Theo các nhà sử học, đất nước ta đã trải qua bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước,chống thù trong giặc ngoài.Trong chiến tranh, Đảng và Nhà nước ta đã lãnh đạo nhân dân một cách sáng suốt và kiên định đánh đuỏi bè lũ lang sói xâm lăng. Từ một nước bị thống trị dưới ách đế quốc thực dân và bị kìm hãm về mọi mặt kinh tế -chính trị-xã hội dưới thời phong kiến,đát nước ta dã vươn lên đánh đổ các xiềng xích để đi theo con đường Chủ Nghĩa Xã Hội .Không phải ngẫu nhiên mà giữa lúc các nước Đông Âu, Liên Xô, Cu Ba và một số nước trong hệ thống các nước Xã Hội Chủ Nghĩa bị tan dã hay khủng hoảng mà nưpức ta vẫn bỏ qua chế độ Tư Bản Chủ Nghĩa vẫn kiên định chọn con đường Xã Hội Chủ Nghĩa. Sở dĩ vậy Đảng và Nhà nước ta nhận thấy chỉ có chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa mới thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, mới thực hiện được công bằng và tiến bộ xã hội, đoàn kết dân tộc vững bền.
Song song với việc ổn định chính trị và bảo vệ Tổ Quốc, Dảng và Nhà nước ta đã lãnh đạo nhân dân xây dựng mốt nền kinh tế vững mạnh để đảm bảo đời sống nhân dân và dần dần sẽ cải thiện nâng cao đời sống nhân dân và xây dựng đất nước phồn vinh giàu mạnh. Để thưc hiện mục tiêu đó, Đảng và Nhà nước ta nhận thấy nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp không còn phù hợp nữa, bởi nó kìm hãm sự phát triển kinh tế quá nhiều của đất nước nói chung và sự tư duy,sáng tạo của con người, ức chế sự phát triẻn của kinh tế cá thể. Từ năm 1968,nước ta thực hiện đổi mới, bước sang thời kỳ ”mở cửa” hội nhập vào xu hướng phát triển chung của thế giới, xu hướng toàn cầu hoá, xoá bỏ nèn kinh tế “khép kín”. Nền kinh tế thị trường hoạt động theo cơ chế thị trường là một yêu càu cần thiết đối với chúng ta để hoà nhập vào nền kinh tế thế giới.
Nhận thấy vai trò quan trọng và tính cấp thiết của cơ chế thị trường trong thời đại ngày nay và vai trò to lớn của Nhà nước trong điều tiết, quản lý kinh tể nước ta là vấn đề “nổi cộm” nên tôi thiết nghĩ đề tài “Cơ chế thị trường trong thời kỳ quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội ở Việt Nam” rất đáng được quan tâm. Từ một nền kinh tế “tập chung chỉ huy” quản lý bao cấp và đi lên từ một nước nông nghiệp, sản xuất và phân phối sản phẩm bước sang nền kinh tế thị trường và hơn nữa thì làm thế nào để đảm bảo nền tinh hoa ,truyền thống của dân tộc, những phong tục ,tập quán tốt đẹp cơ chế thị trường sẽ bộc lộ hai mặt đối lập của nó: tính tích cực và tiêu cực. Vậy làm thế nào để bước vào cơ chế thị trường mà nước ta vẫn giữ gìn được những phong tục ,tập quán ,những tinh hoa ,truyền thống của dân tộc lại đưa kinh tế phát triển năng động,có hiệu quả cao theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa và hợp với đặc điểm, xu thế của thời đại, của xu thế toàn cầu hoá thì phải cần đến vai trò kinh tế của Nhà nước để phát huy những tính tích cực và hạn chế những tiêu cực của cơ chế thị trường
13 trang |
Chia sẻ: lamvu291 | Lượt xem: 1352 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Cơ chế thị trường trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. Lời nói đầu
Theo các nhà sử học, đất nước ta đã trải qua bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước,chống thù trong giặc ngoài.Trong chiến tranh, Đảng và Nhà nước ta đã lãnh đạo nhân dân một cách sáng suốt và kiên định đánh đuỏi bè lũ lang sói xâm lăng. Từ một nước bị thống trị dưới ách đế quốc thực dân và bị kìm hãm về mọi mặt kinh tế -chính trị-xã hội dưới thời phong kiến,đát nước ta dã vươn lên đánh đổ các xiềng xích để đi theo con đường Chủ Nghĩa Xã Hội .Không phải ngẫu nhiên mà giữa lúc các nước Đông Âu, Liên Xô, Cu Ba và một số nước trong hệ thống các nước Xã Hội Chủ Nghĩa bị tan dã hay khủng hoảng mà nưpức ta vẫn bỏ qua chế độ Tư Bản Chủ Nghĩa vẫn kiên định chọn con đường Xã Hội Chủ Nghĩa. Sở dĩ vậy Đảng và Nhà nước ta nhận thấy chỉ có chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa mới thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, mới thực hiện được công bằng và tiến bộ xã hội, đoàn kết dân tộc vững bền.
