Đề tài Cơ hội và thách thức đối với việc xuất khẩu hạt tiêu sang uae

Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE) nằm ở trung tâm của vịnh Ả Rập, giữa 22o, 26o, 30o vĩ Bắc và 51o, 56o, 30o kinh Đông. Phía Bắc của đất nước được bao bọc bởi vịnh Ả Rập, phía Nam giáp Qatar và vương quốc Ả Rập Xê-út, phía Tây giáp Oman và vương quốc Ả Rập Xê-út, phía Đông giáp vịnh Oman. Với tổng diện tích 82.880 km2, các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất gồm nhiều đảo lớn, nhỏ chiếm diện tích 5.900 km2. Thủ đô Abu Dhabi là vùng rộng lớn nhất của UAE, chiếm 87% tổng diện tích. Dubai với diện tích 3.885 km2 là lãnh địa Emir lớn thứ hai chiếm 5% diện tích, còn lại Sharjah 3,3%, Ajman 0,3%, Umm Al Quwain 1%, Ras Al Khaimah 2,2% và lãnh địa Fujairah chiếm 1,5%. Dubai là trung tâm kinh tế và hải cảng quan trọng nhất của UAE. UAE có 700 km đường biển, trong đó 100 km thuộc vịnh Oman.

doc34 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1551 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cơ hội và thách thức đối với việc xuất khẩu hạt tiêu sang uae, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ UAE 1.1- Điều kiện tự nhiên và dân số 1.1.1- Vị trí địa lý và địa hình Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE) nằm ở trung tâm của vịnh Ả Rập, giữa 22o, 26o, 30o vĩ Bắc và 51o, 56o, 30o kinh Đông. Phía Bắc của đất nước được bao bọc bởi vịnh Ả Rập, phía Nam giáp Qatar và vương quốc Ả Rập Xê-út, phía Tây giáp Oman và vương quốc Ả Rập Xê-út, phía Đông giáp vịnh Oman. Với tổng diện tích 82.880 km2, các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất gồm nhiều đảo lớn, nhỏ chiếm diện tích 5.900 km2. Thủ đô Abu Dhabi là vùng rộng lớn nhất của UAE, chiếm 87% tổng diện tích. Dubai với diện tích 3.885 km2 là lãnh địa Emir lớn thứ hai chiếm 5% diện tích, còn lại Sharjah 3,3%, Ajman 0,3%, Umm Al Quwain 1%, Ras Al Khaimah 2,2% và lãnh địa Fujairah chiếm 1,5%. Dubai là trung tâm kinh tế và hải cảng quan trọng nhất của UAE. UAE có 700 km đường biển, trong đó 100 km thuộc vịnh Oman. 1.1.2- Tài nguyên thiên nhiên UAE là một đất nước giàu tài nguyên với trữ lượng dầu lửa đứng hàng thứ ba thế giới (sau Ả Rập Xê-út và Iraq), trữ lượng dầu khí đứng hạng năm trên thế giới. Ngày 6/6/1966, lần đầu tiên Công ty Xăng dầu Dubai phát hiện có dầu mỏ ở Fateh, ngoài khơi bờ biển Dubai cách đất liền 58 dặm. Lợi nhuận thu được từ dầu mỏ được sử dụng để xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế. Tuy nhiên, UAE có trữ lượng dầu lớn nhất và do đó thịnh vượng nhất là Abu Dhabi với 95% trữ lượng toàn liên bang. 1.1.3- Khí hậu UAE nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới và khô. Từ tháng 9 đến tháng 3, trời ấm và buổi tối có thể hơi lạnh. Nhiệt độ trung bình ban ngày vào tháng 1 là 24oC. Vào mùa hè, giữa tháng 6 và tháng 9, trời trở nên nóng ẩm. Nhiệt độ có thể lên đến 47oC trong suốt khoảng thời gian từ tháng 6 đến tháng 9. UAE ít mưa, mưa rào chỉ xuất hiện vài lần mỗi năm vào các tháng mùa đông với lượng mưa trung bình vào khoảng 130 mm/năm. 1.1.4- Dân