách gắn liền với Thủ tướng Koizumi ngay từ thời gian nhậm chức thủ tướng của mình. Chính sách này cũng được ông Junya Koizumi - ông của Thủ tướng Koizumi đề ra khi còn đương nhiệm chức Bộ trưởng bộ Bưu điện. Trong nội dung cương lĩnh ra tranh cử diễn ra vào ngày 14/2/2001 ông Koizumi đã đưa ra phương hướng về cải cách hành chính bằng việc quyết tâm tư nhân hoá ngành Bưu điện. Trước mắt cho phép tư nhân tham gia một phần hoạt động trong lĩnh vực này và tiếp tục cải cách sâu rộng hơn khi thống nhất trong Đảng. Để hiểu sâu sa về chính sách này trước hết ta cần tìm hiểu về hệ thống bưu điện công cộng Nhật Bản (Japan post).
“Japan post” là một tập đoàn khổng lồ với trị giá tài sản khoảng 3000 tỉ USD bao gồm một công ty nhận tiền gửi quy mô lớn gồm 28.000 văn phòng cùng với 26.000 nhân viên. Trong số đó dịch vụ tiết kiệm bưu điện là loại hình tồn tại khá lâu đời ở Nhật Bản. Dịch vụ tiết kiệm bưu chính do một đơn vị thuộc Bộ Bưu chính Viễn thông (MPT) trực tiếp quản lý, điều hành nhằm cung cấp các dịch vụ gửi tiền tiết kiệm, chuyển tiền, chuyển khoản và các dịch vụ tài chính cá nhân khác.[6] Các dịch vụ này không những có tác động đóng góp cho sự ổn định kinh tế của các cá nhân nói riêng và của quốc gia nói chung mà nó còn giữ một vai trò quan trọng trong cuộc sống hàng ngày của người dân.
Hiện nay có khoảng 85% dân số Nhật Bản có tài khoản tiền gửi tiết kiệm bưu điện. Năm 1981 hệ thống tiết kiệm bưu điện cho ra đời tài sản Sogo (còn gọi là tài sản dịch vụ sogo) nhằm sử dụng quỹ vay mượn 90% tài khoản cố định này.[2,56]. Có thể xem xét về đức tính tiết kiệm và thành tựu tiết kiệm được coi là một nét đặc trưng nổi bật của Nhật Bản qua bảng 4 dưới đây.
Bảng 4: Các nguồn tiết kiệm của Nhật Bản (1975-1980-1997)
Đơn vị 1000 tỷ yên
Nguồn
1975
1980
1997
Tiết kiệm cá nhân
9,6
24,5
33,8
Tiền của chính phủ
5.6
4.7
6.5
Nguồn : 1955-1970, Yutaka Kosai, Kinh tế Nhật Bản đương đại, trang 13.
Chính sách tư nhân hoá ngành bưu điện của thủ tướng Koizumi(11)
Từ nguồn tư liệu trên ta có thể thấy tiết kiệm cá nhân luôn chiếm tỉ lệ cao trong tổng số tiết kiệm chung của Nhật Bản. Nhận định được ngành Bưu chính cũng là khách hàng mua trái phiếu chính phủ nhiều nhất, giúp cho chính phủ Nhật Bản duy trì sự phát triển ở mức độ cao. Thủ tướng Koizumi đã coi tư nhân hoá ngành Bưu điện là chính sách có thể huy động được khối lượng vốn lớn để đầu tư sản xuất. Tư nhân hoá ngành này với 2,9 nghìn tỷ USD tiền tiết kiệm và bảo hiểm sẽ cho ra đời một ngân hàng lớn nhất thế giới. Kế hoạch của ông Koizumi là dần dần tách các dịc