Song song với việc ổn định chính trị và bảo vệ Tổ Quốc, Dảng và Nhà nước ta đã lãnh đạo nhân dân xây dựng mốt nền kinh tế vững mạnh để đảm bảo đời sống nhân dân và dần dần sẽ cải thiện nâng cao đời sống nhân dân và xây dựng đất nước phồn vinh giàu mạnh. Để thưc hiện mục tiêu đó, Đảng và Nhà nước ta nhận thấy nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp không còn phù hợp nữa, bởi nó kìm hãm sự phát triển kinh tế quá nhiều của đất nước nói chung và sự tư duy,sáng tạo của con người, ức chế sự phát triẻn của kinh tế cá thể. Từ năm 1968,nước ta thực hiện đổi mới, bước sang thời kỳ ”mở cửa” hội nhập vào xu hướng phát triển chung của thế giới, xu hướng toàn cầu hoá, xoá bỏ nèn kinh tế “khép kín”. Nền kinh tế thị trường hoạt động theo cơ chế thị trường là một yêu càu cần thiết đối với chúng ta để hoà nhập vào nền kinh tế thế giới.
Nhận thấy vai trò quan trọng và tính cấp thiết của cơ chế thị trường trong thời đại ngày nay và vai trò to lớn của Nhà nước trong điều tiết, quản lý kinh tể nước ta là vấn đề “nổi cộm” nên tôi thiết nghĩ đề tài “Cơ chế thị trường trong thời kỳ quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội ở Việt Nam” rất đáng được quan tâm. Từ một nền kinh tế “tập chung chỉ huy” quản lý bao cấp và đi lên từ một nước nông nghiệp, sản xuất và phân phối sản phẩm bước sang nền kinh tế thị trường và hơn nữa thì làm thế nào để đảm bảo nền tinh hoa ,truyền thống của dân tộc, những phong tục ,tập quán tốt đẹp cơ chế thị trường sẽ bộc lộ hai mặt đối lập của nó: tính tích cực và tiêu cực. Vậy làm thế nào để bước vào cơ chế thị trường mà nước ta vẫn giữ gìn được những phong tục ,tập quán ,những tinh hoa ,truyền thống của dân tộc lại đưa kinh tế phát triển năng động,có hiệu quả cao theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa và hợp với đặc điểm, xu thế của thời đại, của xu thế toàn cầu hoá thì phải cần đến vai trò kinh tế của Nhà nước để phát huy những tính tích cực và hạn chế những tiêu cực của cơ chế thị trường