số và đặc điểm Dân số của UAE tăng nhanh trong giai đoạn 1975 – 1988, từ khoảng 558.000 người lên 2.776.000 người với tốc độ tăng trung bình mỗi năm là 6,8%. Tuy nhiên, mức tăng trưởng dân số hàng năm trong khoảng thời gian trên có sự chênh lệch rất lớn, như từ năm 1975-1978, mức tăng trưởng dân số trung bình là 12,5%/năm nhưng năm 1997 chỉ ở mức 5,7%/ năm. Hiện nay, tốc độ tăng dân số trung bình của UAE giảm xuống còn 5,5%/năm. Dân số UAE là 4,041 triệu người (2003), trong đó Abu Dhabi chíêm 1,2 triệu, Dubai hơn 1 triệu với nhiều sắc tộc khác nhau như Nam Á (chủ yếu là Ấn Độ, Parkistan, Bangladesh, Srilanca), Viễn Đông (chủ yếu là Phillipinnes), A Rập, Châu Âu và người bản xứ có quốc tịch UAE. Tuổi thọ trung bình của người dân UAE là 74,29 tuổi trong đó tuổi thọ trung bình của nam giới là 71,84 tuổi, của nữ giới là 76,86 tuổi. Hồi giáo là tôn giáo chủ yếu ở UAE. Có đến 96% dân cư theo đạo Hồi (Shi’a 16%). Các tôn giáo khác như Cơ đốc giáo, Hindu…chiếm khoảng 4%. 1.2- Điều kiện chính trị xã hội AE được thành lập vào 2/12/1971. UAE là một liên bang gồm 7 tiểu vương quốc Ả Rập hợp thành gồm thủ đô Abu Dhabi, Dubai, Sharjah, Ajman, Umm Al Quwain, Ras Al Khaimah và Fujairah. 1.2.1- Lịch sử, truyền thống và di sản văn hóa Xã hội UAE được xây dựng dựa trên nền tảng của các bộ tộc. Các bộ tộc thường phân chia thành các bộ tộc nhỏ hơn, mỗi bộ tộc nhỏ này cũng đều có người đứng đầu và họ phối hợp chặt chẽ với tộc trưởng trong mọi việc bao gồm cả chính trị và các vấn đề khác. Bắt đầu từ giữa thiên niên kỉ thứ nhất trước công nguyên, những làn sóng di trú liên tiếp diễn ra đã đưa các bộ lạc Ả Rập tới khu vực này. Bộ tộc lớn nhất là Bani Yas, gồm hơn 12 bộ tộc nhỏ đã từng có cuộc sống du cư trên những vùng cát rộng lớn mà ngày nay là các tiểu vương quốc Abu Dhabi và Dubai. Từ năm 1850 đến khi UAE được thống nhất vào 1971, chính quyền thực dân Anh duy trì ảnh hưởng ở khu vực này. Mỗi tiểu vương đều kí một hiệp ước riêng với Anh và thuộc quyền cai trị của một tộc trưởng Hồi giáo là người của một trong các bộ tộc có ảnh hưởng lớn nhất trong khu vực. Ví dụ, bộ tộc Al Bu Falah của tổng thống UAE đương nhiệm, Sheikh Zayed bin Sultan Al Nahyan, là một nhánh của bộ tộc Bani Yas (danh hiệu Sheikh chỉ người trong hoàng tộc một cách tôn kính). Sau khi người Anh rút khỏi khu vực, Sheikh Zayed bin Sultan Al Nahyan của Abu Dhabi và Sheikh Rashid bin Saeed Al Maktoum, tiểu vương quốc đã quá cố của Dubai, đứng ra thống nhất các lãnh địa độc lập riêng lẻ thành một liên bang duy nhất, thành lập nên UAE vào năm 1971. Trong gần 30 năm, tận dụng tối đa được nguồn lợi tức từ việc khai thác dầu và các nguồn tự nhiên khác cùng với sự lãnh đạo sáng suốt của H.H Sheikh Zayed bin Sultan Al Nahyan, UAE đã có những tiến bộ đáng kể trên tất cả các mặt. Những bước tiến vượt bậc trong nền kinh tế đã biến vùng đất nghèo nàn, lạc hậu trước đây thành một đất nước có nền kinh tế phát triển, công nghiệp và cơ sở hạ tầng phồn thịnh. 