Việc chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, nền kinh tế nước ta cũng như mỗi doanh nghiệp đang phải đối mặt với nhiều cơ hội và thách thức mới trong đó có sự chênh lệch tăng vọt khoảng cách giữa văn minh, tiên tiến và lạc hậu là vấn đề nổi cộm nhất. Lộ trình thực hiện AFTA sớm hơn dự định, Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ đã được quốc hội thông qua và có hiệu lực, sức ép của hội nhập và cạnh tranh toàn cầu đang lớn dần. Nghị quyết Quốc hội về nhiệm vụ năm 2002 và chương trình hoạt động của Chính phủ đã thể hiện quyết tâm cao của cơ quan quyền lực Nhà nước trong việc tập trung mọi nỗ lực cho sự phát triển. Tháng 9 năm 2001, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa IX đã ra Nghị quyết về sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước, Nghị quyết Trung ương 3 có đi vào cuộc sống trở thành hiện thực hay không còn phụ thuộc vào phần lớn sự vận động của hơn 60. 000 doanh nghiệp trong cả nước. Do vậy, nâng cao năng lực quản lý và cạnh tranh của doanh nghiệp là nhân tố quan trọng để chúng ta có thể đáp ứng được những đòi hỏi bức xúc của tình hình mới. Chính phủ đã triển khai nhiều chủ trương, chính sách để tổ chức, sắp xếp lại, phát huy quyền tự chủ kinh doanh, nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp Nhà nước. Một trong những chủ trương quan trọng đó là : Cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước. Đây là quyết định đúng đắn của Nhà nước nhằm khắc phục những điểm yếu kém, trì trệ của các doanh nghiệp Nhà nước.
. Nên em xin mạnh dạn được đề cập đến đề tài :
CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
23 trang |
Chia sẻ: lamvu291 | Lượt xem: 1222 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời nói đầu
Việc chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, nền kinh tế nước ta cũng như mỗi doanh nghiệp đang phải đối mặt với nhiều cơ hội và thách thức mới trong đó có sự chênh lệch tăng vọt khoảng cách giữa văn minh, tiên tiến và lạc hậu là vấn đề nổi cộm nhất. Lộ trình thực hiện AFTA sớm hơn dự định, Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ đã được quốc hội thông qua và có hiệu lực, sức ép của hội nhập và cạnh tranh toàn cầu đang lớn dần. Nghị quyết Quốc hội về nhiệm vụ năm 2002 và chương trình hoạt động của Chính phủ đã thể hiện quyết tâm cao của cơ quan quyền lực Nhà nước trong việc tập trung mọi nỗ lực cho sự phát triển. Tháng 9 năm 2001, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa IX đã ra Nghị quyết về sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước, Nghị quyết Trung ương 3 có đi vào cuộc sống trở thành hiện thực hay không còn phụ thuộc vào phần lớn sự vận động của hơn 60. 000 doanh nghiệp trong cả nước. Do vậy, nâng cao năng lực quản lý và cạnh tranh của doanh nghiệp là nhân tố quan trọng để chúng ta có thể đáp ứng được những đòi hỏi bức xúc của tình hình mới. Chính phủ đã triển khai nhiều chủ trương, chính sách để tổ chức, sắp xếp lại, phát huy quyền tự chủ kinh doanh, nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp Nhà nước. Một trong những chủ trương quan trọng đó là : Cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước. Đây là quyết định đúng đắn của Nhà nước nhằm khắc phục những điểm yếu kém, trì trệ của các doanh nghiệp Nhà nước.
. Nên em xin mạnh dạn được đề cập đến đề tài :
cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp
nội dung
I- Những VấN Đề chung về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước
1. Khái niệm cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước:
Các doanh nghiệp Nhà nước được hình thành và phát triển trên cơ sở nguồn vốn cấp phát của ngân sách Nhà nước và do đó tất cả các sự hoạt động đều chịu sự kiểm soát và chi phối trực tiếp của Nhà nước. Cũng như nhiều nước trên thế giới, khu vực kinh tế Nhà nước hoạt động hết sức kém hiệu quả, đặc biệt các doanh nghiệp Nhà nước do cấp địa phương quản lý. Như vậy, có thể thấy rằng vấn đề sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp Nhà nước cần phải được giải quyết một cách cơ bản. Để giải quyết vấn đề này giải pháp hữu hiệu trong nền kinh tế thị trường và đáp ứng được các yêu cầu kinh doanh hiện đại - Đó là các công ty cổ phần.
Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm đa dạng hoá hình thức sở hữu trong doanh nghiệp Nhà nước, nâng cao hiệu quả của loại hình doanh nghiệp này. Để thực hiện chủ trương đó, Nhà nước ban hành khá nhiều các văn bản hướng dẫn thi hành. Đó là quyết định số 202/CT ngày 8/6/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về tiếp tục thí điểm chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần, kèm theo đề án chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần; Chỉ thị số 84/TTg ngày 4/3/1993 của Thủ tướng Chính phủ về xúc tiến thực hiện thí điểm cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu các doanh nghiệp Nhà nước. Nghị định 28/CP ngày 7/5/1996 của Chính phủ về chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần; Thông tư số 50/TCDN ngày 30/8/1996 của Bộ tài chính hướng dẫn thực hiện; Nghị định 28/CP của Chính phủ; Nghị định số 25/CP ngày 26/3/1997 về sửa đổi một số điểu của nghị định số 28/CP và nghị định số 44/CP ngày 2/6/1998 về sửa đổi một số điều trong nghị định số 28/CP. Hiện nay là Nghị định số 64/CP ngày 19/6/2002 về việc "Chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần".
Theo các văn bản trên cổ phần hoá ở nước ta là cách nói tắt của chủ trương chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Điều I Thông tư số 50/TCDN ngày 30/8/1996 của Bộ Tài chính qui định: "doanh nghiệp Nhà nước chuyển thành công ty cổ phần (hay còn gọi là cổ phần doanh nghiệp Nhà nước)" là một biện pháp chuyển doanh nghiệp Nhà nước từ sở hữu Nhà nước sang hình thức sở hữu nhiều thành phần, trong đó tồn tại một phần sở hữu Nhà nước.
Như vậy: “Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là việc chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần đối với những doanh nghiệp mà Nhà nước thấy không cần nắm giữ 100% vốn đầu tư, nhằm tạo điều kiện cho người lao động trong trong doanh nghiệp có cổ phần làm chủ thực sự doanh nghiệp, huy động vốn toàn xã hội để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp góp phần tăng trưởng kinh tế”.
2. Công ty cổ phần
Thực chất của quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp là quá trình chuyển đổi hình thức doanh nghiệp sang hình thức công ty cổ phần.
Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó :
- Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
- Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
- Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người, (trừ cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết);
- Cổ đông có thể là tổ chức; cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa;
- Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng theo qui định của pháp luật về chứng khoán.
Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Hay nói cách khác, công ty cổ phần là một tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân do một số người, một số tổ chức kinh tế xã hội tự nguyện góp vốn dưới hình thức mua cổ phiếu của công ty gọi là cổ đông. Các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm pháp lý hữu hạn trong phần vốn góp của mình. Điều này cho phép công ty có tư cách pháp lý đầy đủ để huy động những lượng vốn lớn nằm rải rác thuộc thiều cá nhân trong xã hội.
Khi công ty mới thành lập yêu cầu cần có một lượng vốn nhất định. Trên cơ sở số vôn ban đầu công ty xác định số cổ phiếu và mệnh giá cổ phiếu. Các loại cổ phiếu bao gồm: Cổ phiếu ưu đãi, cổ phiếu thông thường, cổ phiếu mới. Ngoài ra, công ty cổ phần được phát hành trái khoán để huy động thêm vốn.
