Enzyme là một chất xúc tác sinh học không chỉ có ý nghĩa cho quá trình sinh trưởng, sinh sản của mọi sinh vật mà nó còn đóng vai trò rất quan trọng trong công nghệ chế biến thức phẩm, trong y học, trong kỹ nghệ phân tích, trong công nghệ gen và trong bảo vệ môi trường.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 56 trang
56 trang | 
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 3855 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cố định enzyme – amylase bằng gel alginate, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 
Phần 1. 
LỜI NÓI ĐẦU 
Enzyme là một chất xúc tác sinh học không chỉ có ý nghĩa cho quá trình sinh 
trưởng, sinh sản của mọi sinh vật mà nó còn đóng vai trò rất quan trọng trong công 
nghệ chế biến thức phẩm, trong y học, trong kỹ nghệ phân tích, trong công nghệ 
gen và trong bảo vệ môi trường. 
Ngày nay, những nghiên cứu về ứng dụng enzyme trong sản xuất công 
nghiệp phát triển rất mạnh. Các hướng nghiên cứu nhằm mục đích tăng khả năng 
sử dụng enzyme, kéo dài thời gian, số lần sử dụng enzyme giảm giá thành sử dụng 
enzyme. Một trong những bước tiến quan trọng nhất hiện nay là kỹ thuật cố định 
enzyme trên giá thể tạo ra các dạng enzyme cố định (enzyme không hòa tan). 
Enzyme cố định ở các nước phát triển đã được ứng dụng rộng rãi trong nhiều qui 
trình công nghệ như: chế biến thực phẩm, y sinh học và nghiên cứu khoa học. Tuy 
nhiên hiện nay việc nghiên cứu và ứng dụng enzyme cố định ở Việt Nam chưa 
được phổ biến lắm và vẫn còn là hướng phát triển mới mẻ. 
Để góp phần vào những nghiên cứu về enzyme cố định đồng thời được sự 
chấp thuận của bộ môn công nghệ sinh học trường Đại Học Nông Lâm Tp. Hồ Chí 
Minh và bộ môn công nghệ sinh học trường Đại Học Bách Khoa Tp. Hồ Chí Minh, 
dưới sự hướng dẫn của Th.S Huỳnh Ngọc Oanh, tôi thực hiện đề tài “Cố định 
enzyme – amylase bằng gel alginate” tại phòng thí nghiệm Công nghệ Sinh học 
thuộc trường Đại Học Bách Khoa Tp. Hồ Chí Minh. 
2 
Phần 2. 
TỔNG QUAN TÀI LIỆU 
2.1. NHỮNG KHÁI NIỆM CHUNG VỀ ENZYME [2 ] 
2.1.1 Khái niệm về enzyme 
Trong các phản ứng hóa học nếu ta cho thêm vào phản ứng một chất nào 
đó phản ứng sẽ xảy ra với tốc độ tăng hàng chục lần. Chất cho thêm vào này gọi là 
chất xúc tác. 
Chất xúc tác có hai đặc điểm quan trọng 
 Làm tăng phản ứng hóa học. 
 Bản thân chất xúc tác không có sự thay đổi nào sau phản ứng. 
Chất xúc tác hóa học chỉ làm thay đổi tốc độ phản ứng, chứ không tham gia 
làm thay đổi chiều hướng phản ứng, trạng thái phản ứng hay năng lượng sử dụng 
trong phản ứng. Trong các phản ứng sinh học xảy ra trong cơ thể sinh vật cũng có 
các chất làm tăng phản ứng. Chất đó dược gọi là enzyme. 
Enzyme được các cơ thể sinh vật tổng hợp nên và tham gia vào các phản 
ứng hóa học trong cơ thể. Enzyme là một chất hữu cơ, trong khi các chất xúc tác 
hóa học thường là chất vô cơ. Sau này các nhà khoa học xác định bản chất của 
enzyme là protein. 
Như vậy enzyme là một protein có khả năng tham gia xúc tác các phản ứng 
hóa học trong và ngoài cơ thể. 