B. Nội dung.
I. Cơ chế kinh tế và những yếu tố cấu thành nên nó.
Cơ chế kinh tế là nguyên tắc là phương thức vận hành của nền kinh tế. Bất cứ một nền kinh tế của một quốc gia, một khu vực nào cũng đều vận động theo một cơ chế nhất định. Nhưng dù theo cơ chế nào thì nền kinh tế cũng hoạt động và đáp ứng được ba yêu cầu cơ bản để phục vụ cho xã hội. Trước hết, đó là sản xuất cái gì? Sau đó là sản xuất chúng như thế nào rồi mới xác định thị trường, đối tượng tiêu thụ: sản xuất cho ai? Giống như một số nước Xã Hội Chủ Nghĩa, nền kinh tế của nước ta đã và đang vận động theo hai hình thức kinh tế : cơ chế kinh tế tự nhiên hoàn toàn hay còn gọi là nền kinh tế “khép kín” , tự cung tự cấp ; và nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Nền kinh tế nước ta đã có một thòi gian khá dài vận động theo cơ chế tự cung tự cấp mà ở các nước Xã Hội Chủ Nghĩa là nền kinh tế tập trung chỉ huy còn ở nước ta là cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Thực tế cho thấy, vào những năm 60 ( ở miền Bắc) và cả nước vào những năm 1975 đến nay , chúng ta đã mắc những sai lầm về nhận thức nền kinh tế thị trường và đã có những bài học sâu sắc về tính nóng vội , chủ quan , duy ý chí, vi phạm các qui luật kinh tế như: qui luật giá trị, qui luật cung cầu...đặc biệt là qui luật sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Nhờ nhận thức được những sai lầm trong đường lối chỉ đạo kinh tế , từ những năm 1986, nước ta đã chủ trương đổi mới tronng chính sách chỉ đạo kinh tế , đưa nền kinh tế nước ta sang thời mở cửa để hội nhập với kinnh tế trên thế giới, xu hướng phát triển chunng của thời đại .
II. Vì sao nước ta lại có xu thế chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường.
Nước ta đi lên từ một nền kinh tế rất thấp kém, đó là nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp , tự cung tự cấp và sản xuất nông nghiệp là chủ yếu . Hơn nữa , do trình độ khoa học kỹ thuật thấp kém , công cụ lao động rất thô sơ, lạc hậu với “con trâu đi trước cái cày theo sau” trong một nền kinh tế “khép kín”, mua bán theo phiếu Nhà nước phát nên sức sản xuất hạn chế và không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của nhân dân . Hơn nữa, sau đêm trường nô lệ , khi đã quét sạch tàn dư phong kiến và đánh đuổi đế quốc thực dân giành chính quyền nứơc ta vẫn bị 30 năm chiến tranh tàn phá và 19 năm bị Mỹ cấm vận; vì thế, nền kinh tế đã kém phát triển lại càng ít có điều kiện để nhìn ra bên ngoài, tiếp cận thị trường thế giới để có động lực phát triển bị hạn chế trong một thời gian khá dài đó nên mặc dù lao động đông nhưng trình độ tay nghề và trình độ văn hoá ở mức trung bình thấp ; tài nguyên phong phú đa dạng song trữ lượng lại ở mức vừa và nhỏ , điều kiện khai thác lại khó khăn , thiếu vốn và trình độ công nghệ lạc hậu nên nền kinh tế nước ta rất khó để phát triển mà thậm chí bị tụt hậu nửa thế kỷ so với thế giới về trình độ khoa học - công nghệ và sự phát triển kinh tế . Nhưng hiện nay , chúng ta đã nhận thức đúng đắn bản chất và những khuyết điểm của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp là không phù hợp với nền kinh tế thị trường hiện nay ở trong nước nói riêng và trên thế giới nói chung mà nền kinh tế đó phải vận hành theo cơ chế thị trường là hợp lý . Vậy những đặc trưng của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp là gì ? Và làm thế nào là vận động theo cơ chế thị trường của nền kinh tế và cơ chế thị trường có những ưu , nhược điểm gì mà đã phủ định được cơ chế tập trung quan liêu bao cấp và ưu, nhược điểm của nó có mâu thuẫn như thế nào mà phải cần đến vai trò kinh tế của Nhà nước .
1.Những đặc trưng cơ bản của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp
Cơ chế tập trung quan liêu bao cấp là biểu hiện của nền kinh tế tự nhiênmà ở đó tất cả cáchoạt đôngj kinh tế đều xuất phát từ nhu cầu của con người. Nó vận hành theo nguyên tắc tâm sinh lý. Nó có những đặc trưng cơ bản là:
Trong cơ chế tập trung chỉ huy Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng mệnh lẹnh hành chính là chủ yếu. Điều này thể hiện ở việc Trung Ưong đưa kế hoạch xuống bằng một hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh .
Các cơ quan hành chính - kinh tế can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở , làm giảm tính chủ động sáng tạo , tự chịu trách nhiệm của đơn vị , đồng thời lại không có cơ chế ràng buộc trách nhiệm trước những quyết định của các cơ quan đề ra quyết định đó.
Duy trì và phát triển chế độ công hữu tư liệu sản xuất dưới hai hình thức toàn dân và tập thể là chủ yếu .Ngược lại,sở hữu tư nhân cùng với các thành phần kinh tế khác ngoài kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể bị coi là “phi Xã Hội Chủ Nghĩa” không được coi trọng phát triển .
Không thừa nhận đầy đủ nền kinh tế hàng hoá, hiện vật hoá và hình thức hoá quan hệ hàng hoá tiền tệ , vi phạm qui luật kinh tế khách quan của thị trường .
Quản lý kinh tế và kế hoạch hoá chủ yếu thông qua chế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm . Chế độ bao cấp được thể hiện dưới các hình thức: Bao cấp qua giá , chế độ cung cấp và cấp phát vốn của ngân sách mà không có cơ chế chặt chẽ ràng buộc vật chất với người được cấp phát vốn.
ở nước ta, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp tồn tại trong một thời gian khá dài , khi đó đất nước cần tập trung giải quyết nhiệm vụ chiến tranh hết sức nặng nề , nhu cầu đời sống dân cư còn thấp , đơn giản và tương đối giống nhau. Trình độ phát triển kinh tế thấp , xu hướng phát triển kinh tế theo chiều rộng còn phù hợp bởi vậy cơ chế tập trunng quan liêu bao cấp còn phát huy tác dụng .Khi điều kiện thay đổi, cơ chế kinh tế cũ đã trở nên lỗi thời và trở thành một trong những nguyên nhân dẫn dến tình trạng trì trệ, giảm động lực phát triển kinh tế . Cho nên chủ trương đổi mới do Đảng ta đề ra và lãnh đạo đã thực sự đi vào cuộc sống và đem lại những thành tựu to lớn cho nền kinh tế nước ta . Từ xuất phát điểm yếu kém cuả nền kinh tế nước ta và những hạn chế của cơ chế bao cấp để lại muốn tiến tới mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì trước hết phải vượt qua ngưỡng cửa nghèo, mà phương pháp tối ưu nhất là mở cửa cho nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước .
2. Cơ chế thị trường và tính hai mặt của nó.
2.1 Khái niệm cơ chế thị trường
Theo nghĩa hẹp thị trường là nơi gặp gỡ giữa người bán và người mua để trao đổi hàng hoá và dịch vụ. Hiểu rộng hơn, thị trường là nơi diễn ra sự trao đổi hàng hoá và dịch vụ theo yêu ncầu của qui luật sản xuất và lưu thông hàng hoá , là tổng hợp các quan hệ lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ
Căn cứ vào nội dung hàng hoá, có thị trường hàng tiêu dùng , thị trường sức lao động , thị trường tư liệu sản xuất, thị trường tiền tệ , thị trường chứng khoán. Căn cứ vào phạm vi hoạt động, có thị trường địa phương, thị trường dân tộc , thị trường khu vực , thị trường thế giới.
Từ đó ta có khái niệm cơ chế thị trường như sau: cơ chế thị trường đó là tổng thể các mối quan hệ kinh tế , các phạm trù kinh tế và qui luật kinh tế có quan hệ hữu cơ với nhau cùng tác động để điều tiết cung - cầu , giá cả cùng những hành vi của những người tham gia thị trường nhằm giải quyết ba vấn đề cơ bản : Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai?
2.2 Tính hai mặt của cơ chế thị trường
Bất kì một sự vật hiện tượng nào cũng tồn tại mâu thuẫn một cách khách quan và phổ biến bên trong nó. Cơ chế thị trường là một hiện tượng kinh tế nên nó cũng không ngoại lệ mà tồn tại những mặt đối lập , những đặc tính có khuynh hướng đối lập nhau , người ta gọi những mặt đối lập đó của cơ chế thị trường là ưu điểm và nhược điểm của nó .