1.2.2- Ngôn ngữ Ngôn ngữ chính thức ở UAE là tiếng Ả Rập. Ngoài ra, tiếng Persian, tiếng Anh, Hindu, Urdu cũng được sử dụng ở đây. Đặc biệt, các quan chức chính quyền đều có khả năng sử dụng tiếng Anh. Tiếng Anh được dùng rộng rãi và trở thành ngôn ngữ chủ yếu trong kinh doanh. Hầu như các biển hiệu quảng cáo trên các đường phố của Dubai đều được ghi bằng cả tiếng Anh và tiếng Ả Rập. 1.2.3- Tiền tệ Đơn vị tiền tệ ở Dubai là đồng Dirham UAE (Dh) hay đồng Dirham tiểu vương quốc Ả Rập thống Emirati dirham (AED) – đây là cách gọi trên thị trường quốc tế. Một dirham được chia thành các đơn vị nhỏ hơn là fil, 1 dirham = 100 fil. Tiền giấy được phát hành theo các mệnh giá 5, 10, 20, 50, 100, 200, 500 và 1.000 dirham. Tiền xu có các mệnh giá 25, 50 fil và 1 dirham. Giá trị của đồng dirham được cố định theo đồng đôla Mỹ. Tỷ giá trung bình của ngân hàng trung ương: 3,6725 (từ năm 1988); 3,6711 (1997); 3,6710 (1995-1996). 1.2.4- Cơ cấu tổ chức chính quyền UAE có hệ thống chính trị theo mô hình liên bang. Hiến pháp UAE hợp nhất 7 tiểu vương quốc và quy định cơ cấu của Chính phủ Liên bang UAE. Mỗi tiểu vương quốc vẫn duy trì quyền lực chính trị, pháp lý của mình trừ khi Hiến pháp Lâm thời quy định ngược lại hoặc có các hiệp định đồng ý trao quyền đó cho Chính phủ Liên bang. Tuy nhiên, Chính phủ Liên bang vẫn nắm giữ quyền hạn riêng trong một số lĩnh vực như ngoại giao, quốc phòng, y tế và giáo dục trong khi mỗi tiểu vương quốc lại có quyền hạn riêng về một số vấn đề trong đó có các vấn đề liên quan đến công việc của chính quyền địa phương và tài nguyên quốc gia. Mặc dù Hiến pháp Lâm thời cho phép mỗi tiểu vương quốc có cơ quan lập pháp và hội đồng bộ trưởng độc lập với các đơn vị tương ứng của Chính phủ Liên bang nhưng không tiểu vương quốc nào làm như vậy. Thay vào đó, công việc nội bộ của mỗi tiểu vương quốc được điều hành bởi một cơ quan chính quyền địa phương do một vị chủ tịch hay tổng giám đốc đứng đầu. Công dân UAE không có quyền bầu cử. 1.2.5- Chế độ chính trị UAE theo chế độ quân chủ lập hiến. Các đảng phái chính trị đều bị cấm hoạt động ở các tiểu vương quốc, dân bản xứ được hưởng nhiều quyền ưu đãi đặc biệt trên mọi lĩnh vực chính trị, xã hội, kinh tế và thương mại. Tuy có nhiều quan hệ kinh tế với phương tây, UAE vẫn duy trì được tinh thần độc lập dân tộc và tự hào là nước A Rập đầu tiên không bán cho Mỹ trong chiến tranh Trung Đông tháng 10-1973. 1.2.6- Quan hệ đối ngoại Là nước nhỏ, UAE chủ trương quan hệ rộng rãi với các nước trên thế giới, đặc biệt là với các nước láng giềng. Gần đây, quan hệ giữa UAE và Iran lại trở nên căng thẳng do vấn đề tranh chấp 3 hòn đảo (Tomb lớn, Tomb nhỏ, Abu Musa). Ba đảo này nằm gần eo biển Hormuz, nơi có vị trí chiến lược rất quan trọng về quân sự, giao lưu hàng hải và nguồn tài nguyên phong phú, nhất là dầu lửa. Hai bên đã tiến hành đàm phán để giải quyết vấn đề tranh chấp, nhưng đến nay vẫn chưa đạt kết quả. 1.3- Khái quát tình hình kinh tế Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất có một nền kinh tế mở cửa với thu nhập bình quân đầu người cao và thặng dư thương mại hàng năm lớn. Tuy vậy, quyền lực chính trị và kinh tế ở mức