Điểm rất khác biệt của enzyme là chúng hoạt động trong điều kiện nhiệt 
độ ôn hòa giống như nhiệt độ ôn hòa trong cơ thể sinh vật. Trong khi đó, các chất 
hóa học cần phải có nhiệt độ cần thiết cho phản ứng. Những ưu điểm cơ bản của 
enzyme có thể tóm tắt như sau : 
3 
1. Enzyme có thể tham gia hàng loạt các phản ứng trong chuỗi phản ứng 
sinh hóa để giải phóng hoàn toàn năng lượng hóa học có trong vật chất. 
2. Enzyme có thể tham gia những phản ứng độc lập nhờ khả năng 
chuyển hóa rất cao. 
3. Enzyme có thể tạo ra những phản ứng dây chuyền. Khi đó sản phẩm 
của phản ứng đầu sẽ là nguyên liệu hay cơ chất cho những phản ứng tiếp theo. 
4. Trong các phản ứng enzyme, sự tiêu hao năng lượng thường rất ít. 
5. Enzyme luôn luôn được tổng hợp trong tế bào của sinh vật. 
6. Có nhiều enzyme không bị mất đi sau phản ứng. Ngày nay, các nhà 
khoa học đã tìm ra hơn 1000 loại enzyme khác nhau có trong tế bào sinh vật, số 
lượng này là rất nhỏ so với số lượng thật có trong mỗi tế bào. 
Dị hóa 
ngoài tế bào 
Vật chất 
có kích thước nhỏ 
Tế bào 
Vật chất dị hóa ra 
khỏi tế bào 
Vật chất tổng hợp 
ra khỏi tế bào 
Môi trường Sinh khối 
(sản phẩm bậc 1) 
Sản phẩm bậc 2 
Hình 2.1 : Hệ thống tổng hợp enzyme trong tế bào sinh vật 
Enzym 
ngoại bào 
Vật chất có 
kích thước lớn 
Enzym Dị hóa 
nội bào trong tế 
Quá trình bào 
 tổng hợp 
4 
2.1.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt tính của enzyme 
a. Ảnh hưởng của nồng độ cơ chất đến hoạt tính enzyme 
Cơ chế tác động của enzyme vào cơ chất qua ba giai đoạn 
 Giai đoạn 1 : Enzyme tương tác với cơ chất tạo thành phức enzyme cơ 
chất E S. 
 Giai đoạn 2 : Phức enzyme cơ chất sẽ được tách ra. 
 Giai đoạn 3 : Enzyme sẽ được giải phóng, cơ chất sẽ chuyển thành sản phẩm. 
Như vậy ở giai đoạn đầu, nếu cơ chất có nồng độ thấp thì tốc độ phản ứng 
enzyme sẽ phụ thuộc tuyến tính với nồng độ cơ chất. 
Hình 2.2 Ảnh hưởng của nồng độ cơ chất đến tốc độ phản ứng của enzyme 
Vận tốc phản ứng được tính như sau : 
SK
S
VV
m
max
Phương trình trên gọi là phương trình Michealis Menten 
Trong giai đoạn đầu khi nồng độ cơ chất tăng, tốc độ phản ứng sẽ tăng. 
Nhưng khi tốc đố phản ứng đạt giá trị cực đại, cho dù có tăng nồng độ cơ chất, tốc 
độ phản ứng cũng sẽ hoàn toàn không có khả năng tăng theo. 
Nồng độ cơ chất 
Tốc độ 
phản ứng 
Km 
5 
b. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến hoạt tính enzyme 
Trong các phản ứng hóa học, nhiệt độ càng tăng, tốc độ phản ứng xúc tác 
càng tăng. Trong các phản ứng sinh học, nhiệt độ tăng khả năng xúc tác của 
enzyme sẽ tăng. Nhưng khả năng tăng của tốc độ phản ứng có một giới hạn nhất 
định. Quá giới hạn nhiệt độ đó, phản ứng enzyme sẽ giảm và giảm rất nhanh. 
