Sau 15 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể trên tất cả các lĩnh vực như kinh tế, văn hoá - xã hội. Đời sống của người lao động từng bước được cải thiện, song bên cạnh những thành quả đạt được trong kinh tế thị trường cũng gây ra các mặt tiêu cực, chịu ảnh hưởng của các quy luật kinh tế quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh đã gây ra sức ép lớn đối với nền sản xuất xã hội.
87 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1390 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Công đoàn với việc tham gia giải quyết việc làm cho công nhân, viên chức, lao động, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Sau 15 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể trên tất cả các lĩnh vực như kinh tế, văn hoá - xã hội. Đời sống của người lao động từng bước được cải thiện, song bên cạnh những thành quả đạt được trong kinh tế thị trường cũng gây ra các mặt tiêu cực, chịu ảnh hưởng của các quy luật kinh tế quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh đã gây ra sức ép lớn đối với nền sản xuất xã hội. Một mặt do ảnh hưởng của cơ chế cũ, kém nhạy bén trong sản xuất, kinh doanh. Mặt khác do khu vực kinh tế quốc doanh vẫn được ưu tiên phát triển mạnh, cả về quy mô và số lượng nhưng hoạt động lại kém hiệu quả. Khu vực này thường thu hút phần lớn lực lượng lao động nên đã gây ra những lãng phí về vốn, lao động và tài nguyên. Một tất yếu khách quan đặt ra phải đổi mới cơ chế quản lý, đổi mới công nghệ, dây chuyền sản xuất, tiết kiệm chi phí. Dẫn đến thực trạng các doanh nghiệp đã dôi ra một lực lượng lao động khá lớn không có việc làm trong khi các thành phần kinh tế khác chưa đủ khả năng thu hút, tiếp nhận số lao động này gây ra thất nghiệp.
Giải quyết có hiệu quả vấn đề việc làm, tạo việc làm, nâng cao trách nhiệm đảm bảo đời sống cho người lao động vừa là vấn đề cấp bách, vừa có ý nghĩa chiến lược lâu dài vừa là mục tiêu xã hội hàng đầu đối với Đảng và Nhà nước ta. Đại hội Đảng lần thứ IX khẳng định: "Giải quyết việc làm là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của chính sách xã hội, là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh hóa xã hội, đáp ứng nguyện vọng và yêu cầu bức xúc của nhân dân"{1}.
Giải quyết tốt việc làm cho người lao động, sẽ giải quyết được mọi quan hệ xã hội. Thực tế cho thấy, mọi tệ nạn xã hội đều bắt nguồn từ nguyên nhân sâu sa đó là đội ngũ những người thất nghiệp.
Tổ chức Công đoàn với chức năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng cho công nhân, viên chức, lao động mà trọng tâm là giải quyết việc làm cho người lao động. Có việc làm người lao động sẽ có thu nhập, làm cơ sở cho việc thực hiện chế độ, chính sách đối với người lao động. Luật Công đoàn Việt Nam khẳng định: "Công đoàn cơ sở có trách nhiệm đôn đốc, giám sát việc thực hiện các chính sách, chế độ về lao động"[2].
Xuất thân từ giai cấp công nhân, được học tập và rèn luyện tại trường Đại học Công đoàn, với chuyên môn đào tạo Quản trị kinh doanh và Công đoàn đặc biệt quan tâm đến vấn đề giải quyết việc làm. Do vậy, em chọn đề tài: "Công đoàn với việc tham gia giải quyết việc làm cho công nhân, viên chức, lao động". Đề tài được thực hiện tại Tổng công ty xây dựng công trình Giao thông 8.
2. Mục tiêu của đề tài
- Tìm hiểu hoạt động thực tiễn của tổ chức Công đoàn.
- Đánh giá việc chỉ đạo tổ chức hoạt động của Công đoàn Tổng công ty xây dựng công trình Giao thông 8 với vấn đề giải quyết việc làm.
- Trên cơ sở lý luận và thực tế hoạt động Công đoàn Tổng công ty tìm ra những mặt mạnh, tồn tại và rút ra bài học kinh nghiệm trong việc tổ chức và chỉ đạo của Công đoàn Tổng công ty.
- Đề xuất những biện pháp để thực hiện, chức năng, nhiệm vụ của Công đoàn Tổng công ty nhằm góp phần thực hiện đổi mới tổ chức hoạt động. Đồng thời đưa ra những khuyến nghị thực hiện từng nhiệm vụ cụ thể.
3. Vấn đề nghiên cứu.
3.1. Khung lý thuyết.
Công đoàn tham gia giải quyết việc làm
Công đoàn phân phối với chuyên môn giải quyết việc làm
Công đoàn trực tiếp giúp đỡ CN-LĐ giải quyết việc làm
Đổi mới công nghệ tạo thêm việc làm
Sắp xếp lại lao động
Tổ chức lại lao động
Đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao trình độ CN-LĐ
Tổ chức các phong trào thi đua, luyện tay nghề, thi thợ giỏi
Mở rộng các loại hình dịch vụ
Lập quỹ tương trợ
Vay vốn giúp đỡ CN-LĐ phát triển kinh tế gia đình
3.2. Giả thuyết nghiên cứu
Công đoàn tham gia xây dựng phương án đổi mới công nghệ sản xuất sản phẩm tạo thêm việc làm mới cho công nhân lao động.
Công đoàn tham gia với chuyên môn tổ chức lại sản xuất.
Công đoàn tham gia với chuyên môn sắp xếp lại lao động trong doanh nghiệp.
Công đoàn tham gia với chuyên môn đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho công nhân lao động.
Công đoàn tham gia tổ chức thi đua trong lao động sản xuất, luyện tay nghề, thi thợ giỏi.
Công đoàn trực tiếp giúp đỡ công nhân lao động, tín chấp vay vốn từ quỹ quốc gia để phát triển kinh tế gia đình.
Công đoàn đại diện kí kết hợp đồng lao động, thoả ước lao động tập thể.
4. Đối tượng nghiên cứu
4.1.Đối tượng nghiên cứu :
- Công đoàn Tổng công ty Xây dựng công trình Giao thông 8.
4.2.Khách thể nghiên cứu :
- Hoạt động công đoàn Tổng công ty Xây dựng công trình Giao thông 8
- Cán bộ, công nhân viên chức, lao động Tổng công ty.
5. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian nghiên cứu: tại Tổng công ty Xây dựng công trình Giao thông 8.
- Thời gian nghiên cứu: từ năm 1998 đến 2003.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp các kết quả sản xuất kinh doanh hàng năm của Tổng công ty Xây dựng công trình Giao thông 8.
-Nghiên cứu Hoạt động của công đoàn thông qua các báo cáo tổng kết hoạt động công đoàn một số năm gần đây và khảo cứu các tài liệu thứ cấp.
- Khảo sát tình hình thực tế về sản xuất kinh doanh của Tổng công ty.
- Sử dụng phương pháp chuyên gia.
7. Kết cấu đề tài bao gồm 3 phần:
- Chương 1: Những vấn đề chung về việc làm và giải quyết việc làm.
- Chương 2: Công đoàn Tổng công ty Xây dựng công trình Giao thông 8 tham gia giải quyết việc làm cho công nhân, viên chức, lao động.
- Chương 3: Kết luận và khuyến nghị.
Trong thời gian tìm hiểu và nghiên cứu khoa luận không tránh khỏi những thiếu sót nên em rất mong sự góp ý, giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn và của các đồng chí tại Tổng công ty Xây dựng công trính Giao thông 8.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Tăng Quyết Thắng và đồng chí Vũ Chí Thọ Chủ tịch Công đoàn Tổng công ty đã nhiệt tình hướng dẫn em hoàn thành khóa luận này.
Chương 1
Những vấn đề chung về việc làm và giải quyết việc làm
1.1 Một số khái niệm
1.1.1 Việc làm
Việc làm là một khái niệm thuộc phạm trù hoạt động của con người, mọi hoạt động của con người được biểu hiện đa dạng và sinh động qua các dạng việc làm trong hình thái kinh tế xã hội. Nói đến việc làm là nói đến nơi làm việc, một đối tượng lao động, một công cụ lao động, một quá trình đào tạo cụ thể. Khi đề cập đến vấn đề việc làm thì sức lao động có vai trò quan trọng, nó là tất yếu của mọi quá trình sản xuất (cả vật chất lẫn tinh thần). Vai trò của lao động không mất đi hoặc suy giảm trong bất kỳ điều kiện công nghệ - kỹ thuật sản xuất nào mà vấn đề là diễn ra sự thay đổi vai trò của lao động thể lực và lao động trí lực. Trong đó lao động về trí lực giữ vị trí quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế, mỗi thời kỳ phát triển cũa xã hội thì khái niệm việc làm được hiểu theo nghĩa khác nhau.