Các cổ phiếu và trái phiếu của công ty được chuyển nhượng dễ dàng trên thị trường chứng khoán, vì thế bất kể cổ phiếu được chuyển chủ bao nhiêu lần cuộc sống của công ty vẫn tiếp tục một cách bình thường mà không bị ảnh hưởng. Đồng thời, nhờ cơ chế này nó đã tạo nên sự di chuyển linh hoạt các luồng vốn xã hội theo các nhu cầu và cơ hội đầu tư đa dạng của các công ty và công chúng.
II- Tại sao phải cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước
1. Đặc điểm của các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện nay
Doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta ra đời và hoạt động trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung với một thời gian dài. Mặt khác, do hình thành từ những nguồn gốc khác nhau và được sản xuất trên cơ sở của nhiều quan điểm nên các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam có những đặc trưng khác biệt so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, đó là:
- Quy mô doanh nghiệp phần lớn nhỏ bé, cơ cấu phân tán, biêu rhiện ở số lượng lao động và mức độ tích luỹ vốn.
- Trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu (từ 2-3 thế hệ, cá biệt tới 5-6 thế hệ), trừ một số rất ít (18%0 số doanh nghiệp Nhà nước được đầu tư mới đây (sau khi có chính sách đổi mới), phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước đã được thành lập khá lâu, có trình độ kỹ thuật thấp. Vì vậy khi chuyển sang kinh tế thị trường, khả năng cạnh tranh cả trong nước lẫn quốc tế của doanh nghiệp Nhà nước rất yếu, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động, khả năng hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Do những đặc điểm trên nên khi chuyển sang kinh tế thị trường, các doanh nghiệp Nhà nước không còn được bao cấp mọi mặt như trước đây, mặt khác lại bị các thành phần kinh tế khác cạnh tranh quyết liệt, nên nhiều doanh nghiệp Nhà nước không trụ nổi, dẫn đến phán sản, giải thể.
2. Sự hoạt động kém hiệu quả của các doanh nghiệp Nhà nước
Trước khi thực hiện cổ phần hoá, nước ta có hơn 6. 000 doanh nghiệp Nhà nước, nắm giữ 88% tổng số vốn của các doanh nghiệp trong nền kinh tế nhưng hiệu quả kinh doanh thấp, chỉ có khoảng 50% doanh nghiệp Nhà nước là có lãi, trong đó thực sự làm ăn hiệu quả và có triển vọng lâu dài chỉ chiếm dưới 30%. Trên thực tế doanh nghiệp Nhà nước nộp ngân sách chiếm 80-85% tổng số thu nhưng nếu trừ khấu hao cơ bản và thuế gián thu thì doanh nghiệp Nhà nước chỉ đóng góp được trên 30% ngân sách Nhà nước. Đặc biệt nếu tính đủ chi phí, tài sản cố định và đất theo giá thị trường thì các doanh nghiệp Nhà nước hầu như không tạo ra được tích luỹ. Điều đó có nghĩa là hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước không tương xứng với phần đầu tư của Nhà nước cho nó cũng như không tương xứng với tiềm lực của chính doanh nghiệp Nhà nước.
Trình độ công nghệ còn lạc hậu, tình hình này có phần do hậu quả nặng nề của thời kỳ kế hoạch hoá tập trung bao cấp trước đây và ảnh hưởng nghiêm trọng của chiến tranh. Máy móc, thiết bị đã quá lạc hậu, lỗi thời và hiện có đến 54, 3% doanh nghiệp Nhà nước Trung ương và 74% doanh nghiệp Nhà nước đại phương còn sản xuất ở trình độ thủ công. Chính điều này đã gây khó khăn cho việc tăng năng suất lao động và nâng cao chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp Nhà nước.
Nhận thức được tầm quan trọng và tính tất yếu của việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, Đảng và Nhà nước ta đã sớm đề ra chủ trương, chính sách cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước ngay từ đầu những năm 1990, từng bước thực hiện và đổi mới cho phù hợp với từng giai đoạn của tiến trình cổ phần hóa.
3. Mục tiêu cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước
Nghị định 64/2002/NĐ-CP ngày 19/6/2002 của Chính phủ về việc chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần đã nêu rõ: Chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành các công ty cổ phần nhằm các mục tiêu:
- Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và nước ngoài để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước.