Hình 2.3: Ảnh hưởng của nhiệt độ đến tốc độ phản ứng của enzyme 
Hiện tượng đặc biệt này ở enzyme có liên quan đến bản chất hóa học của 
enzyme. Các enzyme là những protein thường không bền nhiệt. Trường hợp ta tăng 
nhiệt độ trong giai đoạn đầu của phản ứng enzyme sẽ làm tăng khả năng tạo cấu 
trúc không gian của enzyme cho phù hợp với cấu trúc không gian của cơ chất. Khi 
vượt quá giới hạn về nhiệt độ, cấu trúc không gian của trung tâm hoạt động của 
enzyme không còn phù hợp với cấu trúc không gian của cơ chất nữa, khi đó hoạt 
tính enzyme sẽ mất dần và đi đến chỗ triệt tiêu. 
c. Ảnh hưởng của pH đến hoạt tính của enzyme 
Trong những nghiên cứu thí nghiệm về ảnh hưởng của pH đến hoạt tính của 
enzyme, các nhà khoa học cho thấy hiện tượng : nếu tăng hoặc giảm giá trị pH tới 
một điểm xác định nào đó, vận tốc phản ứng enzyme sẽ tăng dần và đạt tới điểm cực 
đại giá trị pH, mà ở đó vận tốc phản ứng enzyme đạt giá trị cực đại gọi là pH tối ưu 
cho hoạt động của enzyme. Vượt quá giá trị pH này hoạt động enzyme sẽ giảm. 
Nhiệt độ 
Tốc độ 
phản ứng 
6 
Hình 2.4: Ảnh hưởng pH đến hoạt tính enzyme 
Mỗi loại enzyme sẽ có khoảng pH tối ưu và điểm pH tối ưu. 
pH có ảnh hưởng rất lớn đến trạng thái ion hóa của các nhóm chức trong 
trung tâm hoạt động của enzyme, trạng thái ion hóa của cơ chất và phức chất ES. 
d. Ảnh hưởng của các chất kìm hãm các hoạt tính enzyme 
Hoạt tính của enzyme có thể bị ảnh hưởng bởi những chất kìm hãm. Những 
chất kìm hãm là những chất hoa học có khả năng làm giảm hoạt tính hoặc làm 
ngưng hoạt tính của enzyme. Các chất kìm hãm thường là những ion, các phân tử 
vô cơ, hữu cơ và cả protein. 
Các chất chia ra làm 2 loại : 
 Chất kìm hãm cạnh tranh. 
 Chất kìm hãm không cạnh tranh. 
 Chất kìm hãm cạnh tranh : Các chất kìm hãm cạnh tranh có cấu trúc 
không gian tương tự cấu trúc không gian của cơ chất. Do đó, chúng có khả năng kết 
hợp với enzym, kết quả là enzym không thể kết hợp được với cơ chất để tạo thành 
phức chất ES. 
pH 
Vận tốc 
phản ứng 
pH op 
7 
Hình 2.5 : Ảnh hưởng của chất kìm hãm cạnh tranh đến hoạt tính enzyme 
 Chất kìm hãm không cạnh tranh : 
Các chất kìm hãm không cạnh tranh tham gia kết hợp với enzym 
không phải ở trung tâm hoạt động của enzym mà là ở một vị trí ngoài trung tâm 
hoạt động của enzym. Người ta còn gọi vị trí này là trung tâm kìm hãm của 
enzym. 
Khi chất kìm hãm kết hợp với enzym ở ngoài trung tâm hoạt động của 
enzym sẽ làm thay đổi cấu trúc không gian của trung tâm hoạt động của enzym. 
Nhờ vậy, chúng sẽ làm giảm tốc độ phản ứng của enzym. Trong rất nhiều trường 
hợp, sản phẩm cuối của chuỗi phản ứng hay của một phản ứng thường là chất kìm 
hãm không cạnh tranh. 
Hình 2.6 : Ảnh hưởng của chất kìm hãm không cạnh tranh đến hoạt tính enzyme 
8 
e. Ảnh hưởng của chất hoạt hóa đến hoạt tính của enzym 
Các chất hoạt hóa (activator) là những chất làm tăng khả năng xúc tác của 
enzym. Các chất hoạt hóa có bản chất hóa học khác nhau. Các amin, các chất hữu 
cơ có cấu trúc hóa học khác nhau. 
Khả năng làm tăng hoạt tính của enzym của những chất hoạt hóa cũng có 
một giới hạn nhất định, vượt quá giới hạn này rất có thể lại làm giảm hoạt tính của 
enzym. 
