Ngày 02/8/1985, huyện Khánh Vĩnh được tái thành lập trên cơ sở tách ra từ huyện Diên Khánh. Khánh Vĩnh là căn cứ cách mạng của tỉnh Khánh Hòa và khu vực, được Đảng và Nhà nước phong tặng Danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho huyện Khánh Vĩnh và 05 xã Khánh Nam, Khánh Trung, Khánh Hiệp, Liên Sang, Khánh Thượng. Mặc dù gặp nhiều khó khăn do cơ sở hạ tầng có điểm xuất phát thấp nhưng Đảng bộ huyện đã lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, xác định cơ cấu kinh tế là Nông nghiệp – Công nghiệp và Dịch vụ (những năm trước là Lâm – Nông – Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp – Thương mại và Dịch vụ), đồng thời đề ra chủ trương đẩy nhanh phát triển kinh tế-xã hội, định canh định cư, xóa đói giảm nghèo, giữ vững quốc phòng an ninh là những nhiệm vụ trọng tâm phải thực hiện thắng lợi.
Từ năm 2008 Phòng Lao động – TB&XH huyện Khánh Vĩnh được tách ra từ Phòng Nội Vụ, kèm theo Quyết định 189/QĐ-UBND Quyết định về việc ban hành Qui chế làm việc của phòng Lao động – Thương binmh và Xã hội huyện Khánh Vĩnh.
63 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1876 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Công tác xã hội huyện Khánh Vĩnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Công tác xã hội là một ngành, nghề mới tại Việt Nam. Do vậy, nhận thức của mọi người về Công tác xã hội vẫn còn rất nhiều hạn chế. Thứ nhất, nhiều người đồng nhất và nhầm lẫn CTXH với làm từ thiện, ban ơn, ban phát hoặc nhầm lẫn CTXH với các hoạt động xã hội của các tổ chức, đoàn thể...
Thứ hai, vai trò, vị thế cũng như tính chất chuyên nghiệp của CTXH ở Việt Nam chưa được khẳng định. Do vậy, để phát triển CTXH ở Việt Nam cần có sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, có sự liên kết giữa các cơ sở đào tạo và cơ sở thực hành CTXH. Bởi vì, CTXH là một hệ thống liên kết các giá trị, lý thuyết và thực hành. CTXH là trung tâm, tổng hợp, kết nối và trực tiếp tham gia vào đảm bảo ASXH.
Giá trị của CTXH dựa trên cơ sở tôn trọng quyền lợi, sự bình đẳng, giá trị của mỗi cá nhân, nhóm và cộng đồng. Giá trị được thể hiện trong các nguyên tắc hoạt động cũng như các quy điều đạo đức của CTXH.
Qua đây tôi xin trân thành cảm ơn các thầy cô giáo trường Đại học Lao động & Xã hội, các thầy cô giáo Khoa Công tác xã hội và đặc biệt hai cô giáo: Tiến sỹ Bùi Thị Xuân Mai và Thạc sỹ Đặng Thị Phương Lan đã quan tâm, hướng dẫn tôi hoàn thành bài luận này.
Vì chưa có kinh nghiệm trong việc viết báo cáo, cho nên không tránh khỏi những hạn chế, thiếu xót mong quý thầy, cô thông cảm.
Trân trọng cảm ơn!
PHẦN I
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ ĐỊA BÀN HUYỆN KHÁNH VĨNH
I. Khái quát tình hình chung ở huyện Khánh Vĩnh:
1. Lịch sử hình thành và phát triển huyện Khánh Vĩnh:
Ngày 02/8/1985, huyện Khánh Vĩnh được tái thành lập trên cơ sở tách ra từ huyện Diên Khánh. Khánh Vĩnh là căn cứ cách mạng của tỉnh Khánh Hòa và khu vực, được Đảng và Nhà nước phong tặng Danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho huyện Khánh Vĩnh và 05 xã Khánh Nam, Khánh Trung, Khánh Hiệp, Liên Sang, Khánh Thượng. Mặc dù gặp nhiều khó khăn do cơ sở hạ tầng có điểm xuất phát thấp nhưng Đảng bộ huyện đã lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, xác định cơ cấu kinh tế là Nông nghiệp – Công nghiệp và Dịch vụ (những năm trước là Lâm – Nông – Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp – Thương mại và Dịch vụ), đồng thời đề ra chủ trương đẩy nhanh phát triển kinh tế-xã hội, định canh định cư, xóa đói giảm nghèo, giữ vững quốc phòng an ninh là những nhiệm vụ trọng tâm phải thực hiện thắng lợi.
Từ năm 2008 Phòng Lao động – TB&XH huyện Khánh Vĩnh được tách ra từ Phòng Nội Vụ, kèm theo Quyết định 189/QĐ-UBND Quyết định về việc ban hành Qui chế làm việc của phòng Lao động – Thương binmh và Xã hội huyện Khánh Vĩnh.
Lịch sử ra đời và hình thành Phòng Lao động – TBXH huyện Khánh Vĩnh
Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội được tách ra từ Phòng Nội vụ - Lao động Thương binh và Xã hội đi vào hoạt động từ ngày 15 tháng 04 năm 2008. Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân huyện, tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân huyện thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về các lĩnh vực như: lao động; việc làm; dạy nghề; tiền lương; tiền công; bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp; an toàn lao động; người có công; bảo trợ xã hội; bảo vệ và chăm sóc trẻ em; phòng, chống tệ nạn xã hội; bình đẳng giới; xoá đói giảm nghèo.
2. Đặc điểm tình hình huyện Khánh Vĩnh:
Khánh Vĩnh là huyện miền núi của tỉnh, có 13 xã và 01 thị trấn, dân số 33.308 người, trong đó 73,5% là người dân tộc thiểu số, gồm trên 10 dân tộc, chủ yếu là Raglai, T’Ring, Êđê, Tày, Kinh. Diện tích tự nhiên 1.167,14km2, trong đó đất lâm nghiệp là 84.311ha, đất sản xuất nông nghiệp là 11.234ha. Trước năm 2005, huyện có 08 xã khu vực 3 đặc biệt khó khăn và đến năm 2009 còn 01 xã và 04 thôn là khu vực 3 đặc biệt khó khăn thuộc chương trình 135.
Khánh Vĩnh là một trong hai huyện miền núi của tỉnh Khánh Hòa, cách Thành phố Nha Trang 35 Km về phía Tây, phía Bắc giáp huyện Diên Khánh, phía tây giáp Đắclắc, Lâm đồng. Diện tích toàn huyện là 1.165 km2, dân số 33.293 người, trong đó nữ chiếm 16.331.
3. Điều kiện tự nhiên:
Địa hình rừng núi, đồi dốc chiếm trên 80% diện tích. Hệ thống sông suối chằng chịt, nên thường sảy ra lũ quét cục bộ hoặc bị chia cắt các khu vực trong mùa mưa lũ.
Khí hậu chia làm 2 mùa rõ rệt, mùa mưa tập trung vào tháng 9 đến tháng 12, mùa khô từ tháng 1 đến tháng 8, điều kiện địa hình thường xuất hiện lốc xoáy, lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 1.600 đến 2.000 mm.
4. Điều kiện kinh tế:
4.1.Về Nông nghiệp: Nổi bật nhất trong sản xuất nông nghiệp là đầu tư phát triển chương trình lúa nước bằng việc khai thác triệt để thuận lợi về địa hình để đầu tư xây dựng kiên cố các công trình thủy lợi vừa và nhỏ, khai hoang đồng ruộng, hỗ trợ giống cây trồng, vật tư nông nghiệp, tập huấn kỹ thuật, áp dụng chính sách hỗ trợ kinh phí cho đồng bào dân tộc tự khai hoang phát triển diện tích lúa nước. Từ sản xuất lúa nước nhỏ lẻ, manh mún, đến năm 2010 toàn huyện đã có diện tích canh tác lúa nước là 585ha (trong đó bà con dân tộc tự khai hoang là 213ha), diện tích gieo trồng lúa nước đạt 1.190ha, tổng sản lượng lương thực cây có hạt (bắp, thóc) đạt 5.630 tấn, năng suất tăng từ 05-10 tạ/ha so với những năm trước. Cùng với cây lúa nước có cây bắp, mỳ, mía và cây đào đã góp phần ổn định đời sống, xóa đói giảm nghèo cho nhân dân. Toàn huyện đã hoàn thành công tác qui hoạch đất, điều tra nông hóa thổ nhưỡng phục vụ sản xuất nông-lâm nghiệp. Đã hoàn thành cơ bản công tác giao đất nông nghiệp, lâm nghiệp cho hộ gia đình.