- Tạo điều kiện để người kinh doanh trong doanh nghiệp có cổ phần và những người đã gióp vốn được làm chủ thực sự, thay đổi phương thức quản lý, tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng tài sản Nhà nước, nâng cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước.
Như vậy một trong những mục đích quan trọng của cổ phần hóa là để doanh nghiệp thu hút vốn nhàn rỗi trong và ngoài nước vào hoạt động sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển doanh nghiệp. Một mặt nó sẽ góp phần tháo gỡ sức áp cho ngân sách Nhà nước, mặt khác doanh nghiệp cổ phần có điều kiện mở rộng quy mô kinh doanh, đầu tư đổi mới dây chuyền công nghệ, gắn trách nhiệm với lợi ích của chính người lao động nên sẽ thúc đẩy tăng hiệu quả kinh doanh.
Cổ phần hoá tạo điều kiện cho người lao động được thật sự làm chủ doanh nghiệp. Lợi ích của người lao động gắn chạt với hiệu quả hoạt động của chính công ty, do đó người lao động làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, làm việc cho chính bản thân mình, bên cạnh đó đòi hỏi Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc cũng phải thật sự năng động, sáng tạo trong điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị mình.
Thực hiện cổ phần hóa sẽ khắc phục được tình trạng buông lỏng trong quản lý, tình trạng "vô chủ" của doanh nghiệp, đảm bảo sử dụng các nguồn lực cho hoạt động kinh doanh một cách có hiệu quả, tăng khả năng cạnh tranh, đứng vững trên thị trường. Mặt khác cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước sẽ tạo tiền đề cho thị trường chứng khoán ở Việt Nam phát triển, đồng thời góp phần đắc lực vào việc thực hiện chủ trương chuyển đổi cơ cấu kinh tế của Đảng và Nhà nước.
Như vậy, cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước giúp cho doanh nghiệp Nhà nước đổi mới toàn diện cả về phương thức quản lý, giải pháp về vốn, công nghệ, sản phẩm, khả năng cạnh trnah, hiệu quả hoạt động để tồn tại và phát triển theo thời gian, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
III- quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam - những thành tựu và hạn chế
1. Quá trình thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước
Từ giữa năm 1992 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) đã có quyết định về thí điểm chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần nhưng trong thời gian này vẫn chưa có doanh nghiệp Nhà nước nào thực hiện chuyển đổi.
Ngày 4/3/1993 Thủ trướng Chính phủ đã ra chỉ thị 84/TTg về tiếp tục thí điểm chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Qua 4 năm thực hiện (1992-1996) đã có 5 doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần.
Ngày 7/5/1996 Chính phủ ban hành Nghị định số 28/CP để đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước đạt ra. Kết quả là cuối năm 1997 chúng ta đã tiến hành cổ phần hoá được 13 doanh nghiệp.
Ngày 29/6/1998 Chính phủ đã ban hành Nghị định 44/CP về chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Tính đến cuối năm 1998 cả nước đã có 116 doanh nghiệp Nhà nước chuyển thành công ty cổ phần.
Ngày 19/6/2002 Chính phủ đã ban hành NĐ64/CP về chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần.
Hiện nay, doanh nghiệp Nhà nước còn khoảng 5.911 doanh nghiệp, cả nước đã có 771 doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hoá (Số liệu năm 2000), tuy số lượng doanh nghiệp Nhà nước chuyển sang công ty cổ phần chưa nhiều, thời gian hoạt động còn ít sang cổ phần hoá đã khẳng định được vai trò của mình trong nền kinh tế.
2. Những kết quả đạt được
Kết quả điều tra 240 doanh nghiệp sau hơn một năm hoàn thành việc cổ phần hoá cho thấy nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp tăng từ 1, 5-2 lần, doanh thu tăng từ 1, 4-1, 5 lần, tổng lợi nhuận thực hiện tăng hơn 200% thu nhập của người lao động tăng 1, 4 đến 2 lần, trong khi đó lao động được tuyển dụng tăng thêm từ 10-20%.