2.2. NHỮNG KHÁI NIỆM CHUNG VỀ ENZYM CỐ ĐỊNH 
2.2.1. Khái niệm, đặc điểm của enzym cố định 
a. Khái niệm enzym cố định 
Enzym cố định (immobilised enzym) hay enzym không hòa tan (insolube 
enzym) được hiểu theo cả nghĩa hẹp và nghĩa rộng. 
 Theo nghĩa hẹp : được hiểu theo Michael Trevan: thuật ngữ enzyme cố 
định là những enzyme được đưa vào những pha riêng rẽ, pha này được tách riêng 
với pha dung dịch tự do. Pha enzyme thường không tan trong nước và được gắn 
với những polymer ưa nước có trọng lượng phân tử lớn. 
Pha enzyme 
 // Pha dung dịch tự do 
Hình 2.7 : Mô hình hệ thống hai pha của enzym cố định 
 Theo nghĩa rộng : Theo Kkaus Mosbach : Các chất xúc tác cố định là 
các enzyme, tế bào, cơ thể sống ở trạng thái cho phép sử dụng lại. Như vậy theo 
nghĩa rộng, enzyme không hòa tan bao gồm cả enzyme đã được cố định và một 
9 
chất mang, bao gồm cả enzyme có trong tế bào sống được cố định trong các bình 
phản ứng sinh học có sự gắn kết vào một chất mang cho phép ta sử dụng nhiều lần. 
Enzyme cố định thường là những enzyme hòa tan được gắn vào một chất 
mang bằng nhiều kỹ thuật khác nhau. Nhờ quá trình gắn này enzyme chuyển từ 
trạng thái hòa tan sang trạng thái không hòa tan. 
b. Đặc điểm của enzyme cố định 
Nhờ những tính chất ưu việt do đó ngày nay enzyme cố định đang ngày 
càng sử dụng rộng rãi trong các lĩnh vực công nghệ : Những ưu điểm nổi bật của 
enzyme cố định. 
 Enzyme là những chế phẩm sinh học đắt tiền, nếu sử dụng ở dạng hòa 
tan thì chỉ sử dụng được một lần và khó thu hồi trở lại. Ngược lại khi enzyme được 
cố định trên giá thể polymer nên có thể sử dụng liên tục trong nhiều ngày, thậm chí 
hàng tháng mà không mất hoặc chỉ giảm hoạt tính, vì vậy rất kinh tế. 
 Do được cố định ở một pha riêng, do đó dễ dàng tách sản phẩm ra khỏi 
enzyme, vì vậy sản phẩm dễ tinh sạch hơn do không trộn lẫn với enzyme. Điều này 
đặc biệt có ý nghĩa khi ứng dụng enzyme cố định trong dược học, trong công nghệ 
sản xuất hóa chất và trong phân tích. 
 Có thể dừng hóa trình chuyển hóa ở bất kỳ giai đoạn nào cần thiết khi dễ 
dàng tách enzyme cố định ra khỏi cơ chất trong trường hợp yêu cầu sản phẩm chỉ là 
các sản phẩm trung gian của quá trình chuyển hóa. 
– Khi được cố định trên giá thể enzyme có khả năng bền vững hơn, hoạt 
tính ổn định hơn khi có những thay đổi của môi trường như nhiệt độ, pH,… so với 
enzyme tự do. Nhờ được cố định trên giá thể nên enzyme ít bị biến tính hơn khi 
môi trường thay đổi. 
 Sử dụng chế phẩm enzyme cố định, đặc biệt thích hợp với các qui trình 
công nghệ liên tục, tự động hóa ngày nay. Thường thì enzyme cố định được nhồi 
10 
vào các cột, tháp, fermentor, với dòng cơ chất liên tục được chảy vào và đầu ra là 
sản phẩm. 