Việc làm có thể định nghĩa như một tình trạng trong đó có sự trả công bằng tiền hoặc hiện vật, do có sự tham gia tích cực, có tính chất cá nhân và trực tiếp nỗ lực vào sản xuất.
Mặt khác, việc làm theo nghĩa rộng là toàn bộ các hoạt động kinh tế của một xã hội nghĩa là tất cả những gì quan hệ đến cách thức kiếm sống của con người kể cả các quan hệ xã hội và các tiêu chuẩn hành vi tạo thành khuôn khổ của quá trình kinh tế.
Hai khái niệm này chưa cụ thể các hoạt động của con người, trong quá trình lao động mà chỉ ra những vấn đề chung nhất. Do vậy, tuỳ thuộc vào đặc điểm tình hình của mỗi quốc gia, phụ thuộc vào phong tục, tập quán, luật pháp mà đưa ra khái niệm về việc làm một cách phù hợp, ở Việt Nam theo điều 13 Luật lao động cũng đưa ra khái niệm về việc làm:
Mọi hoạt động lao động tạo ra thu nhập không bị luật pháp cấm đều được gọi là việc làm.
Từ những khái niệm nêu trên cho phép ta hiểu việc làm là những công việc có ích cho con người, mang lại thu nhập và không bị pháp luật ngăn cấm. Vì vậy, nguyên tắc khi một người đang tham gia thực hiện, một hay một số công việc đều được coi là có việc làm. Tuy nhiên ở Việt Nam cho thấy rất nhiều người làm việc hoặc làm việc cả ngày, nhưng có năng suất lao động thấp dẫn đến thu nhập cũng rất thấp nhưng họ vẫn phải chấp nhận và không có sự lựa chọn nào khác để đảm bảo cho sự tồn tại của bản thân và gia đình, ở đây rõ ràng bộc lộ sự không hợp lý trong khái niệm người có việc làm.
Do đó, để đánh giá khái quát hơn khái niệm "có việc làm", cần phải được bổ sung với ý nghĩa đầy đủ của nó, trên hai khía cạnh chủ yếu đó là mức độ sử dụng thời gian lao động, mức năng suất và thu nhập. Một việc làm đầy đủ đòi hỏi người làm công việc đó có thể sử dụng đầy đủ thời gian lao động theo chế độ (ở Việt Nam quy định là 8 giờ/ngày). Mặt khác, làm công việc đó phải mang lại một khoản thu nhập không thấp hơn mức tiền lương tối thiểu là 290.000đ/tháng. Việc lượng hoá người có việc làm theo khái niệm này sẽ cho chúng ta một cách nhìn nhận trung thực hơn về mức độ sử dụng lao động xã hội và xác định được quy mô việc làm cần phải tạo thêm cho lao động xã hội.
1.1.2. Tạo việc làm
Tạo việc làm theo nghĩa rộng là những vấn đề liên quan đến việc phát triển và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực, quá trình đó diễn ra từ việc giáo dục, đào tạo và phổ cập nghề nghiệp, chuẩn bị cho người lao động bước vào cuộc đời lao động đến việc tự do lao động và hưởng thụ xứng đáng với giá trị lao động mà mình đã tạo ra.
Tạo việc làm theo nghĩa hẹp chủ yếu hướng vào đối tượng thất nghiệp, chưa có việc làm hoặc thiếu việc làm, nhằm tạo thêm chỗ làm việc cho người lao động, duy trì tỷ lệ thất nghiệp ở mức cao nhất.
Tạo việc làm đầy đủ cho người lao động không những tạo điều kiện để người lao động tăng thu nhập, nâng cao đời sống mà còn làm giảm các tệ nạn xã hội làm cho xã hội càng văn minh hơn. Tạo việc làm đầy đủ cho người lao động còn có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với người lao động ở chỗ tạo cơ hội cho họ thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình trong đó có quyền cơ bản nhất là quyền được làm việc, nhằm nuôi sống bản thân và gia đình góp phần xây dựng đất nước.
1.1.3. Thất nghiệp
Thất nghiệp là một hiện tượng kinh tế - xã hội tồn tại trong nhiều chế độ xã hội. Thất nghiệp theo đúng nghĩa của từ là mất việc làm hay là sự tách rời sức lao động khỏi tư liệu sản xuất.
Thất nghiệp là những hiện tượng gồm những người mất thu nhập do không có khả năng tìm được việc làm, trong khi họ còn trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, muốn làm việc và đã đăng ký ở cơ quan môi giới về lao động nhưng chưa được giải quyết.
1.1.4. Giải quyết việc làm
Thực chất của tạo việc làm là trạng thái phù hợp giữa hai yếu tố sức lao động và tư liệu sản xuất, cả về số lượng và chất lượng, đó là hai điều kiện cần. Để trở thành hiện thực, nên có môi trường thuận lợi cho việc kết hợp hai yếu tố đó. Do vậy tạo việc làm là: Tạo ra số lượng và chất lượng tư liệu sản xuất (Vốn đầu tư tiến bộ khoa học kỹ thuật áp dụng vào sản xuất, khả năng quản lý, sử dụng), tạo ra số lượng và chất lượng sức lao động (Quy mô dân số, lao động, giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn lực con người). Hình thành môi trường thuận lợi có sự kết hợp các yếu tố sức lao động và tư liệu sản xuất, là sự kết hợp giữa hệ thống chính sách phát triển kinh tế - xã hội, chính sách khuyến khích thu hút người lao động, chính sách bảo hộ sản xuất, chính sách thất nghiệp, chính sách khuyến khích đầu tư…
Hiện nay ở nước ta công nghiệp hoá, hiện đại hoá vừa là mục tiêu, vừa là điều kiện để tăng trưởng và phát triển kinh tế vững chắc, đồng thời giải quyết những vấn đề bức xúc của xã hội, trong đó có vấn đề giải quyết việc làm và cải thiện đời sống nhân dân lao động. Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX đã xác định “Sắp tới phải bằng nhiều biện pháp: các thành phần kinh tế mở mang các ngành nghề; đẩy mạnh phong trào lập nghiệp của thanh niên; đẩy mạnh xuất khẩu lao động... nhằm tạo ra nhiều việc làm mới, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và tăng quỹ thời gian lao động được sử dụng ở nông nghiệp”[3].
1.2. Tình hình việc làm ở Việt Nam hiện nay
Vấn đề việc làm cho lao động xã hội là một trong những vấn đề có tính toàn cầu, là mối quan tâm của nhiều quốc gia. Mở rộng việc tạo thêm chỗ làm việc cho lao động xã hội làm là một trong những nội dung cơ bản nhất của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội được toàn thế giới quan tâm và cam kết thực hiện. Trong cơ chế thị trường người lao động có quyền tự do lao động, tự tìm và tạo việc làm cho người khác trong khuôn khổ pháp luật, không bị phân biệt đối xử, cơ chế bao cấp, việc ỷ lại Nhà nước để có việc làm, có biên chế Nhà nước, đang dần dần thay đổi cho thị trường lao động phát triển.
Tình hình thiếu việc ở nước ta cũng rất gay gắt, gõ cửa từng gia đình và trở thành vấn đề xã hội nóng bỏng, đòi hỏi Đảng và Nhà nước có những chủ trương giải quyết việc làm cho người lao động trong tình hình mới và xây dựng chiến lược an toàn việc làm. Khắc phục triệt để những nguyên nhân tiêu cực do nền kinh tế thị trường tạo ra cho xã hội Việt Nam.
Trong những năm gần đây nhờ thực hiện đường lối đổi mới nền kinh tế nước ta đã đạt tốc độ tăng trưởng cao và tương đối ổn định. Nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt khoảng 9 - 10%; sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp khoảng 4,5 - 5,2%, công nghiệp bình quân hàng năm 14 - 15%, dịch vụ bình quân hàng năm 12 - 13%, xuất khẩu khoảng 28%. Tích luỹ nội bộ nền kinh tế ở mức cao 20% GDP. Nhờ đó mà đầu tư cho nền kinh tế tăng đáng kể, tổng số vốn đầu tư cho xã hội năm 2003 khoảng 40 tỷ USD (chiếm khoảng 30% GDP).