độ cao thuộc về các tiểu vương quốc nói riêng. Theo luật pháp của UAE, mỗi người đứng đầu một tiểu vương quốc đều có quyền kiểm soát đối với tài nguyên thiên nhiên gồm dầu, trong phạm vi tiểu vương quốc của mình và quản lý các hoạt động thương mại. Do có trữ lượng hydrocarbon và doanh thu không được phân phối công bằng, sức mạnh kinh tế, chính trị ở mức độ phát triển kinh tế giữa 7 vương quốc không tương đồng. Abu Dhabi, trung tâm thương mại lớn thứ hai và nhà sản xuất dầu lớn nhất, là tiểu vương quốc giàu có và thịnh vượng nhất, sau đó là Dubai, trung tâm thương mại của liên bang và khu vực sản xuất dầu lớn thứ hai. Các tiẻu vương quốc khác, do ít hoặc không có dầu dự trữ, phụ thuộc chủ yếu vào nguồn trợ cấp tài chính của Liên bang. Địa hình của UAE chủ yếu là sa mạc, núi non cằn cỗi và bãi cát. Trước khi khai thác các quặng dầu, đầu những năm 1960, UAE có một nền kinh tế bình thường gồm các ngành đánh cá, trồng chà là, động vật sống, thương mại quy mô nhỏ khai thác ngọc trai. Hiện nay, UAE là một đất nước giàu có, có tầm quan trọng về kinh tế đối với toàn cầu. Trong năm 2003, GDP của UAE tăng 12,4%, đạt xấp xỉ 79,7 tỉ USD, GDP bình quân đầu người đã vượt mức 20.000 USD. Những thay đổi trong thu nhập quốc dân đã làm cho các cấp chính quyền phải tìm kiếm các giải pháp nhằm đa dạng hóa nền kinh tế, đặc biệt ở Dubai, nơi dự trữ dầu đang giảm dần. Những nỗ lực đa dạng hóa đã đạt được những thành công đáng kể. Chi tiêu chính phủ cho dự trữ dầu trong quá khứ, hiện tại và tương lai cùng với quá trình đầu tư nước ngoài chuyển từ doanh thu dầu, đã tạo ra động cơ phát triển cho nền kinh tế. Do giá dầu cao ổn định trong những năm gần đây (năm 2003, giá dầu thô đạt mức trung bình 28,11 USD/thùng), GDP của UAE liên tục tăng trưởng. Năm 2003, lĩnh vực dầu của nền kinh tế chiếm khoảng 40% GDP, chiếm khoảng 50% kim ngạch xuất khẩu và 90% doanh thu tài chính của chính phủ. Những con số này cho thấy mặc dù đa dạng hóa diễn ra mau lẹ nhưng UAE vẫn phụ thuộc nhiều vào doanh thu từ dầu mỏ. UAE là nền kinh tế lớn thứ hai trong Hội đồng hợp tác vùng vịnh (GCC)1, vẫn có khả năng tài chính tốt hơn các nước láng giềng. Nói chung, chính phủ không trì hoãn thanh toán cho các hợp đồng và vay từ các ngân hàng thương mại nước ngoài để trả nợ như hầu hết các nước láng giềng. Sự mở rộng ngân sách năm 2001 một cách khiêm tốn của UAE vẫn có một hệ thống phúc lợi xã hội lớn cho người chết mang quốc tịch UAE, gồm có trợ cấp lớn, cho vay và các dịch vụ miễn phí. Hầu hết người mang quốc tịch UAE có việc làm đều làm việc cho liên bang hoặc chính phủ của các tiểu vương quốc. Chính phủ cũng cung cấp nhiều dịch vụ hỗ trợ cho người nước ngoài, số người này chiếm khoảng 85% dân số và 93% lực lượng lao động. Tỉ lệ thất nghiệp của UAE dường như rất ổn định. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu lưu ý tỷ lệ thất nghiệp của người mang quốc tịch UAE có thể là một vấn để cần giải quyết trong tương lai. 1.3.1- Các lĩnh vực kinh tế có mức tăng trưởng cao 1.3.1.1- Lĩnh vực dầu lửa UAE có khoảng 98 tỷ thùng dầu dự trữ, hoặc 9,8% tổng lượng dầu dự trữ trên toàn thế giới, và 5,8 tỷ m3 khí đốt dự trữ, xấp xỉ 4,6% tổng lượng dầu dự trữ trên toàn thế giới. Vì thế UAE là nước có nguồn dự trữ khí đốt lớn thứ tư trên thế giới sau Nga, Iran, Qatar. Sản lượng dầu của UAE hiện nay là 2,3 triêuh thùng/ ngày. Hiện nay, ước tính khu vực kinh tế dầu khí chiếm 20% GDP của UAE. Theo quota từ 1/11/2003, UAE được OPEC cho phép sản xuất 2,2 triệu thùng dầu thô mỗi ngày, trong đó hơn nửa là để xuất khẩu, phần non nửa còn lại được sản xuất xăng dầu qua các Nhà máy lọc dầu trong nước. 1.3.1.2- Lĩnh vực phi dầu lửa Các ngành công nghiệp phi dầu lửa tại UAE chủ yếu gồm xây dựng, luyện kim, hóa chất và nhựa, kim loại và thiết bị nặng, dệt may và chế biến thực phẩm. Nền sản xuất UAE đang ở trong giai đoạn tái cơ cấu nhằm phù hợp với các điều kiện của WTO có hiệu lực từ 2005 mà UAE là một thành viên theo hướng tìm kiếm thị trường mới và tăng cường xuất khẩu. Lĩnh vực này có tốc độ tăng trưởng 3,9% năm 2000. Những con số này gồm cả đầu tư của chính phủ vào điện nước và cơ sở hạ tầng, phát triển của ngành dịch vụ tài chính và cầu mạnh của tái xuất. Lĩnh vực phi dầu lửa trong nền kinh tế của UAE đóng góp nhiều gấp 2 lần mức đóng góp trực tiếp của lĩnh vực dầu lửa vào GDP và điều này đã giúp đất nước tránh khỏi những tác động xấu của giá dầu không ổn định. Năm 2003, tỷ trọng của các ngành đóng góp lớn nhất sau dầu khí (40%) theo thứ tự giảm dần, lần lượt là chế tạo (11%), thương mại bán buôn và bán lẻ (10%), dịch vụ chính phủ (10%), thương mại (8%). 1.3.1.3- Lĩnh vực nông nghiệp Khu vực nông nghiệp UAE chiếm 6,3% thu nhập quốc dân phi dầu lửa. Đặc điểm địa lý của UAE không thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp: diện tích đất nước nhỏ, chủ yếu là sa mạc, khí hậu nóng, ít mưa. Trong 7 tiểu vương quốc, chỉ có một số ít vùng có thể sản xuất nông nghiệp, chủ yếu tại các ốc đảo, nơi có nước ngọt phục vụ tưới tiêu tại Abu Dhabi, Fujairah, Sharjah. Chính phủ UAE rất chú trọng phát triển nông nghiệp bằng nguồn ngân sách dồi dào. Đến nay, UAE có trên 38.000 nông trại với tổng diện tích 2,7 triệu donums (1 donum = 1.000 m2). Các loại cây trồng chủ yếu là rau xanh, chà là, cây cảnh. Đàn gia súc có hơn 600.000 con cừu, 1,5 triệu con dê… Chăn nuôi gia cầm cung cấp 40 triệu con gà, 400 triệu quả trứng mỗi năm và không bị ảnh hưởng bởi dịch cúm gà. UAE là một đất nước có truyền thống ngư nghiệp với 5.000 thuyền đánh bắt cá, 1.160 ngư dân. Nông ngiệp UAE cung cấp 83% nhu cầu về rau, 100% chà là (thậm chí còn xuất khẩu), 8% trái cây loại khác, 25% thịt gia súc, 21% thịt gia cầm, 36% về trứng, 87% về sữa tươi và 100% về cá (và xuất khẩu các loại cá) cho nhu cầu trong nước. Nhìn chung, UAE mới tự túc được một phần nhỏ nhu cầu sản phẩm nông nghiệp và ngư nghiệp cho nhu cầu và sản xuất tại chỗ. 1.3.2- Cân bằng cán cân thanh toán Năm 2003, thặng dư tài khoản vãng lai của UAE khoảng 2,4 tỉ USD, tương đương 3% GDP - chủ yếu do giá dầu cao. Tổng kim ngạch xuất khẩu (gồm cả tái xuất) năm 2003 đạt mức 58,03 tỉ USD. Một vấn đề nghiêm