Mục tiêu của cổ phần hóa là huy động thêm vốn trong nước, đổi mới phương thức để quản lý tạo động lực mới cho sự phát triển. Nói riêng về việc huy động vốn, trong số 771 doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hoá có giá trị phần vốn Nhà nước 3. 000 tỷ đồng, qua cổ phần hoá đã thu thêm được 2000 tỷ đồng của các cá nhân, pháp nhân. Đồng thời thông qua việc bán cổ phiếu, Nhà nước đã thu thêm hơn 1. 150 tỷ đồng để đầu tư và giải quyết chính sách cho người lao động trong doanh nghiệp Nhà nước thực hiện cổ phần hoá. Bên cạnh đó phần vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp cổ phần hoá không mất đi mà lại tăng thêm từ 10-15% so với giá trị trên sổ sách.
Kết quả sản xuất kinh doanh có lãi hay không được chứng minh bằng việc chia cổ tức hàng quý, hàng tháng. Sau cổ phần hoá, doanh thu của các công ty cổ phần đều tăng gấp hai lần so với trước. Điển hình là công ty Điện lạnh năm 1999 doanh thu 178 tỷ đồng gần gấp 5 lần so với trước khi cổ phần hoá. Công ty cổ phần thuỷ sản Hạ Long sau khi hoàn thành cổ phần hoá, doanh số tăng 30% năm. Năm 2001 mặc dù thị trường xuất khẩu gặp nhiều khó khăn nhưng doanh số của công ty dự kiến vẫn đạt hơn 130 tỷ đồng. Về lợi tức cổ phần, về vốn, rồi nộp ngân sách đều tăng so với trước khi cổ phần, không những thế việc cổ phần hoá còn tạo thêm việc làm cho người lao động.
Khi doanh nghiệp chuẩn bị cổ phần hoá, người lao động rất lo lăng bởi khi doanh nghiệp cổ phần hoá tài sản trong doanh nghiệp không còn là của Nhà nước nữa, các ông chủ có thể sa thải công nhân. Nhưng thực chất từ khi cổ phần hoá đến nay chưa có công nhân nào bị sa thải. Riêng công ty cổ phần cơ điện lạnh thành phố Hồ Chí Minh tăng từ 334 người lên 731 người, công ty cổ phần chế biến Long An từ 900 người lên 1. 280 người.
3. Những hạn chế
Chủ trương cổ phần hoá là một trong 4 nội dung đổi mới quản lý doanh nghiệp Nhà nước đã được triển khai từ giữa năm 1992 theo tinh thần của quyết định số 202CT-HĐBT. Mặc dù đã đạt được một số thành tựu nhất định nhưng vẫn tồn tại nhiều bất cập tiếp tục phại giải quyết.
Rõ ràng là CPH đã mang lại rất nhiều lợi ích cho doanh nghiệp, Nhà nước cũng như người lao động. Nhưng tại sao quá trình CPH diễn ra vẫn còn chậm, chúng ta hãy tìm hiểu một số nguyên nhân.
3. 1. Từ phía Nhà nước và địa phương.
Một là: Các ngành, các cấp ở Trung ương và địa phương chưa quán triệt các quan điểm chủ trương của Đảng và Nhà nước về CPH một số DNNN chuyển sang Công ty cổ phần.
Hai là, Công tác chỉ đạo của Nhà nước còn chậm và lúng túng Nhà nước chưa có các văn bản đủ tầm cỡ về mặt pháp lý như luật, pháp lệnh về CPH.
Ba là, một số chính sách chế độ cụ thể đối với các doanh nghiệp CPH chưa đủ sức hấp dẫn, không lôi cuốn các doanh nghiệp hăng hái tiến hành CPH.
3. 2. Từ phía người lao động
Mặc dù với kết quả khả quan bước đầu ở các doanh nghiệp CPH nhưng người lao động vẫn còn nhiều băn khoăn lo ngại và đây chính là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến tiến trình CPH còn chậm chạp.