2.2.1 Những ưu điểm của cơ chế thị trường.
So với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, cơ chế thị trường có những mặt tích cực mà thay thế phủ định được cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Những ưu điểm đó là:
Tạo điều kiện phát huy mọi tiềm năng, thúc đẩy tiềm năng phát triển của mọi người , mọi cá nhân trong xã hội vì thế thúc đẩy kinh tế năng động và có hiệu quả hơn.
Có khả năg tự điều chỉnh sửa chữa sai lầm kịp thời vì thế hạn chế phạm vi và mức độ tác hại của những sai lầm kinh tế.
Lấy giá cả làm tín hiệu phản hồi khách quan của thị trường và do đó sát với thực tế hơn và giảm được tính chủ quan duy ý chí .
Thị trường phản ánh nhu cầu xã hội và có “tiếng nói” quyết định trong việc phân bố các nguồn lực cho sản xuất hình thành cơ cấu kinh tế . Nhờ vậy mà cơ chế thị trường phân bố nguồn lực cho các ngành và các vùng kinh tế.
2.2.2 Những nhược điểm của cơ chế thị trường
Cùng với những mặt tích cực thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển thì cơ chế thịi trường cũng tồn tại những hạn chế không thể khắc phục được. Những hạn chế đó là:
Thường xuyên tạo ra sự mất cân đối ở tầm vĩ mô, làm giảm hiệu quả trên qui mô nền kinh tế quốc dân .
Chứa những yếu tố làm giảm phát triển kinh tế do độc quyền cạnh tranh tự do, giữ bí quyết kinh doanh, sản xuất ở mỗi đơn vị sản xuất.
Do cạnh tranh tự do và chạy theo lợi nhuận nên các đơn vị sản xuất ồ ạt và để giảm giá trị cá biệt họ không ngần ngại buôn gian bán lận , làm hàng giả dẫn đến chất lượng hàng hoá kém , lừa khách hàng, trốn thuế ... Tất cả nhằm mục đích thu lời cao . Vì thế , mà nhiều bệnh trạng xã hội phát sinh và phát triển như: phân hoá giàu nghèo , lạm phát , giảm phát.
Cũng vì do lợi nhuận mà các nhà sản xuất kinh doanh luôn tìm cách làm hạ giá trị cá biệt thấp hơn giá trị xã hội nên họ đầu tư và phát triển khoa học kỹ thuật để tạo ra công cụ lao động mới cho năng suất cao. Vì thế mà sa thải nhiều công nhân lao động dẫn đến nạn thất nghiệp ngày càng tăng và tệ nạn xã hội ngày càng phát sinh , phát triển ; đồng thời bóc lột người lao động dưới những hình thức tinh vi hơn.
Do những nhược điểm trên mà trên phạm vi quốc tế , cơ chế thị trường dễ dẫn đến mâu thuẫn giữa các nước , các trung tâm kinh tế đặc biệt dẫn đến trật tự kinh tế bất công giữa các nước giàu và nghèo.
Để phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường để tạo điều kiện và thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển thì cần có sự quản lý của Nhà nước.
3. Vai trò kinh tế của nhà nước
Tuỳ thuộc vào chế độ xã hôị, giai đoạn lịch sử và từng quốc gia khác nhau mà vai trò kinnh tế của Nhà nước có những biểu hiện khác nhau .Vai trò kinh tế nhà nước có trước chủ nghĩa tư bản độc quyền dưới hình thức thuế và pháp luật .Theo Ăngghen thì các nhà nước này ở bên trên , bên ngoài các quá trình kinh tế .Đó là sự can thiệp gián tiếp của nhà nước vào nền kinh tế.
ở nước ta, Đảng thực hiện lãnh đạo kinh tế chủ yếu thông qua Nhà nước .Đây là một đặc điểm mới , chỉ có được sau khi Đảng có chính quyền lãnh đạo xây dựng đất nước. Đảng lãnh đạo kinh tế bao hàm nhiều ý nghĩa , chủ yếu thông qua Nhà nước .Như vậy , Nhà nước là một công cụ thuận lợi mà qua đó Đảng lãnh đạo nền kinh tế nước nhà.