trọng ảnh hưởng đến việc biên soạn thống kê cán cân thanh toán của UAE là chính phủ không cung cấp các con số thống kê của nhiều giao dịch. Những lỗ hổng lớn là tiền gửi của người lao động, thu nhập đầu tư và doanh thu xuất khẩu khí đốt, giao dịch đầu tư trực tiếp nước ngoài và giao dịch vốn. 1.3.3- Cơ sở hạ tầng UAE có hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển và hiện đại. Giao thông trên đất liền bằng đường bộ. Một mạng lưới tập trung đông ở các thành phố lớn. Các cấp chính quyền ở Abu Dhabi và Dubai tập trung đông ở các thành phố lớn. UAE không có hệ thống đường sắt, mạng lưới giao thông hàng không nội địa, mặc dù chính quyền Dubai đang xem xét việc xây dựng một hệ thống tàu điện ngầm. Tất cả các tiểu vương quốc trừ Ajman và Umm Al Quwain, có các sân bay hiện đại. Tất cả các tiểu vương quốc đều có cảng biển hiện đại. Cảng Jebel Ali ở Dubai là cảng nhân tạo lớn nhất trên thế giới. Hàng hóa được nhập khẩu bằng đường biển và phân phối bằng xe tải đến các khu vực lân cận ở các nước láng giềng thuộc GCC. Hiện nay có 12 khu vực tự do mậu dịch ở UAE, một nửa trong số đó đặt tại Dubai. Dubai ngày càng phát triển hơn về ngành thương mại điện tử. 1.4- Đặc điểm chung về thị trường UAE UAE là một trong những thị trường phát triển nhất khu vực Trung Đông. Nằm ở một vị trí chiến lược phía Tây Nam của khu vực từ vùng vịnh, từ UAE hàng hóa có thể đến trực tiếp với 1,9 tỷ dân vùng Vịnh, khu vực Trung Đôn, Đông Âu, Iran và bán đảo Ấn Độ. GDDP trên đầu người của UAE không khác nhiều so với các nước Tây Âu. Năm 2003, kinh tế UAE khởi sắc, GDP tăng 12,4%, đạt xấp xỉ 80 tỷ USD. Tuy nhiên, UAE là nước có dân số nhỏ (4 triệu người) nên sức tiêu thụ tại chỗ hạn chế. Mức nhập khẩu của nước bạn khá cao là do phục vụ nhu cầu tái xuất. Sự ổn định về chính trị, sự phồn thịnh về kinh tế cùng với việc miễn thuế đối với đa số các mặt hàng đã tạo cho thị trường UAE sức hút đối với các nhà xuất khẩu và đầu tư nước ngoài. Hoạt động thương mại truyền thống của UAE là các nhà buôn nước này đã đưa hàng hóa củ các nhà sản xuất lớn đến các thị trường Nam Á, vùng Vịnh, Đông Phi. Dubai là một cổng trung gian thương mại. Dubai chiếm 70% hàng nhập khẩu vào UAE và 90% hàng tái xuất từ UAE. Dubai là thị trường trung chuyển lớn thứ 3 trên thế giới, sau Hồng Kông và Singapore. Từ Dubai, hàng hoá nhập khẩu tỏa đi các nước khu vực Trung Đông, Châu Phi, Châu Mỹ. UAE phục vụ cả thị trường Bắc Phi, Nam Phi, Đông Phi, Trung Á, phần còn lại là vùng Trung Đông và các nước thuộc Liên Xô cũ trong vùng Trung á. Vì tập quán kinh doanh truyền thống các bộ tộc hoặc các nhóm dân tộc từ nhiều vùng khác nhau với các sản phẩm có giá trị đòi hỏi các nhà buôn nước này phải có sự kiểm định và tin cậy, đặc biệt là các yếu tố về mặt thời gian và do sự cách biệt về không gian, đã dẫn tới một phong cách kinh doanh coi trọng các mối quan hệ cá nhân và ý thức về sự liêm chính. Dù thông thoáng về chính sách thuế và thủ tục hải quan nhưng việc làm ăn với thị trường UAE cũng không dễ dàng bởi tính cạnh tranh gay gắt là một đặc điểm lớn của