Thứ nhất, tệ tham nhũng trong các hoạt động kinh tế vẫn thường xuyên xảy ra và ngày càng gia tăng gây thất thoát tiền của tài sản cho Nhà nước của doanh nghiệp làm cho người lao động chưa thực sự tin tưởng và hệ thống lãnh đạo của doanh nghiệp khi chuyển sang doanh nghiệp cổ phần.
Thứ hai, người lao động không biết lấy tiền đâu để mua cổ phần. Trong quá trình đổi mới nền kinh tế đời sống của đa số người lao động làm việc trong các DNNN được nâng cao, nhưng khá nhiều người chỉ đủ ăn chưa có tích luỹ về tiền và tài sản.
Thứ ba, do người lao động lo lắng về việc làm của họ sau CPH. Liệu sau CPH việc làm của họ còn được tiếp tục hơn?
Thứ tư, do người lao động lo lắng đến vấn đề thu nhập sau khi thực hiện CPH người lao động rất lo lắng đến việc này bởi nó ảnh hưởng đến đời sống của họ và gia đình.
Tất cả những lo lắng trên của người lao động là chính đáng bởi nó gần gũi, thiết thực với người lao động.
3. 3. Từ phía doanh nghiệp
Thứ nhất là, vấn đề tài sản và nợ của các DNNN. Việc xác định giá trị doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn xung quanh vấn đề này.
Thứ hai là, do một số doanh nghiệp chưa nhận thức rõ tầm quan trọng và mục tiêu CPH thiếu thống nhất trong chỉ đạo của cấp uỷ, công đoàn, ban giám đốc, và cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp.
Thứ ba là, nhiều doanh nghiệp chưa hình dung hết quy trình CPH, các thủ tục còn quá mới mẻ với họ.
Thứ tư là, các doanh nghiệp lo ngại sau khi CPH bị "phân biệt đối xử" mặc dù chủ trương của Nhà nước là quyền lợi các thành phần kinh tế ngang nhau.
3. 4. Những nguyên nhân khác
- Đất nước ta còn nghèo, lượng tiền tích luỹ trong dân cư còn ít các DNNN phần lớn làm ăn còn kém hiệu quả. Người dân chưa có thói quen chịu rủi ro bằng cách đầu tư mua cổ phiếu.
- Thị trường vốn chưa phát triển, thị trường chứng khoán mới được hình thành nên hoạt động chưa có hiệu quả chưa tạo thuận lợi cho việc thúc đẩy CPH.
- Huy động vốn của toàn xã hội là một mục tiêu chủ yếu của CPH DNNN nhưng tỷ lệ cổ phần hóa bán ra ngoài còn quá thấp.
Iv- Quy trình chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần.
Danh nghiệp Nhà nước chuyển đổi thành công ty cổ phần, được thực hiện theo những bước sau:
Bước 1: Chuẩn bị cổ phần hóa
Các bộ, cơ quan ngang bộ cơ quan thuộc Chính phủ (gọi tắt là các bộ), các Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi tắt là Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh), các tổng công ty lập danh sách cho doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa từng năm báo cáo Thủ tướng Chính phủ và gởi cho các doanh nghiệp để thực hiện. Các doanh nghiệp Nhà nước trong danh sách cổ phần hóa báo cáo dựkiến danh sách các thành viên trong Ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp lên bộ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, tổng công ty để quy định. Các bộ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, tổng công ty quyết định thành lập Ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp thuộc quyền quản lý và quyết định từng doanh nghiệp cổ phần hóa trong từng năm. Ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp có trách nhiệm tuyên truyền, giải thích cho người lao động trong doanh nghiệp mình những chủ trương chính sách của Chính phủ để tổ chức thực hiện.
Bước 2: Xây dựng phương án cổ phần hóa
Ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp tổ chức kiểm kê tài sản, vật tư tiền vốn, công nợ của doanh nghiệp và dự kiến giá trị thực tế của doanh nghiệp lên bộ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, tổng công ty.
Các bộ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, tổng công ty phối hợp với cơ quan quản lý vốn và tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp