Colostrum, hay còn gọi là sữa nonhoặc sữa đầu, là sữa do thể mẹ của tất cả các loài động vật có vú tiết ra ngay sau khi sinh con. Colostrumlà thức ăn ban đầu cho thể con vừa mới sinh ra. Không chỉ bao gồm một số lượng lớn các thành phần dưỡng chất quan trọng, Colostrumcòn chứa các thành phần giúp cho sự hình thành và củng cố hệ miễn dịch cho thể con mới sinh. Điều đó cho phép thể con có thể tự bảo vệ trước các tác động xấu của môi trường xung quanh.
51 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2149 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Colostrum từ bò, dê, cừu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài: Colostrum từ bò, dê, cừu GVHD: PGS.TS Lê Văn Việt Mẫn
6
1. Tổng quan về Colostrum
1.1. Colostrum là gì?
Colostrum, hay còn gọi là sữa non hoặc sữa đầu, là sữa do thể mẹ của tất cả các loài
động vật có vú tiết ra ngay sau khi sinh con. Colostrum là thức ăn ban đầu cho thể con
vừa mới sinh ra. Không chỉ bao gồm một số lượng lớn các thành phần dưỡng chất quan
trọng, Colostrum còn chứa các thành phần giúp cho sự hình thành và củng cố hệ miễn
dịch cho thể con mới sinh. Điều đó cho phép thể con có thể tự bảo vệ trước các tác động
xấu của môi trường xung quanh. Colostrum còn giúp thúc đẩy nhanh quá trình phát triển
của các tế bào và cơ quan chức năng trong cơ thể.
Nếu thể con của các loài động vật như bò, dê, cừu trong vòng 12-24 giờ sau khi sinh ra
không được nhận Colostrum từ thể mẹ thì tỷ lệ tử vong sẽ rất cao khoảng 25%.
1.2. Thành phần Colostrum
Đối với các loài động vật khác nhau thì thành phần hoá học của Colostrum sẽ khác
nhau, ngay cả ở những động vật cùng loài cũng không giống nhau. Thành phần và chất
lượng của Colostrum ở các loài hay ở những động vật cùng loài luôn thay đổi phụ thuộc
vào nhiều yếu tố như: thành phần thức ăn, điều kiện chăn nuôi, sức khoẻ, trọng lượng của
con vật, loài giống và nhiều yếu tố khác.
Bảng 1.1: Thành phần Colostrum và sữa thường của bò
1.2.1. Protein
Trong colostrum có nhiều protein: Albumin, Casein,… nhưng sự khác biệt chính giữa
colostrum và sữa thường là thành phần Immunoglobulin.
Kháng thể là một nhóm chuyên biệt của protein chủ động được gọi là immunoglobulin
(Ig). Chúng là glucoprotein xuất hiện trong huyết thanh và các chất lỏng như sữa của tất
cả các động vật có vú. Kháng thể được sản xuất để chống lại các sinh vật, vật lạ ký sinh từ
bên ngoài như các vi khuẩn gây bệnh. Có năm loại yếu tố miễn dịch globulin bao gồm
IgG, IgA, IgM, IgE và IgD; trong đó IgG chiếm tỷ lệ cao nhất và có vai trò quan trọng
nhất.
Đề tài: Colostrum từ bò, dê, cừu GVHD: PGS.TS Lê Văn Việt Mẫn
7
Immunoglobulin là thành phần phong phú nhất trong những yếu tố miễn dịch tìm thấy
trong sữa non. Hàm lượng Immunoglobulin trong sữa non Colostrum là cao nhất so với
trong các thành phần khác của cơ thể như sữa thường, serum máu, nước mắt…
Có 5 lại kháng thể:
- IgG tăng thực bào để trung hòa độc tố (80-85% tổng kháng thể trong serum)
- IgM tăng sự thực bào đặc biệt chống lại vi sinh vật (5-10%)
- IgA bảo vệ bề mặt nêm mạc (khonagr 15%)
- IgD kích thích tế bào B để sản sinh kháng thể
- IgE kết hợp với các tác nhân dị ứng
Chức năng của các chuỗi phân tử đó là trói buộc và xâm chiếm các tổ chức lạ giúp cơ
thể thoát khỏi sự lây nhiễm và bệnh tật.
Bảng 1.2: Các thành phần chính và tỉ lệ của chúng trong Colostrum so với sữa thông
bình thường (dữ liệu từ Holmes và các cộng sự năm 2002).
Thành phần Colostrum Sữa bình thường
Tổng protein (%)
Casein (%)
Béo (%)
Carotene (ppm)
Tế bào soma (trên ml)
Tổng Immunoglbulin (%)
IgA (%)
IgG1 (%)
IgG2 (%)
IgM (%)
IGF-1(ppm)
IGF-2(ppm)
TGF-B(ppm)
EGF(ppm)
Lactoferrin(g/l)
Lysosyme(ppm)
Lactoperoxidase(ppm)
8-21
3-6
3-11
50-300
1-2 106
3-15
0.32-0.62
4.8-8.7
0.16-0.29
0.37-0.61
0.1-2
0.1-2
20-40
4-8
1.5-2
0.1-0.7
30
3-4.8
2.6-3.8
3-6
1
2-30 104
0.02-0.1
0.01
0.04
0.005
0.005
0.025
0.002
0.002
0.002
0.1
0.1-0.3
20
Chú thích: các kí hiệu viết tắt IGF: insulin-like growth factor; TGF: transforming growth factor;
EGF: epidermal growth factor
Đề tài: Colostrum từ bò, dê, cừu GVHD: PGS.TS Lê Văn Việt Mẫn
8
Bảng 1.3: Hàm lượng Immunoglobulin trong các thành phần của cơ thể
Colostrum chứa khoảng 60 enzyme, trong đó có glucose-6-phosphate isomerase,
phosphodiesterase, α-manosidase, galactosyltransferase. Enzyme lactoperoxidase có mức
tăng nhanh chóng sau khi sinh và đạt tối sau 4 ngày (0.03mg/mL) và sau đó nó giảm
xuống từ từ. Hoạt tính của enzyme phosphatase và N-acetyl- glucosaminidase trong
Colostrum cao hơn từ 5 đến 10 lần so với trong sữa. Nhóm proteinase có nồng độ
0.49g/mL. Đại diện là cathepsin D phá vỡ cấu trúc casein (α-S1, α-S2, β), -lactalbulin
nhưng không cắt được -lactoglobulin có trong Colostrum.
Colostrum cũng chứa những enzyme tính ức chế để bảo vệ các mô vú của con mẹ
chống lại sự ảnh hưởng của protein phân giải bạch cầu. Nồng độ của những enzyme này
là cao nhất trong lần cho sữa đầu tiên và sau đó giảm nhanh chống. Điển hình là α1-
antitripsin (250−800 µg/mL). Nhóm có phân tử lượng thấp có hoạt tính enzyme ức chế
khác (12-16 kDal) cũng tồn tại trong Colostrum nhưng không hoàn toàn có vai trò sinh lý
như: serine protease và cysteine protease, 2-antiplasmin…Nồng độ các enzyme này
trong Colostrum cao hơn nhiều lần trong sữa (Theo Levieux,1999)
1.2.2. Lactose
Đường có trong sữa chủ yếu là đường lactose. Do đó lactose còn được gọi là đường
sữa. Hàm lượng lactose trong Colostrum thấp hơn sữa thường.
Ngoài lactose trong sữa còn có glucose, galactose, fructose, manose.
Đề tài: Colostrum từ bò, dê, cừu GVHD: PGS.TS Lê Văn Việt Mẫn
9
Bảng 1.4: Các oligosaccharide có tính acid được dò bằng MALDI-TOF-MS ion âm
(matrix-assisted laser desorption/ionization time-of-flight mass spectrometry) trong
Colostrum.
Chú thích: Gal: galactose; Glc: glucose; Neu5Ac: N-acetylneuraminic acid; Neu5Gc: N-
glycolylneuraminic acid; S: sialic acid; L: lactose; LN: N-acetyl lactosamine; HexNAc: N-
acetylhexosamine; DS: sialic acid; LNH: lacto-N-hexaose.
Đề tài: Colostrum từ bò, dê, cừu GVHD: PGS.TS Lê Văn Việt Mẫn
10
Bảng 1.5: Các oligosaccharide trung tính được dò bằng MALDI-TOF-MS ion dương
(matrix-assisted laser desorption/ionization time-of-flight mass spectrometry) trong
Colostrum.
Chú thích: Glc: glucose; Gal: galactose; Fuc: fucose; GlcNA: N-acetylglucosamine; GalNAc: N-
acetylgalactosamine; Hex: hexose (Glc or Gal); L: lactose; FL: fucosyllactose; GL: galactosyllactose;
LNT: lacto-N-tetraose; LNFP: lacto-N-fucopentaose; LNH: lacto-N-hexaose; LNO: lacto-N-octaose;
LND: lacto-N-decaose; LN12: lacto-N-dodecaose.
Đề tài: Colostrum từ bò, dê, cừu GVHD: PGS.TS Lê Văn Việt Mẫn
11
1.2.3. Chất béo
Chất béo trong sữa chiếm khoảng từ 3 - 5,2% (khoảng trên dưới 40g trong 1 lít sữa)
trong đó gồm 2 loại:
- Chất béo đơn giản: hàm lượng của acid béo không bão hòa trong sữa được xác định
bởi chỉ số iod của chất béo.
- Chất béo phức tạp: các chất béo trong sữa thường có dạng hình cầu.
Bảng 1.6: Thành phần acid béo từ Colostrum của bò (Theo A. Richard Baldwin và
Herbert E. Longeneker, giáo sư khoa hóa trường đại học Pittsburgh).
1.2.4. Vitamin
Trong Colostrum hàm lượng vitamin không cao lắm. Các vitamin này thuộc 2 nhóm:
- Nhóm tan trong chất béo: A, D, E.
- Nhóm tan trong nước: B1, B2, B3, B5, B6, C.
Nhìn chung hàm lượng các vitamin nhóm B trong Colostrum thường ổn định, là do
chúng được tổng hợp chủ yếu bởi các vi khuẩn trong ngăn thứ nhất dạ dày của nhóm động
vật nhai lại và không phụ thuộc vào ngoại cảnh. Tuy nhiên, hàm lượng vitamin tan trong
chất béo bị ảnh hưởng sâu sắc thành phần thức ăn và điều kiện thời tiết. Đặc biệt hàm
lượng vitamin A trong Colostrum nhiều hơn trong sữa thường.
Đề tài: Colostrum từ bò, dê, cừu GVHD: PGS.TS Lê Văn Việt Mẫn
12
1.2.5. Khoáng
Hàm lượng chất khoáng trong Colostrum dao động từ 8 – 10 g/l. Các muối trong sữa ở
dạng hòa tan hoặc dung dịch keo (kết hợp với casein).
Trong số các nguyên tố khoáng có trong sữa, chiếm hàm lượng cao nhất là Ca, P, Mg.
Một phần chúng tham gia vào cấu trúc micelle, phần còn lại tồn tại dưới dạng muối hòa
tan trong sữa.
Các nguyên tố khoáng khác như K, Na, Cl… đóng vai trò chất điện ly. Cùng với
lactose, chúng góp phần cân bẳng áp lực thẩm thấu của sữa trong bầu vú động vật với áp
lực máu.
Ngoài ra sữa còn có một số nguyên tố khoáng khác như : Zn, Fe, I, Cu, Mo…
1.2.6. Các thành phần khác
Các chất miễn dịch
Trong sữa có nhiều chất miễn dịch khác nhau như antioxin, opsonin, bacteriolysin,
precipitin, aglutimin. Các chất miễn dịch này có tác dụng bảo vệ sữa khỏi bị hư hỏng.
Hàm lượng các chất miễn dịch không nhiều nhưng chúng đóng vai trò quan trọng đối với
cơ thể. Chất miễn dịch rất dễ bị phá hủy ở nhiệt độ 65 – 70 oC. Ngoài ra sữa còn chứa một
lượng nhỏ bạch cầu.
Các chất khí
Trong sữa tồn tại các chất khí như CO2 (chiếm 50 – 70%), O2 (chiếm 5 – 10%), NO2
(chiếm 20 – 30%). Ngoài ra trong sữa còn phát hiện có NH3.
Trong quá trình bảo quản và chế biến sữa, hàm lượng các chất khí này thay đổi. Sự có
mặt của các khí này gây khó khăn khi gia nhiệt, làm sữa dễ trào bọt khi khử trùng.
1.3. Sự hình thành Colostrum trong cơ thể động vật.
Sự tiết sữa là một quá trình sinh lý được đặc trưng bởi sự tổng hợp, sự bài tiết sữa.
Chức năng sinh lý này được thực hiện nhờ quá trình lọc chủ động và thụ động của các
chất vô cơ, hữu cơ từ máu thông qua tuyến bài tiết của tuyến vú. Tế bào của tuyến bài tiết
tuyến vú, được gọi là phế nang, có dạng hình khối cầu, cấu trúc phân cực, có lỗ lumen
sâu; đây là nơi sữa được tiết ra. Tế bào của tuyển vú được nối với nhau bởi hàng loạt
những phân tử có bản chất protein có cấu trúc phức tạp. Những phân tử này bao gồm:
- Desmosome (D): chức năng kết nối chặt chẽ các tể bào nằm sát cạnh nhau
- Gap junction (GJ): tạo khe hở nhỏ giữa các tế bào gần nhau, cho phép các phân tử
có khối lượng nhỏ đi qua.
- Tight junction (TJ): bao quanh màng tế bào, hình thành rào chắn giữa dòng ngoại
bào cân bằng với huyết thanh máu và sữa bên trong của cấu trúc tuyến vú.
Đề tài: Colostrum từ bò, dê, cừu GVHD: PGS.TS Lê Văn Việt Mẫn
13
Hình 1.1: Cấu trúc phế nang tuyến vú
Hình dạng và cấu trúc phân cực của tế bào tuyến vú cho thấy sự tồn tại của hệ thống
cấu trúc hỗ trợ của khung tế bào. Đây là một cấu trúc mạng lưới vi sợi vô cùng phức tạp
được gắn chặt không gian bên trong của màng tế bào.
Sự sinh trưởng và biệt hóa của tuyến vú được điều khiển bởi hormone. Có 3 giai đoạn
trong chu trình phát triển của tuyến vú: giai đoạn phát triển chính trong thời kì mang thai
được đặc trưng bởi việc hình thành phế nang tiểu thùy đơn (lobulo-alveolar), giai đoạn
tổng hợp và tiết sữa, giai đoạn co hồi được đặc trưng bởi sự thoái hóa của phế nang tiểu
thùy đơn… Trước thời kì dậy thì, các tuyến có tốc độ sinh trưởng giống như các bộ phận
khác của cơ thể. Tuy nhiên, sau khi buồng trứng phát triển thì tốc độ sinh trưởng của
chúng lại lớn hơn. Trước thời kì dậy thì khoảng 0-5 tháng, xảy ra sự kéo dài của hệ thống
các ổng. Đầu thời kì dậy thì xuất hiện các oestrogen, hoormone nữ. Ban đầu các
hoormone này xuất hiện riêng rẽ, sau đó khi buồng trứng đã phát triển hoàn thiện, các
hoormone này sẽ được sản sinh cùng với progresterone, một loại hoormone sinh trưởng.
Điều này làm cho tuyến vú có sự thay đổi lớn: sự phát triển của hệ thống các ống và hệ
thống phế nang tiểu thùy đơn. Tốc độ phát triển của phế nang tiểu thùy đơn bị ảnh hưởng
bởi chế độ dinh dưỡng. nếu con vật sử dụng nguồn thức ăn có quá nhiều năng lượng trước
thời kì dậy thì sẽ làm bộ phận đệm mỡ vú phát triển quá mức và làm kìm hãm sự phát
triển của các ống nhỏ. Bất cứ yếu tố nào làm kìm hãm sự phát triển của các ống nhỏ sẽ
làm giảm khả năng hình thành và vận chuyển sữa của tuyến vú.
