Đề tài Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đảng và Nhà Nước ta đã có nhiều chủ trương, đường lối để phát triển nền kinh tế quốc dân. Trong đó việc phát triển nền kinh tế hàng hóa là nhiệm vụ cơ bản nhất. Nước ta la một nước nông nghiệp lạc hậu, kinh tế đi lên chủ yếu là sản xuất nhỏ, tự cung, tự cấp. Ở một số xùng núi còn mang đậm dấu ấn của kinh tế tự nhiện. Lại trải qua nhiều năm chiến tranh, nền kinh tế nước ta không thể vươn dậy nổi một cách vững chắc, hàng hóa sản xuất ra không đủ phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của người dân. Hơn thế nữa kinh tế hàng hóa ở nước ta lại có một thời gian dài theo cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp. Do vậy, việc xây dựng một quan hệ sản xuất mới, tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển nhằm thúc đẩy nền kinh tế hàng hóa phát triển là một việc làm tối quan trọng của Đảng và Nhà Nước ta trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội Nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội đã cho ta kết luận rằng: Nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế hàng hóa, thị trường. Nước ta từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội, mà xây dựng chủ nghĩa xã hội xét về mặt kinh tế cũng phải xây dựng nền sản xuất lớn. Vì thế không thể không phát triển nền sản xuất hàng hóa. Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta cũng thể hiện quyết tâm chuyển nền kinh tế còn mang nhiều tính tự cung, tự cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, sản xuất phải gắn liền với thị trường. Xuất phát từ sự nhận thức rõ về tầm quan trọng của việc phát triển kinh tế ở Việt Nam đã khiến em chọn đề tài: "Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam"

doc30 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1409 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. Mở đầu: 1. Tính cấp thiết của đề tài: Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đảng và Nhà Nước ta đã có nhiều chủ trương, đường lối để phát triển nền kinh tế quốc dân. Trong đó việc phát triển nền kinh tế hàng hóa là nhiệm vụ cơ bản nhất. Nước ta la một nước nông nghiệp lạc hậu, kinh tế đi lên chủ yếu là sản xuất nhỏ, tự cung, tự cấp. Ở một số xùng núi còn mang đậm dấu ấn của kinh tế tự nhiện. Lại trải qua nhiều năm chiến tranh, nền kinh tế nước ta không thể vươn dậy nổi một cách vững chắc, hàng hóa sản xuất ra không đủ phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của người dân. Hơn thế nữa kinh tế hàng hóa ở nước ta lại có một thời gian dài theo cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp. Do vậy, việc xây dựng một quan hệ sản xuất mới, tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển nhằm thúc đẩy nền kinh tế hàng hóa phát triển là một việc làm tối quan trọng của Đảng và Nhà Nước ta trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội Nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội đã cho ta kết luận rằng: Nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế hàng hóa, thị trường. Nước ta từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội, mà xây dựng chủ nghĩa xã hội xét về mặt kinh tế cũng phải xây dựng nền sản xuất lớn. Vì thế không thể không phát triển nền sản xuất hàng hóa. Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta cũng thể hiện quyết tâm chuyển nền kinh tế còn mang nhiều tính tự cung, tự cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, sản xuất phải gắn liền với thị trường. Xuất phát từ sự nhận thức rõ về tầm quan trọng của việc phát triển kinh tế ở Việt Nam đã khiến em chọn đề tài: "Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam" 2. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu: Mục đích của bài viết này là tìm hiểu thực trạng của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta hiện nay, cơ sở khách quan để tồn tại và phát triển nền kinh tế đó, các giải pháp để phát triển nền kinh tế ở nước ta. Bằng những kiến thức đã học và những hiểu biết thực tế, em hi vọng rằng bài viết sẽ mô tả được phần nào nền kinh tế hàng hóa hiện nay ở Việt Nam. Từ đó, có những giải pháp thích hợp cho sự phát triển tiếp theo. 3. Kết cấu của đề tài: Trong nội dung bó hẹp ở bài tiểu luận ngắn này, e chỉ xin đi vào một số nội dung chính sau đây: - Đặc điểm của nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam -Tính tất yếu khách quan phải phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở Việt Nam - Những giải pháp để phát triển nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam B. Nội dung: I. Đặc điểm và thực trạng của nền kinh tế hàng hóa ở nước ta. 1. Đặc điểm của nền kinh tế nước ta: Cần khẳng định rằng nền kinh tế ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Nước ta dang từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua giai doạn phát triển tư bản chủ nghĩa, xu hướng vận động và phát triển kinh tế hàng hóa gắn kiền với các đặc điểm sau: Một là: kinh tế thị trường bao gồm các loại hình đan xen nhau: Nhiều thành phần kinh tế với nhiều hình thức sở hữu khác nhau tham gia vào nền kinh tế thị trường. Mỗi kiểu hàng hóa tham gia vào nền kinh tế thị trường có những nét dặc thù về bản chất kinh tế xã hội và trình độ phát triển, nhưng nó đều là các bộ phận khác nhau của nền kinh tế quốc dân thống nhất. Bởi vậy các thành phần kinh tế vừa hợp tác, vừa cạnh tranh.đều phải bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ. Trong đó sản xuất hàng hóa xã hội chủ nghĩa giữ vai trò chủ đạo, định hướng các kiểu sản xuất hàng hóa khác. Nhận thức được việc tồn tại nhiều thành phần kinh tế là tất yếu khác quan, từ đó có thái độ đúng đắn trong khuyến khích sự phát triển của chúng theo nguyên tắc tự nhiên của kinh tế, phục vụ cho việc đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta. Hai là: nề kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế kém phát triển, mang nặng tính tự cung tự cấp, quản lí theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang nề kinh tế hàng hóa, vận hành theo cơ chế thị truongf. Tuy nhiên, kinh tế thị trường ở nước ta vẫn còn ở trình độ kém phát triển. Biểu hiện ở số lượng và chủng loại hàng hóa nghèo nàn, khối lượng hàng hóa lưu thông thị trường và kim nghạch xuất khẩu còn nhỏ, chi phí sản xuất và giá cả hàng hóa cao, chất lượng thấp, quy mô và dung lượng thị trường hẹp, sức cạnh tranh của các doanh nghiêp và hàng hóa trên thị trường trong nước và quốc tế còn yếu, đội ngũ các nhà quản lí doanh nghiệp giỏi còn ít, thu nhập của người lao động còn thấp... Trình độ phát triển thấp của hàng hóa bắt nguồn từ trình độ thấp của lực lượng sản xuất, từ tính chất sản xuất nhỏ của nền kinh tế, từ trình độ phân công lao động xã hội kém phát triển, từ sự thấp kém của kết cấu hạ tầng, lao động thủ công còn chiếm tỷ trọng lớn, từ sự kìm hãm của nền kinh tế trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp một thời gian quá lâu dài, từ sự nhận thức giản đơn về chủ nghĩa xã hội...Chính vì thế, chúng ta cần tập trung khắc phục những điểm yếu trên để phát triển kinh tế. Ba là: Nền kinh tế phát triển theo hường hòa nhập vào thi trường thế giới và khu vực. Cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ càng phát triển càng làm cho lực lượng sản xuất phát triển, trình độ xã hội hóa cao dẫn đến quá trình khu vực hóa quốc tế, nền kinh tế ngày càng mở rộng. Do vậy, phát triển nền kinh tế thị trường không phải chỉ dựa trên điều kiện trong nước mà còn phải tính đến quan hệ quốc tế, đến xu hướng quốc tế hóa nền kinh tế. Bất cứ quốc gia nào dù phát triển nhất cũng không thể sản xuất tất cả các loại hàng hóa. Vì vậy, mỗi nước, tùy theo điều kiện, lợi thế của mình lựa chọn mặt hàng xuất khẩu có hiệu quả và cạnh tranh được trên thị trường quốc tế. Sản xuất của nước ta sẽ phát triển nếu biết cách thi hút vốn đầu tư nước ngoài và áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ trên thế giới để khai thác các tiềm năng trong nước. Muốn vậy, con đường đúng đắn là phát triển nền kinh tế đẩy mạnh vào xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu có hiệu quả. Bốn là: Nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thông qua sự lãnh đạo của Nhà nước.Sự vận động của nền kinh tế hàng hóa thông qua cơ chế thị trường không thể giải quyết được các vấn đề như: Làm phát, thất nghiệp, khủng hoảng, phân hóa bất bình đẳng, ô nhiễm môi trường, bùng nổ dân số... Những tình trạng và hiện tượng trên ở những mức độ khác nhau trực tiếp hoặc gián tiếp đều có tác động ngược trở lại làm cản trở sự phát triển bình thường của một xã hội nói chung, của nền kinh tế hàng hóa nói riêng.Để hạn chế các tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường mà nước ta càn có sự chỉ đạo của Nhà nước. Phát triển kinh tế hàng hóa gắn liền với nền kinh tế mở là tất yếu nhưng trong quá trình đó, bên cạnh việc tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, thì cũng có nguy cơ du nhập những yếu tố văn hóa xa lạ với truyền thống, đặc điểm của dân tộc. Muốn giữ được nền kinh tế thị trường mang bản sắc văn hóa Việt Nam, cần có sự điều tiết vĩ mô của Nhà Nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, không chấp nhận lối sống thực dụng với sự chi phối tất cả của đồng tiền, không chấp nhận thương mại hóa mọi hoạt động của đời sống xã hội kết hợp sự chọn lọc tinh hoa của văn minh nhân loại với giữ gìn những yếu tố tinh túy của văn hóa dân tộc, hội nhập chứ không hòa tan. 2. Thực trạng của nền kinh tế: Ở nước ta, khu vực sản xuất nông nghiệp chiếm tới 70% sức lao động và 80% dân số. Nước ta bắt đầu đổi mới bằng "chỉ thị 100", nghị quyết "khoán 10".Từ chỗ thiếu đói đã vươn lên đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu gạo.Những năm sau đó khủng hoảng kinh tế và lạm phát được chặn đứng. Khu vực kinh tế tư nhân là khu vực phát triển mạnh. Cho đến năm 1995, chúng ta đã có khoảng 22000 doanh nghiệp tư nhân, gáp 2 lần số doanh nghiệp nhà nước khi bắt đầu đi vào công cuộc đổi mới và gấp 3 lần số doanh nghiệp nhà nước có đến hiện nay. Con số này sẽ còn tiếp tục tăng nữa khi chúng ta đang thục hiện công cuộc cải cách doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ. Khu vực ngoài quốc doanh (bao gồm không nhiều bộ phận của kinh tế hợp tác) chiếm trên 2/3 tổng sản phẩm trong nước. Từ thập niên 1990, làn sóng đầu tư trực tiếp nước ngoài bắt đầu đổ vào Việt Nam. Việt Nam trở thành một trong những nước tăng trưởng nhanh nhất thế giới.Bình quân tăng trưởng 5 năm(1990-1995) là 8,2%/ năm.( Năm 1995 tăng trưởng bình quân toàn thế giới là 3,5%, trong đó cao nhất là vùng Đông Á_ Thái Bình Dương: 8,1%, Mỹ: 3%, Nga: 1,6%... Các nước ASEAN vẫn tiếp tục giữ mức độ tăng trưởng khá: Singapore: 8,9%, Philipin: 5%, Thái Lan: 8,9%... Cho đến năm 2006, tốc độ phát triển của nền kinh tế nước ta đã là7,8 %,đứng thứ 28 về tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đời sống của nhân dân cũng đã được nâng cao và cải thiện đáng kể.Nước ta đã hoàn thành phổ cập giáo dục ở bậc tiểu học và giờ đang cố gẳng phổ cập giáo dục ở bậc trung học. Việt Nam được đánh giá cao về việc thực hiện phúc lợi xã hội, xóa đói giảm nghèo và thực hiện các Mục tiêu phát triển thiên nhiên kỷ của Liên Hợp Quốc. Tuy nhiên, nền kinh tế tăng trưởng cao nhưng chỉ số năng lực cạnh tranh ở mức thấp, gây lãng phí tài nguyện Nền kinh tế vẫn nằm ở nhóm các nước kinh tế đang phát triển. Trong cơ cấu kinh tế, nông ngiệp vẫn chiếm 72,2% (2002), nền kinh tế vẫn chủ yếu bao gồm các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp Nhad nước hoạt động kém hiệu quả. Một số thị trường vẫn chưa được thiết lập đầy đủ như: thị trường vốn, thị trường tiền tệ. thị trường lao động, thị trường khoa học công nghệ... Một số thể chế pháp luật và hành chính cần thiết cho nền kinh tế thị trường vẫn chưa được quy định hay đã được quy định nhưng không được thực hiện, gây ra tình trạng tham nhũng, cửa quyền..., làm chỉ số minh bạch của môi trường kinh doanh thấp. Sau 20 năm đổi mới, đồng tiền Việt Nam vẫn là đồng tiền không có khả nă người chuyển đổi và nhiều quốc gia, nhiều tổ chức vẫn không công nhận Việt nam có nền kinh tế thị trường. II. Tính tất yếu khách quan phải phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở Việt Nam. Chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phù hợp với thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam, thời kỳ xuất hiện nhiều hình thức kinh tế quá độ đan xen. Chủ trương này ra đời từ quá trình đổi mới, từ quá trình xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, từ bối cảnh khắc phục tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng chúng tôi chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. Trên cơ sở mô hình tổng quát của nền kinh tế thị trường, đường lối kinh tế của nước chúng tôi được xác định trong hai thập niên đầu của thế kỷ XXI là : đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đưa nước chúng tôi trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy cao độ nội lực đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập quốc tế để phát triển nhanh , có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh; mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. 1. Phát triển kinh tế hàng hóa do yêu cầu của sự phát triển lực lượng sản xuất. Thực chất là việc chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn. Mỗi thành phần kinh tế bao giờ cũng thích ứng với một tính chất trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, theo đó lực lượng sản xuất là nội dung quan trọng và có vai trò quyết định tới quan hệ sản xuất cũng như các thành phần kinh tế khác. Ở nước ta hiện nay do tính đa dạng về ytinhf độ của lực lượng sản xuất nên về hình thức, quan hệ sản xuất và thành phần kinh tế được đa dạng hóa là tất yếu. Vì vậy khi xác định các thành phần kinh tế cần phải xem xét đến tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, và tất nhiên phải xem xét trong trạng thái động. Một trong những tư tưởng xuyên suốt do hội nghị lần 4 Ban chấp hành TƯ Đảng khóa VIII nhằm cụ thể hóa và thực hiện thành công những mục tiêu kinh tế xã hội mà Đại hội VIII của Đảng đề ra là ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp định hướng XHCN. Xét về quan hệ sản xuất thì lực lượng sản xuất luôn là yếu tố động nhất, quyết định đối với sự phát triển của sản xuất xã hội. Chính vì vậy để đạt được mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, Đảng ta đã xác định công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn. 2. Nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam tồn tại nhiều thành phần kinh tế. Cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế là do còn nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Đại hội Đảng VIII khẳng định: "Các thành phần kinh tế tồn tại khách quan tương ứng với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.Trong giai đoạn lịch sử hiện nay đó là : kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (bao gồm kinh tế cá thể và tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Nền kinh tế nhiều thành phần trong sự vận động của cơ chế thị trường nước ta là nguoobnf lự tổng hợp to lớn để dưa nề kinh tế Việt Nam thoát khỏi tình trạng thấp kém, đưa nền kinh tế phát triển ngay cả trong tình trạng ngân sách hạn hẹp. Tuy nhiên cần lưu ý rằng mỗi thành phần kinh tế đồng thời vừa tồn tại độc lập, vừa tác động qua lại lẫn nhau, vừa hợp tác cạnh tranh, vừa thống nhất vừa mâu thuẫn trong một chỉnh thể kinh tế xã hội. Không nên hiểu mỗi thành phần kinh tế như những bộ phận tách rời, những lực lượng tự trị và theo đó cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là sự hợp nhất cơ học của các thành phần đó. Trong quá trình phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, một vấn đề có tính nguyên tắc cần phải nắm vững, đó là kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo cùng với các thành phần kinh tế khác phát triển trên thị trường. Nếu thành phần kinh tế Nhà nước đủ mạnh và đóng được vai trò chủ đạo thì sẽ lôi kéo được các thành phần kinh tế khác theo định hướng XHCN. Tuy nhiên cần luôn nhớ rằng thành phần kinh tế TBCN đã đang và sẽ có hậu thuẫn quốc tế rất mạnh. Nhất là trong tình hình hiện nay, các thế lực chống phá XHCN đang tìm cách cho kinh tế tư bản tư nhân phát triển manh, trở thành thành phần kinh tế chủ đạo ở nước ta. Do đó cần luôn cảnh giác, đề phòng cao độ. 3. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần do đòi hổi nâng cao đòi sống nhân dân. Việt Nam đi lên từ một nước phong kiến thuộc địa lạc hậu, tiếp theo đó là chiến tranh kéo dài.Khi chiến tranh kết thúc, thống nhất đất nước, nhìn lại mình thì nước ta đa tụt hậu quá nhiều so với thế giới. Sự hỗ trợ to lớn của các nước XHCN là hậu thuẫn mạnh mẽ cho cuộc kháng chiến. Nhưng ở thời kì hòa bình, xây dựng, đổi mới đất nước, hỗ trợ đó hầu như không có hiệu quả, thể hiện ở tình trạng lạc hậu về kĩ thuật so với các nước tư bản phát triển, ở cơ cấu kinh tế bất hợp lí và kinh nghiệm quản lí theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, ở sự ỷ lại của các doanh nghiệp vào Nhà nước mà không chịu phấn đấu. Cùng với sự sụp đổ của hệ thống XHCN ở Đông Âu, Việt Nam đứng bên bờ của cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội. Thu nhập bình quân đầu người được đánh giá vào nhóm các nước nghèo nhất thế giới. So sánh chỉ tiêu kinh tế xã hội giữa Việt Nam và các nước ASEAN năm 1 GDP bình quân trên đầu người(USD) Chỉ số HDI Vị trí HDI trong 176 nước Việt Nam 170 0,514 116 Indonexia 730 0,568 105 Malayxia 3160 0,794 57 Philipin 830 0,621 99 Singapo 19310 0,836 43 Thái Lan 2040 0,798 54 (HDI: chỉ số phát triển con người.) Sau khi đổi mới, chất lượng cuộc soongd của nhân dân đã được cải thiện nhưng vẫn ở mức thấp. Sự phân hóa giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn, giữa các tầng lớp nhân dân diễn ra gay gắt và trở nên rõ nét. Đời sống của 1 bộ phận nhân dân, đặc biệt là ở một số vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến cũ, đồng bào dân tộc còn quá khó khăn, vất vả. Chất lượng giáo dục đào tạo, y tế ở nhiều nơi còn thấp kém.Người nghèo không đủ tiền chữa bệnh và cho con em đi học. Trong khi đó nguồn