3.1. Tại sao nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường cần có sự quản lý của nhà nước.
Cơ chế thị trường có những mặt tích cực như thúc đẩy lực lượng sản xuất và kỹ thuật phát triển tiến bộ , thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, cạnh tranh nhưng đồng thời nó cũng làm nảy sinh mặt tiêu cực như phân hoá những người sản xuất hàng hoá , gây khủng hoảng kinh tế , gây thất nghiệp và nhiều tệ nạn xã hội v.v... Do đó cần có sự quản lý của Nhà nước để khắc phục những hạn chế , những phát sinh tiêu cực đó .Sự quản lý của Nhà nước còn nhằm hướng sự phát triển kinh tế theo những mục tiêu, phương hướng nhất định , hạn chế mặt tiêu cực và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.Hơn nữa , sự quản lý của Nhà nước thông qua các công cụ rất có hiệu lực.
3.2. Sự quản lý kinh tế của Nhà nước là một yêu cầu có tính tất yếu khách quan.
Thông qua nhiệm vụ tổ chức quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân ở tầm kinh tế vĩ mô và vi mô, trong đó quản lý kinh tế vĩ mô là chủ yếu .
Nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa với tư cách là người đại diện cho lợi ích của nhân dân , của toàn xã hôị, có nhiệm vụ quản lý đất nước về hành chính , kinh tế và xã hội
Nhà nước là người đại diện cho sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất, có nhiệm vụ quản lý các xí nghiệp thuộc khu vực kinh tế Nhà nước .
3.3. Vai trò kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở thời kỳ quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội được thể hiện ở:
3.3.1. Chức năng kinh tế của nhà nước thông qua nhiệm vụ tổ chức toàn bộ nền kinh tế quốc dân ở tầm vĩ mô và vi mô, trong đó quản lý kinh ttế vĩ mô là chủ yếu.
3.3.1.1. Quản lý kinh tế ở tầm vĩ mô.
Thực hiện chức năng kinh tế này, Nhà nước sử dụng các công cụ có hiệu quả như hệ thống luật pháp, đặc biệt là luật pháp kinh tế,hệ thống các chính sách kinh tế - xã hội trước hết là chinh sách vè tài chính , tín dụng, tiền tẹ ngân hàng; kế hoạch hoá dịnh hướng phát triể kinh tế ; lực lượng dự trữ quốc gia; kinh tế Nhà nước. Những công cụ trên với tư cách là hệ thống công cụ để định hướng phát triển nền kinh tế và chỉ đạo hoạt động, đảm bảo cho nền kinh tế quốc dân phát triển theo định hương Xã Hội Chủ Ngiã và mục tiêu đề ra, đảm bảo những cân đối vĩ mô cần thiết.
Thực hiện tốt vai trò người chủ sở hữu toàn bộ tài sản quốc gia ,Nhà nước có quyền và có trách nhiệm quản lý , phân bố mọi nguồn lực và đất nướcđể sử dụng có hiệu quả cao nhất , kiểm tra ,kiểm soát hoạt động kinh tế.
Tạo mọi điều kiện cần thiết cho cho các quá trình tăng trưởng và phát triển ổn định bền vững quá trình hội nhập nền kinh tế khu vực và toàn cầu đưa đất nước tiến kịp trình độ chung của thế giới.
Đầu tư vào câc ngành knh tế mũi nhọn , các ngành dược lựa chọn để phát triển kinh tế theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa.
Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh tế như : ổn định chính trị xã hội , thiết lập kuôn khổ pháp luật , chính sách nhất quán , ổn định môi trường kinh doanh , khống chế tỷ lệ lạm phát, chống khủng hoảng kinh tế và phát triển mặt tích cực , hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường.
Đề ra và thực hiện các chính sách xã hội cần thiết phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân theo mục tiêu kinh tế xã hội đã xác định.