4.2. Về lâm nghiệp: Đã triển khai thực hiện tốt chương trình trồng rừng tập trung và từ năm 2003 đến nay đã tổ chức thực hiện chương trình hỗ trợ lập vườn rừng kinh tế hộ cho 4.553 hộ đồng bào dân tộc thiểu số trồng mới 2.228ha vườn rừng, 670ha vườn nhà. Mô hình vườn rừng đã góp phần xóa đói giảm nghèo và tích lũy vốn cho hộ đồng bào dân tộc. Tỉ lệ che phủ rừng là 75%. Hợp đồng giao khoán quản lý bảo vệ rừng cho hộ dân, tạo điều kiện cho người dân tăng thu nhập và từng bước xã hội hóa công tác quản lý bảo vệ rừng. Phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm Luật bảo vệ rừng, điểm nóng về phá rừng không xảy ra trên địa bàn huyện.
4.3. Về sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và điện: giá trị công nghiệp-TTCN đạt tỉ lệ tăng trưởng hàng năm 10%, đầu năm 2010 giá trị đạt 43,6 tỉ đồng. Hoàn thành chương trình phủ điện nông thôn vào năm 1999 và tiếp tục đầu tư phủ điện vùng lõm, hỗ trợ đường dây, Công tơ điện cho hộ đồng bào dân tộc, tỉ lệ hộ dùng điện hiện nay đạt 98%, một số hộ bà con dân tộc đã biết sử dụng điện vào sản xuất.
4.4. Về giao thông: đã tập trung đầu tư hệ thống giao thông nông thôn, cầu treo, cầu tràn kiên cố qua các sông lớn, đường vào khu sản xuất, nâng cấp hệ thống giao thông nội thị ở thị trấn và các trung tâm cụm xã. Nhựa hóa 100% đường giao thông từ trung tâm huyện về trung tâm các xã, đầu tư xây dựng hệ thống đường liên thôn, nội đồng, cầu treo đáp ứng được nhu cầu lưu thông hàng hóa, đi lại của nhân dân. Huyện Khánh Vĩnh đã có đường giao thông nối liền với huyện Lạc Dương (tỉnh Lâm Đồng) bằng đường Khánh Lê – Lâm Đồng được đầu tư hoàn thành năm 2006, nối liền giao thông với huyện Ninh Hòa (tỉnh Khánh Hòa) bằng đường Tỉnh lộ 8 nối dài được đầu tư hoàn thành năm 2002.
4.5. Về nước sạch sinh hoạt, xây dựng cơ sở hạ tầng: Những năm trước đây, tỉ lệ hộ sử dụng nước sạch chỉ đạt dưới 30%, đến nay, nhờ làm tốt công tác đầu tư chương trình nước sạch bằng Nhà máy nước Thị trấn, các hệ thống nước tự chảy, giếng đào, giếng khoan nên đã nâng tỉ lệ này lên 75%. 14/14 xã – thị trấn đã được đầu tư xây dựng trụ sở làm việc kiên cố, nhà sinh hoạt cộng đồng ở thôn, xây dựng nhà công vụ cho cán bộ y tế và giáo viên, xây dựng 02 Trung tâm cụm xã ở cánh Tây và cánh Bắc của huyện, từng bước đầu tư kiên cố cơ sở hạ tầng ngành giáo dục, Y tế, công trình phúc lợi công cộng.