tài chính từ ngân sách và các nguồn lực khác có thể huy động cho phúc lợi xã hội vừa hạn chế, vừa chưa được sử dụng có hiệu quả. Tình trạng ùn tắc giao thông, ô nhiễm môi trường sinh thái, hủy hoại tài nguyên thiên nhiên ngày càng tăng. Văn hóa phẩm độc hại lan tràn, tệ nạn xã hội phát triển, trật tự an toàn xã hội còn nhiều phức tạp. Xuất phát từ nhu cầu thực tế của đời sống xã hội, để ổn định kinh tế trong nước và hội nhập quốc tế, ta phải xây dựng một nền kinh tế mở, một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, đa dạng hóa các hình thức sở hữu. Sự thành công của một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ biểu hiện ở tốc độ tăng trưởn kinh tế cao mà còn ở chỗ mức sống thực tế của mọi tầng lớp nhân dân đều được tăng lên, y tê giáo dục đều phát triển, khoảng cách giàu nghèo được thu hẹp, đaoh đức truyền thống, bản sác văn hóa dân tộc được giữ vững, môi trường được bảo vệ. III. Những giải pháp để phát triển kinh tế hàng hóa ở Việt Nam. 1. Phát triển kinh tế hàng hóa theo hướng mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài. Sự ra đòi và phát triển của kinh tế hàng hóa đã làm phá vỡ các mối quan hệ kinh tế truyền thống của nền kinh tế khép kín, kem phát triển, bảo thủ trì trệ. Đặc biệt đến giai đoạn tư bản chủ nghĩa, sự phát triển của kinh tế hàng hóa đã lamg cho thị trường dân tộc hoaatj động gắn bó với thị trường thế giới. Việc mở rộng quan hệ hợp tác với nước ngoài là tất yếu vì sản xuất và trao đổi hàng hóa tất yếu vượt qya phạm vi quốc gia, mang tính chất quốc tế. Đồng thời đó cũng là tất yếu sự phát triển nhu cầu. Thông qua mở rộng quan hệ với các nước khác để biến nguồn lực bên ngoài thành nguồn lực bên trong, tạo điều kiện cho phát triển rút nắng ở nước ta. Mở rộng quan hệ kinh tế với các nước khác bằng nhiều cách như: Tăng cường hoạt động ngoại thương, hợp tác, liên doanh, liên kết để thu hút vốn đầu tư cho nước ta, gia nhập các tổ chức quốc tế và khu vực. Tranh thủ nắm bắt những mặt hàng mũi nhọn có trong tương lai, gắn với công nghệ mới, tiến tới có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới... nhanh chóng đưa nền kinh tế nước ta hội nhập vào nhịp điệu của nền kinh tế thế giới. Việc "mở cửa" về kinh tế phải đảm bảo nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng lẫn nhay, bảo đảm chủ quyền và cùng có lợi. 2. Phát triển kinh tế hàng hóa theo định hướng XHCN thông qua bản chất và vai trò quản lí của Nhà nước. Mặc dù có rất nhiều ưu điểm nhưng nền kinh tế thị trường không thể nào giải quyết được những vấn đề do chính cơ chế và đời sống kinh tế xã hội gây ra. Vif vậy, sự tác động của Nhà nước _ một chủ thể có khả năng nhận thức và vận dụng các quy luật khác quan vào nền kinh tế là một tất yếu cho sự phát triển kinh tế xã hội. Nhà nước sử dụng luật pháp và các công cụ kinh tế vĩ mô khác để quản lý kinh tế hàng hóa, làm cho nền kinh tế "lành mạnh" hơn, giảm bớt các thăng trầm, đột biến xấu trên con đường phát triển, khắc phục được tình trạng phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội, bảo vệ tài nguyên môi trường của đất nước. Sự vận động của nền kinh tế hàng hóa ở nước ta là sự thống nhất giữa cơ chế thị trường- "Bàn tay vô hình" có sự quản lý của nhà nước- "bàn tay hữu hình". 3. Huy động vốn trong nhân dân cũng như tranh thủ viện trợ từ nước ngoài, tao điều kiện phát triển kinh tế. Mặc dù Nhà nước khuyến khích nhưng việc hy động vốn trong nhân dân vẫn không đạt hiệu quả cao. Nguồn tài chính trong dân khá lớn nhưng chưa được sư dụng để phát triển sản xuất. Ước tính có khoảng trên 10000 tỷ đồng, bao gồm 5000 tỷ nằm ở dự trữ và
Tài liệu liên quan