Tuy nhiên tuyến vú thực sự phát triển mạnh trong giai đoạn mang thai, khi đó thể tích
sẽ tăng mạnh, các tiểu thùy phát triển trong mô đệm và sự hoạt động của hoormone sinh
trưởng. Sự phát triển của phế nang tiểu thùy đơn bắt đầu vào khoảng tháng thứ ba của quá
trình mang thai, phát triển chậm trong tháng thứ 4 và tăng nhanh từ tháng thứ 5.
Các thành phần của sữa chủ yếu là được tổng hợp bởi các tế bào bài tiết của tuyến vú
từ các tiền chất được hấp thu từ quá trình tuần hoàn. Các tiền chất này được lấy trực tiếp
Đề tài: Colostrum từ bò, dê, cừu GVHD: PGS.TS Lê Văn Việt Mẫn
14
hoặc gián tiếp từ các chất dinh dưỡng trong chế độ ăn uống. Các biểu mô vú còn đóng vai
trò như TJ có lỗ nhỏ và các paracellular trở thành hoạt động, do đó cho phép qua các chất
giữa các tế bào biểu mô, hơn là qua chúng. Trong trường hợp như vậy, lactose, K, P và di
chuyển từ lumen ra dòng ngoại bào. Kết quả là trong sữa nồng độ Na và Cl sẽ tăng trong
khi nồng độ K và lactose sẽ giảm.
Hình 1.2: Sơ đồ chung thể hiện sự tổng hợp và tiết sữa
Nồng độ serum albumin cũng như hoạt tính enzyme serum (-1-antritrypsin, glutamic
oxalacetic transaminase, -glutamil transferase, N-acetyl--D-glucosaminidase) trong sữa
tăng lên cùng với sự cho qua các chất của mô bài tiết. sự rò rĩ của TJ ảnh hưởng đến hoạt
động của bộ khung tế bòa. Điều này làm giảm các tính chất động học của nó trong quá
trình vận chuyển các thành phần được tổng hợp mới đến màng ở đỉnh của tế bào bài tiết.
Sự hạn chế cuả sự tiết ra các thành phần của sữa kìm chế sự tổng hợp và làm ảnh hưởng
đến sự co hồi của các tế bào biểu mô. Quá trình co hồi liên quan đến nhiều yếu tố, trong
đó plasminogen hay plasmin, enzyme tiêu hóa fibrin đóng vai trò trung tâm. Plasmin là
một protease có nhiều trong sữa và có nguồn gốc từ máu. Nó xuất hiện trong sữa cùng với
các tiền chất. Plasminogen thường kết hợp với các casein micelle và hình thành nên cơ
chất cho hoạt tính của enzyme phân hủy protein. Sự chuyển đổi giữa plasminogen và
plasmin được điều khiển trực tiếp bởi chất kích hoạt plasminogen, gián tiếp bởi chất ức
chết plasminogen. Insulin trong huyết tương giống như yếu tố sinh trưởng sẽ đóng vai trò
như chất kết nối của hoormone sinh trưởng, tình trạng dinh dưỡng của vật nuôi cũng đóng
vai trò đáng kể trong hoạt động của chất kích hoạt plasminogen. Plasmin ảnh hưởng đến
các đặc tính của sữa và gây nên sự giảm sút của α và -casein.