3.3.1.2. Quản lý các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế Nhà nuớc.
Doanh nghiệp Nhà nước là những đơn vị kinh tế trong đó phần tài sản chủ yếu thuộc sở hữu Nhà nước. Vì thế, Nhà nước có quyền và có trách nhiệm kiểm tra quản lý các doanh nghiệp này.
Nhà nước không trực tiếp sử dụng tài sản mà giao quyền hạn và nghĩa vụ sử dụng tài sản Nhà nước cho các doanh nghiệp bằng văn bản pháp luật . Vì thế, chính cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp trực tiếp sử dụng tài sản Nhà nước
Nhà nước không trực tiếp chỉ đạo kinh doanh mà thông qua các cơ quan chức năng, Nhà nước chỉ thực hiện các chức năng chủ yếu sau:
Quyết định thành lập hay phá sản doanh nghiệp.
Quyết định phương hướng kinh doanh chủ yếu của doanh nghiệp và nghĩa vụ của nó đối với Nhà nước .
Bổ nhiệm , miễn nhiệm một số chức danh của doanh nghiệp .
Ban hành chính sách cần thiết có tính pháp lệnh đối với doanh nghiệp.
Kiểm tra việc thực hiện các chính sách đó tại các doanh nghiệp.
Hai chức năng quản lý trên của Nhà nước có quan hệ chặt chẽ với nhau. Bởi vì, kinh tế Nhà nước là một trong những phương tiện vật chất để Nhà nước quản lý vĩ mô nền kinh tế. Để làm tốt hai chức năng trên cần phải giải quyết tốt, đúng đắn mối quan hệ và sự khác nhau giữa chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế và vai trò người đại diện chủ sở hữu tài sản công của Nhà nước với chức năng quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; đồng thời đòi hỏi Nhà nước phải sử dụnh một cách đồng bộ, có hiệu quả cao các loại công cụ, các biện pháp khác nhau, bao gồm cả biện pháp hành chính và biện pháp kinh tế. Một mặt, đảm bảo sự phù hợp với điều kiện tâm lý, truyền thống, thực tế của đất nước, của dân tộc.Mặt khác, phải đáp ứng yêu cầu, phát triển nền kinh tế năng động có hiệu quả cao theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa phù hợp với đặc điểm xu hướng của thời đại.
3.3.1.3. Công cụ để Nhà nước thực hiện vai trò chức năng của mình.
Hệ thốnng pháp luật:
Đặc biệt là luật kinh tế phải đầy đủ, đồng bộ, đồng nhất không ngừng được hoàn chỉnh và có đủ hiệu lực để thực hiện nó. Thông qua công cụ này, Nhà nước tạo ra hành lang để lập và duy trì kỷ cương trật tự hướng dẫn các doanh nghiệp hoạt động theo pháp luật, chống mọi hoạt động làm ăn phi pháp.
Kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân:
Đây là công cụ quan trọng của Nhà nước để hoạch định các chương trình định hướng, mục tiêu trong từng thời kỳ. Kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân hoạt động tự giác, có ý thức của Nhà nước để quản lý toàn bộ nền kinh tếtheo một mục tiêu thống nhất đã định trước trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật kinh tế khách quan nhằm xác định tốc độ, quan hệ tỷ lệ cơ cấu kinh tế hợp lý để không ngừng mở rộng sản xuất với hiệu quả kinh tế xã hội ngày càng cao. Có thể nói, kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân là quá trình cụ thể hoá đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước thành nhữnh chỉ tiêu số liệu cụ thể trên cơ sở đó mà thực hiện để biến đường lối chủ trương chính sách thành hiện thực. Vì vậy, Kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân là công cụ của Nhà nước để quản lý nền kinh tế thực hiện đường lối của Đảng cầm quyền, là lực lượng hoá chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước.
Hệ thống chính sách kinh tế - xã hội:
Hệ thống này bao gồm các chính sách về tài chính, tiền tệ, tín dụng ngân hàng, chính sách đầu tư, chính sách thuế, chính sách kinh tế đối ngoại, chính sách kinh tế nhiều thành phần góp phần