Đến nay số lao động làm việc trong khu vực Doanh nghệp có vốn đầu tư nước ngoài là 40 vạn lao động, lao động trong công nghiệp và xây dựng khoảng 3,75 triệu người chiếm 10,5% lao động hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ là 7 triệu người chiếm 19% lực lượng lao động, còn lại là lao động trong nông - lâm - ngư nghiệp chiếm trên 70%.
Cơ cấu lao dộng đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng mạnh vào các ngành công nghiệp và dịch vụ, có xu hướng giảm nhẹ trong khu vực nông nghiệp, đáp ứng với nhu cầu về tăng trưởng kinh tế và sử dụng tốt hơn lao động xã hội. Nhờ đó 3 năm trở lại đây đã tăng thêm được 2,95% bình quân mỗi năm chỗ làm việc mới. Tương đương với số lao động tăng thêm là 1,2 triệu người trong tổng số 38 triệu lao động toàn quốc, trên 9 triệu người được giải quyết việc làm. Riêng các năm 2002 - 2003 đã giải quyết được việc làm mới hàng năm cho khoảng 1,2 - 1,3 triệu lao động đáp ứng được nhu cầu tăng thêm của lực lượng lao động.
Đồng thời mở mang các làng nghề truyền thống, có tác dụng tích cực giải quyết việc làm cho lao động tự do, tạo ra động lực mới để phát triển sản xuất, mở mang việc làm thúc đẩy lao động sáng tạo, có năng suất cao, có trình độ và được hưởng thụ giá trị lao động xứng đáng với công sức họ bỏ ra. Do vậy, đã mở ra khả năng to lớn trong việc giải quyết việc làm cho lao động xã hội. Bên cạnh những thành công của chính sách giải quyết việc làm, hiện nay nước ta vấn là nước có tỷ lệ thất nghiệp cao. Theo số liệu (thực trạng lao động - việc làm năm 2003). Số người thất nghiệp ở khu vực: đồng bằng sông hồng là 9,34%; khu vực Đông bắc là 8,72%; vùng Tây Bắc là 6,58%; vùng Nam Bộ là 6,52%; đồng bằng sông Cửu Long là 6,53 % đây là con số đáng lo ngại đối với nền kinh tế nước ta.
* Nguyên nhân dẫn đến thiếu việc làm ở Việt Nam
- Dân số trong độ tuổi lao động vẫn có xu hướng ngày càng tăng theo dự báo của Tổng cục thống kê thì trong năm 2000 chiếm khoảng 55% và đến 2005 chiếm 59,1% đến năm 2010 là 60,7% dân số cả nước, tốc độ tăng nguồn lao động còn ở mức cao. Đến năm 2003 bình quân mỗi năm nguồn lao động tăng khoảng 2,95% làm cho sức ép về việc làm càng trở nên gay gắt. Đặc biệt là thừa rất nhiều lao động giản đơn chưa qua đào tạo và thiếu nghiêm trọng lao động có trình độ cao. Nếu cứ đà tăng dân số, tăng nguồn lao động và GDP hiện nay thì dến hết năm 2005 Việt Nam vẫn dôi dư một lực lượng lao động tương đối cao.
- Do sự mất cân đối giữa cơ cấu kinh tế và cơ cấu về lao động: đây là thử thách và mâu thuẫn lớn nhất về việc làm ở nước ta. Đó là chất lượng nguồn lao động thấp, tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2003 chỉ chiếm 17.8% phần lớn làm việc trong các cơ quan Nhà nước. Riêng nông thôn chỉ có 10% lao động qua đào tạo trong khi đó đào tạo nghề chỉ có 0,44% cơ cấu đào tạo giữa đại học, cao đẳng, trung học và công nhân kỹ thuật bất hợp lý. Hiện nay tỷ lệ này là (1- 1; 6 - 3,6) và theo tiêu chuẩn chung là (1 - 4 - 10). Đây là sự bất hợp lý trong quá trình thực hiện dào tạo mà các cơ quan Nhà nước cần có sự điều chỉnh hợp lý, cần phải đào tạo đúng mục đích và đúng yêu cầu xã hội. Nếu đào tạo không gắn với yêu cầu sản xuất và thị trường sức lao động dẫn đến hàm lượng chất xám trong sản phẩm thấp làm giảm sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước và quốc tế. Chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra rất chậm chạp. Tỷ trọng GDP các ngành nông nghiệp, công nghiệp và xây dựng - dịch vụ, đặc biệt một số ngành dịch vụ thương mại chưa được coi trọng làm hạn chế rất lớn đến vấn để giải quyết việc làm trong nền kinh tế thị trường và hoà nhập với quốc tế trong xu hướng toàn cầu hoá.