thị trường này. Hàng hóa từ Trung Quốc, Ấn Độ có chủng loại, mẫu mã phong phú, được thay đổi thường xuyên theo thị hiếu thị trường, lại có giá rẻ. Bên cạnh đó, hàng từ Anh, Mỹ và các nước phương Tây có thương hiệu nổi tiếng, chất lượng cao cũng coi UAE là nơi tiếp thị bán hàng vào khu vực. CHƯƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỂ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH NHẬP KHẨU CỦA UAE 2.1- Thuế nhập khẩu 2.1.1- Khái niệm chung về thuế và phân loại thuế nhập khẩu Thuế nhập khẩu là một loại thuế quan đánh vào hàng mậu dịch, phi mậu dịch, khi hàng hoá đi qua khu vực hải quan của một nước. Hoặc, hiểu theo góc độ kinh tế đơn thuần thì đó là một khoản tiền mà đối tượng nộp thuế phải nộp cho cơ quan hải quan nước đó có hàng hoá đi qua khu vực hải quan của nước đó. Thuế nhập khẩu là một loại thuế gián thu, đã có từ lâu. Mục đích thu thuế nhập khẩu trong thời kì xã hội phong kiến và thời kỳ trước đó chủ yếu là để tăng thu nhập tài chính quốc gia. Khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển thì thuế nhập khẩu không chỉ là nguồn thu tài chính mà còn là công cụ thực hiện chính sách kinh tế thương mại của các nước cận và hiện đại. Trong cạnh tranh trên thị trường quốc tế, thuế nhập khẩu vừa trở thành một công cụ bảo hộ kinh tế và sản xuất vừa là đòn bấy điều tiết kinh tế phát triển. Một thực tiễn tồn tại trong nhiều năm là các nước đua nhau nâng cao thuế suất, tăng cường bảo hộ kinh tế chính quốc. Thuế nhập khẩu trở thành một rào cản ngăn chặn sự phát triển tự do của thương mại quốc tế, ảnh hưởng bất lợi đến sự phát triển của kinh tế thế giới. Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) ra đời để thúc đẩy sự phát triển của thương mại quốc tế, khởi xướng tự do hóa buôn bán, yêu cầu các bên kí kết cắt giảm hoặc xóa bỏ rào cản buôn bán. Ngoài việc hạn chế các rào cản phi thuế quan ra, thông qua đàm phán giữa các nước thành viên để cắt giảm thuế, đồng thời sau khi cắt giảm thuế phải không được tùy tiện nâng cao. Tuy vậy, trước mắt Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) hoàn toàn không huỷ bỏ thuế nhập khẩu, vẫn cho phép các nước thành viên trong đó có UAE lấy thuế nhập khẩu làm phương tiện bảo hộ kinh tế quốc gia hợp pháp duy nhất. Theo xu hướng chung, cần giảm thiểu bảo hộ bằng các biện pháp phi thuế quan, chỉ có thể dùng thuế quan làm phương tiện bảo hộ hợp pháp. Điều tiết, kiểm soát kinh tế và vai trò bảo hộ của thuế quan phải thông qua điều tiết của cơ chế thị trường và cơ chế giá cả để thực hiện. Theo những tiêu thức, phương pháp phân loại khác nhau có các loại thuế nhập khẩu khác nhau sau đây: Theo phương pháp thu thuế, thuế nhập khẩu có: thuế theo giá, thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp, thuế lựa chọn. thuế theo mùa, thuế tính theo giá chuẩn. Theo sự phán đoán có sự hạn chế của nước ngoài hay không, thuế nhập khẩu có: thuế tự chủ, thuế không tự chủ, thuế quan hiệp định, thuế hạn ngạch... Theo mức ưu đãi đối với hàng nhập khẩu từ các nước khác nhau, có các loại thuế nhập khẩu sau:
Tài liệu liên quan