Quá trình tiết sữa là sự tách bỏ sữa từ nang thông qua quá trình co lại của các tế bào
của cơ biểu mô và các ống nhỏ khi xuất hiện phản xạ tiết sữa của thần kinh nội. Hệ thống
thàn kinh nội tiết sẽ hoạt động nhờ vào thụ thể cảm giác trong vú khi hút hoặc vắt sữa,
nhờ vào kích thích có điều kiện xảy ra khi hút hoặc vắt sữa. tín hiệu thần kinh sẽ đi qua
tủy sống tới thùy sau của tuyến yên, tuyến yên tiết vào máu oxytocin, hooc môn làm tăng
Đề tài: Colostrum từ bò, dê, cừu GVHD: PGS.TS Lê Văn Việt Mẫn
15
co thắt tử cung trong khi sanh và kích thích tiết sữa từ tuyến sữa. Trên đường đến tuyến
vú, oxytocin làm các tế bào cơ biểu mô co thắt lại, sữa tích trữ được ép đẩy xuống ống
dẫn sữa và đi thoát ra ngoài.
1.4. Sự biến đổi thành phần Colostrum theo thời gian.
Lúc sinh nhau thai bị lọai bỏ, protein phát triển trong các tế bào lót bên ngoài của tuyến
sữa, về bản chất là có sự chuyển cơ chất từ trong máu vào tuyến sữa. Thành phần của dịch
trong tuyến sữa lúc sinh đó là Colostrum thật sự được trình bày trong ở đồ thị bên dưới:
colostrum lúc 0h (lúc sinh). Tại thời điểm đó Colostrum có hàm lượng protein tổng cao
nhất, các nhân tố phát triển có nồng độ cao nhất, cũng như là các hormone và các chất
trao đổi, chứa ít lactose, có hoạt tính sinh học tối đa.
Trong suốt 6h sau sinh, sự cân bằng của các chất này bắt đầu thay đổi theo đồ thị bên
dưới
Hình 1.3: Giá trị các thành phần trong colostrum ở 0 và 6h
Các giá trị này có thể thu được trong Colostrum bò khi cho sữa từ 0 đến 6h sau sinh.
Và bất cứ sự thu sữa nào sau 6h sẽ tạo ra sữa không thật sự là Colostrum và tạo thành sữa
chỉ đạt 20% giá trị colostrum trước đó. Điều này được thể hiện ở bảng số liệu sau đây
Bảng 1.7: Sự thay đổi thành phần của Colostrum theo thời gian sau khi sinh
Đề tài: Colostrum từ bò, dê, cừu GVHD: PGS.TS Lê Văn Việt Mẫn
16
1.5. Ảnh hưởng của Colostrum đến hệ thống miễn dịch của động vật non.
Vai trò của sữa non trong việc phát triển tốt của con non của động vật nhai lại được
nghiên cứu trên cừu. Những loài động vật có vú như cừu phụ thuộc vào việc tiêu hóa sữa
non ngay sau khi sinh và việc hấp thụ Immunoglobulin cho sự miễn dịnh bị động tạo cho
chúng cơ hội sống sót trong việc chống lại các yếu tố gây hại trong một vài tuần đầu tiên
của cuộc sống.
Trong việc nghiên cứu miễn dịch học, 3 phương pháp được kết hợp để nghiên cứu
việc thay đổi protein huyết thanh của con non trong thời kỳ bú sữa và mở rộng ra hàng
loạt con non sau những thời gian trì hoãn nhận sữa khác nhau.
Những cừu mẹ cho con chúng sự miễn dịch chống Salmonella typhosa. Sau khi sinh,
một vài cừu con được cho bú mẹ theo cách bình thường, một vài bú sữa bò bằng bình với
các thời gian khác nhau trước khi cho uống Colostrum, còn những con khác không được
uống Colostrum.
Quan sát các con cừu cái và cừu con. 7 cừu con được cho uống Colostrum ngay khi
sinh, 6 con sau khi trì hoãn 1 khoảng thời gian 12, 24, 29, 48h và 3, 9 ngày, và 4 con
không được uống Colostrum. Huyết thanh và Colostrum của cừu mẹ lúc sinh được kiểm
tra thành phần nitơ và kháng thể.
Bảng 1.8: Sự phân bố nitơ trong serum và Colostrum của cừu cái
Đề tài: Colostrum từ bò, dê, cừu GVHD: PGS.TS Lê Văn Việt Mẫn
17
Bảng 1.9: Sự phân bố nitơ trong serum của cừu non
Theo bảng 1.8, thành phần Colostrum nitơ protein lúc sinh dao động trong khoảng 1
đến 4g/100ml và độ chuẩn từ 1/1000 đến hơn 1/10000. Sự thay đổi nhanh chóng thành
phần ngay sau đó được minh họa bằng dữ liệu của cừu cái 232 và 255
Đề tài: Colostrum từ bò, dê, cừu GVHD: PGS.TS Lê Văn Việt Mẫn
18
Xem xét Colostrum trước khi sinh trên cừu cái 13 và 22, Colostrum của cừu 13 thu
được 3 ngày trước sinh tương đồng với các mẫu giàu nitơ và agglutinin chuẩn. Các cừu
khác như cừu cái 22, 12 ngày trước sinh chứa nồng độ chủ yếu 5g/100ml nitơ protein với
77% là nitơ globulin nhưng độ chuẩn của nó thấp hơn 1/25. Tuy nhiên, Colostrum từ cừu
cái giống nhau lúc sinh có độ chuẩn 1/1000.
Những sự thay đổi protein huyết thanh của cừu con
Bảng 1.9 minh họa những ảnh hưởng sau sinh và khi dừng hấp thu Colostrum.
Có sự tăng lên tạm thời của sự hấp thu và liên quan tới các nồng độ sau khi tiêu hóa
Colostrum lúc sinh và sau sinh 12h.
Không thể kết luận sự thay đổi khi sự trì hoãn là 24,29 và 48h và từ từ tăng hấp thu
nhưng không liên quan tới nồng độ trên khoảng thời gian quan sát khi sự trì hoãn dài hơn
hay khi không cho dùng Colostrum.
Kết quả điện di cũng có những xu thế tương tự với thành phần protein, bên cạnh đó là
sự tăng tỉ lệ globulin khi trì hoãn 24h. Giá trị trung bình của các nồng độ globulin là xấp
xỉ 21% lúc sinh, 55% vài ngày sau hấp thu Colostrum và 33% với 5 hay 6 tuần sau đó.
Các kết quả nước tiểu cừu non
Ở bảng 1.10 cung cấp các chỉ số thời gian tiêu hóa Colostrum. Huyết thanh protein
quá nhiều trong nước tiểu được ghi nhận khi sự tiêu hóa xảy ra lúc sinh và tới 29h sau
sinh. Việc đó sẽ không có hoặc ở mức thấp khi Colostrum được nhận sau 48h. Protein
huyết thanh đó là globulin kiềm với chất dính chuẩn. Những ảnh hưởng này không đáng
kể sau vài ngày.
Bảng 1.10: Kết quả thí nghiệm trên nước tiểu của cừu non
Đề tài: Colostrum từ bò, dê, cừu GVHD: PGS.TS Lê Văn Việt Mẫn
19
Những thay đổi huyết thanh của cừu non là do sự hấp thu miễn dịch globulin từ
Colostrum. Cùng với những thay đổi trong nước tiểu cho thấy rằng sự tiêu hóa Colostrum
của cừu non trong khoảng thời gian từ 29 đến 48h sau sinh dẫn đến sự hấp thu
immunoglobulin và sự xuất hiện hay tăng thành phần điện di di chuyển.
1.6. Các bệnh lây truyền sang động vật non từ Colostrum
Retrovirus là các virus có chứa transcriptase đảo ngược, một loại enzyme cần thiết để
nhân rộng, sao chép cấu trúc di truyền của chúng. Retrovirus gây các bệnh như: ung thư ở
người, gia súc và mèo; thiếu máu ở ngựa; viêm khớp ở dê (CAE); và hội chứng suy giảm
miễn dịch ở người (AIDS) và viêm phổi OPP ở gia súc. Với một số ngoại lệ, các virus
này chỉ tác động đến một hoặc hai loài. Thực nghiệm cho thấy OPP và CAE chỉ lây nhiễm
mỗi ở cừu, dê.
1.6.1. Ovine Progressive Pneumonia (OPP)
OPP được gây ra bởi Lentivirus, một thành viên của nhóm retrovirus. Lentiv