 Tuy nhiên enzyme cố định cũng có những nhược điểm nhất định là vì 
được cố định nên đã hạn chế khả năng tiếp xúc giữa enzyme và cơ chất. Vì vậy 
hoạt tính riêng (specific activity) của enzyme cố định thường thấp hơn so với 
enzyme tự do, đặc biệt là trong trường hợp cơ chất là các chất có trọng lượng 
phân tử lớn như : protein, tinh bột, chitosan. Trong trường hợp enzyme được cố định 
bằng phương pháp nhốt (entrapment method) trong khuôn gel thì chỉ một phần 
enzyme nằm ở lớp vỏ ngoài của gel là hoạt động. Đặc biệt khi enzyme được cố 
định bằng phương pháp cộng hóa trị thì một lượng đáng kể enzyme bị mất hoạt tính 
do chất hoạt hóa và có thể do liên kết không đặc hiệu xảy ra ở trung tâm hoạt động 
của enzyme. 
2.2.2. Chất mang dùng để cố định enzyme 
 Theo Michael Trevan, một chất mang lý tưởng cần có những tính chất 
sau đây : 
+ Chất mang lý tưởng trong sử dụng cố định enzyme điều trước hết là 
cần phải rẻ. Điều này liên quan đến hiệu quả kinh tế của qui trình công nghệ. 
+ Chất mang phải có tính chất cơ lý bền vững, ổn định. 
+ Về mặt hóa học, chất mang phải bền vững, không tan trong môi trường 
phản ứng. Chất mang không được làm mất hoạt tính enzyme. 
+ Chất mang phải có tính kháng khuẩn cao, bền vững với sự tấn công 
của vi sinh vật. 
+ Chất mang phải có độ trương tốt, có diện tích bề mặt tiếp xúc lớn. Tính 
chất này của chất mang vừa tăng khả năng cố định enzyme vừa tăng khả năng 
tiếp xúc của cơ chất với enzyme, nhờ đó làm tăng hoạt tính enzyme cố định và 
số lần tái sử dụng. 
11 
+ Chất mang có thể có cấu trúc lỗ xốp, siêu lỗ, có thể sử dụng ở dạng 
hạt, dạng màng, dạng phim mỏng … 
 Phân loại chất mang : 
 Tất cả chất mang dùng trong cố định enzyme được chia làm 2 nhóm : 
 Chất mang polymer hữu cơ. 
 Chất mang vô cơ. 
a. Chất mang là polymer hữu cơ 
Trong nhóm chất mang là polymer hữu cơ được chia làm 2 nhóm là 
polymer tổng hợp và polymer tự nhiên. 
 Chất mang là polymer tự nhiên (natural polymer) 
 Chất mang là polysaccharide (gluxit) : 
Là nhóm chất mang đang thịnh hành và được sử dụng rộng rãi nhất hiện 
nay, đó là cellulose, agarose, dextran, sephadex và các dẫn xuất của chúng. 
 Agarose là vật liệu ổn định, đồng nhất dễ dàng tạo hạt. Tuy nhiên do 
vấn đề về giá cả nên agarose chỉ thường được sử dụng trong nghiên cứu và mục 
đích y học (theo signa : 800 2000 USD/kg). 
 Cellulose và các dẫn suất của chúng như CM Cellulose, DEAE 
Cellulose có tính chất cơ lý khá tốt, giá rẻ nhưng lại không đồng nhất và ổn định 
nên chỉ sử dụng ở dạng sợi và dạng vi hạt. 
 Alginate và carrageenam là hai loại vật liệu khá mới mẻ. Cả hai loại 
vật liệu này tạo gel trong dung dịch CaCl2 dùng để nhốt tế bào và enzyme. Tuy 
nhiên, hai loại vật liệu này có một nhược điểm căn bản là gel không ổn định 
trong môi trường có phosphate. 
 Tinh bột là vật liệu phong phú và rẻ tiền. Từ lâu tinh bột, tinh bột khâu 
mạch, diathanolamin tinh bột đã được dùng làm chất mang cố định enzyme như 
lipase, glucoisomerase, tripsin, amilase. Tuy nhiên tinh bột có nhược điểm là độ 
trương còn hạn chế và thiếu các nhóm chức năng (functional groups). Vì vậy khả 
12 
năng cố định và hoạt tính enzyme cố định còn thấp : để khắc phục nhược điểm 
này tinh bột thường được ghép copolymer với các vinyl monomer ưa nước, 
acrylamide, acrylic acid vừa cải thiện tính chất cơ lý, độ trương, vừa tạo các 
nhóm chức năng trên bề mặt như [ NH2], [ COOH] làm tăng diện tích tiếp xúc 
và khả năng cố định enzyme. 