- Sự phát triển không đồng đều giữa các vùng: đặc biệt là giữa nông thôn và thành thị, các khu công nghiệp dẫn đến tình trạng di dân tự phát từ khu vực nông thôn lên thành thị ngày càng lớn với tốc độ cao. Số lao động này vào thành phố chủ yếu là người có thu nhập thấp, đại đa số là lao động làm những công việc phổ thông gây lên tình trạng quá tải cho đô thị. Đặc biệt gây hiện tượng rối loạn xã hội và các tệ nạn gia tăng.
1.3. ý nghĩa của việc giải quyết việc làm cho người lao động
1.3.1. Về kinh tế
Giải quyết việc làm cho người lao động tức là sử dụng được tối đa tiềm năng lao động như nâng cao về trình độ khoa học - kỹ thuật, tăng thu nhập cho người lao động. Từ đó tạo ra tiềm năng cho phát triển sản xuất, tăng quy mô và tích luỹ sản xuất, từng bước đổi mới công nghệ và tăng trưởng kinh tế làm tiền đề cho việc thực hiện công bằng xã hội. Người lao động mất việc làm không những ảnh hưởng đến nền kinh tế mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của họ. Người lao động mất việc làm không có thu nhập, sống nhờ vào thu nhập của người khác trong gia đình, ảnh hưởng đến đời sống của cả gia đình, gây khó khăn về kinh tế. Đây là nguyên nhân và nguồn gốc của những phức tạp, tệ nạn xã hội mà hàng năm Nhà nước phải mất khá nhiều kinh phí để chi cho.
1.3.2. Về xã hội
Giải quyết việc làm là trực tiếp tạo ra thu nhập để đảm bảo và nâng cao đời sống cho người lao động, là cơ sở để thực hiện các chính sách xã hội như: chính sách tiền lương, phúc lợi và các chính sách xã hội khác, góp phần làm giảm tiêu cực, lành mạnh hoá xã hội, tiến tới xây dựng một xã hội văn minh, tiến bộ. Thực tế thiếu việc làm còn gây lên những hậu quả nặng nề khi xét các nguyên nhân về tệ nạn xã hội, người ta thấy rằng những người lao động khi mất việc làm tham gia đáng kể vào các tệ nạn xã hội như ma tuý, trộm cắp, mại dâm. Do vậy đó cũng là nguyên nhân gây nhiều khó khăn phức tạp cho quản lý xã hội, làm đảo lộn nếp sống lành mạnh và ảnh hưởng xấu đến thuần phong mỹ tục của dân tộc, kìm hãm sự phát triển của xã hội.
1.3.3. Về chính trị
Kinh tế và chính trị là hai vấn đề luôn gắn bó, có quan hệ mật thiết với nhau. Bởi vì khi người lao động có việc làm sẽ tạo ra thu nhập phục vụ họ và tạo thêm thu nhập cho xã hội. Từ đó người lao động thực hiện nghiêm chỉnh đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, giữ vững ổn định chính trị.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên thì việc làm, giải quyết việc làm không chỉ là vấn đề bức xúc của một quốc gia, một khu vực mà nó là bức xúc có tính toàn cầu. ở Việt Nam việc giải quyết việc làm có ý nghĩa sống còn trong chiến lược phát triển kinh tế đất nước. Giải quyết việc làm đồng nghĩa với việc đẩy lùi các tệ nạn xã hội, tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, đảm bảo đời sống xã hội tạo được nguồn thu cho ngân sách và tích luỹ xã hội ngày càng cao. Từ đó phát huy được nguồn nhân lực con người mở rộng đầu tư cho sản xuất. Mặt khác tạo được tâm lý yên tâm lao động sản xuất cho mọi người phấn đấu nâng cao hiệu quả sản xuất.
1.4. Quan điểm, mục tiêu, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và trách nhiệm c