 Chitin và chitosan là vật liệu polymer có nhiều triển vọng trong cố 
định tế bào và enzyme. Chitin là một polymer rất phổ biến trong tự nhiên, chỉ 
đứng thứ hai sau cellulose, chitin có cấu trúc tương tự cellulose, là polymer của 2 
 acetomido deoxy D glucose. Chitin tham gia vào thành phần cấu 
trúc của vỏ tôm cua, côn trùng, thành tế bào vi sinh vật. Chitosan là dẫn xuất 
của chitin khi xử lý bằng kiềm đặc. Chitin, chitosan có cấu trúc siêu lỗ, dễ tạo 
màng, tạo hạt, khả năng hấp thụ tốt, tính chất cơ lý bền vững, ổn định, thường 
được dùng cố định enzyme qua cầu nối glutaraldehyde. 
Tuy nhiên cả chitin và chitosan đều có một nhược điểm là tính chất kỵ 
nước, độ trương kém, diện tích bề mặt tiếp xúc nhỏ. Để khắc phục nhược điểm này, 
hiện nay đang có xu hướng ghép copolymer với monomer ưa nước như acrylamide, 
acrylic acid, hydroxy ethylmethacrylate. 
Hiện nay, cũng có xu hướng chung là các vật liệu tự nhiên được ghép 
copolymer với các polymer tổng hợp để cải thiện tính chất cơ lý. 
 Chất mang là Protein : 
Chất mang là protein thường dùng là getalin, keratin, albumin. Vật liệu 
thuộc nhóm này thường dễ tạo màng, tạo hạt, có nhóm chức năng là nhóm NH2 
và vì vậy thường dùng sử dụng nhốt enzyme trong khuôn gel với tác nhân khâu 
mạch là glutaraldehyde. Nhóm chất mang này là protein có nhược điểm là thường 
kém bền, dễ nhiễm khuẩn. 
13 
 Chất mang là các polymer tổng hợp : 
Hiện nay có rất nhiều polymer tổng hợp được sử dụng làm chất mang cố 
định enzyme như polyacrylamide, polyester, polyvinilalcohol, polyvinylacetate, 
polyacrylic, polyhydroxylethylacrylate, polystyren, polyethylen ghép với vinyl 
monomer, …Ưu điểm chung của các polymer tổng hợp là bền, tính chất cơ lý tốt, 
hoàn toàn trơ với sự tấn công của vi khuẩn, độ trương tốt, một số polymer có thể 
điều chỉnh được kích thước siêu lo ã, … 
– Polyhydroxyethylmethacrylate : khả năng tương hợp sinh học kém và 
một nhược điểm quan trọng nữa là do quá bền vững, không phân hủy trong tự 
nhiên. Vì vậy gây ô nhiễm môi trường. Đây là vấn đề quan trọng đòi hỏi con người 
cần quan tâm giải quyết. 
– Polyacrylamide là một polymer rất đồng nhất, độ trương tốt, kích thước lỗ 
gel có thể điều chỉnh được và diện tích bề mặt tiếp xúc lớn. Polyacrylamide và 
polyacrylate thường được nạp vào cột, và có rất nhiều dạng khác nhau như polymer 
có nhóm amin hoặc aldehyde. Phương pháp cố định chủ yếu là nhốt enzyme tế bào 
trong khuôn gel khi được polymer bằng hóa chất như ammoniumpersulphate, bức 
xạ gamma, tia rơnghen, thường thì để tăng khả năng khâu mạnh của gel poly 
acrylamide, cần phải bổ sung thêm N, N methylenbisacrylamide làm chất khâu 
mạch (crosslinking agent). Ngoài ra còn có thể cố định enzyme trên các vật liệu 
này bằng phương pháp hấp thụ, liên kết cộng hóa trị và microcapsule. 
b. Chất mang vô cơ 
Ngoài các polymer được sử dụng làm chất mang, còn co