4.6. Về ngân sách, thương mại dịch vụ: bình quân hàng năm tăng thu ngân sách 14% kế hoạch đề ra, tổng thu ngân sách năm 2008 đạt 3.500 triệu đồng, tổng chi ngân sách đạt 109.256 triệu đồng. Tổng sản phẩm GDP theo giá hiện hành của các ngành kinh tế năm 2008 đạt 235.743 triệu đồng, trong đó: ngành nông-lâm nghiệp-thủy sản đạt 83.600 triệu đồng, chiếm tỉ trọng 35,52% trong cơ cấu kinh tế; ngành công nghiệp-xây dựng đạt 51.821 triệu đồng, chiếm tỉ trọng 22% trong cơ cấu kinh tế và ngành Thương mại-dịch vụ đạt 100.008 triệu đồng, chiếm tỉ trọng 42,47% trong cơ cấu kinh tế. GDP bình quân đầu người năm 2008 đạt 7.135.000 đồng/ người/ năm. Công tác cho vay phục vụ nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh, mua sắm hàng tiêu dùng, vay vốn hộ nghèo, giải quyết việc làm đáp ứng được nhu cầu về vốn vay cho nhân dân.
5. Lĩnh vực văn hóa – xã hội:
5.1. Về y tế: mạng lưới y tế gồm 14 Trạm Y tế xã, 02 Phân viện đa khoa khu vực và 01 Bệnh viện đa khoa trung tâm. Các Trạm Y tế đều có Y sĩ, 02 phân viện Đa khoa và 07/14 Trạm Y tế đã có Bác sĩ phụ trách. Mặc dù là điểm nóng của cả nước về ký sinh trùng sốt rét nhưng dịch bệnh sốt rét không xảy ra trên địa bàn do làm tốt công tác phòng chống dịch bệnh sốt rét. Các chương trình y tế quốc gia được triển khai hiệu quả.
5.2. Về giáo dục: Hệ thống trường lớp đã được ngói hóa 100%. Số lượng học sinh ra lớp, học sinh chuyên cần tăng sau mỗi năm, chất lượng dạy và học mỗi năm chuyển biến theo chiều hướng tích cực. Áp dụng chính sách hỗ trợ học bổng cho học sinh đồng bào dân tộc ở các cấp học, tạo điều kiện cho các em ổn định việc học hành, nâng cao chất lượng học tập. Huyện Khánh Vĩnh đã được công nhận chuẩn quốc gia về Xóa mù chữ - Phổ cập GDTH vào năm 2000 và đạt chuẩn quốc gia về phổ cập Trung học cơ sở vào năm 2005, đang phấn đấu đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục bậc Trung học vào năm 2010.
5.3. Về văn hóa thông tin – thể thao: đã phát động xây dựng được 45 Làng – Tổ dân phố văn hóa. Các Lễ hội truyền thống dân tộc như Lễ hội Già Làng, Dạ hội cồng chiêng, Lễ hội Đền ơn đáp nghĩa và các hình thức giao lưu văn hóa nghệ thuật dân tộc thiểu số các huyện, tỉnh bạn được tổ chức trang trọng. Toàn huyện đã hoàn thành chương trình phủ sóng phát thanh và truyền hình, đầu tư xây dựng hoàn chỉnh hệ thống Trạm truyền thanh cơ sở và Đài Truyền thanh – tiếp hình huyện phục vụ nhiệm vụ chính trị và đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa cho hơn 95% dân số.
5.4. Về công tác chăm sóc đối tượng chính sách: đã hoàn thành công tác khen thưởng người tham gia kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng, liệt sĩ, thương binh. Toàn huyện có 2.110 đối tượng được tặng thưởng Huân Huy chương kháng chiến, 172 Liệt sĩ, 03 Bà mẹ Việt Nam anh hùng (đến nay đã từ trần). Tổ chức tốt các hoạt động đền ơn đáp nghĩa cho đối tượng chính sách.
5.5. Về công tác định canh định cư – xóa đói giảm nghèo: đã tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn miền núi phục vụ định canh định cư cho đồng bào dân tộc, nhất là các xã vùng sâu, vùng xa và các vùng đưa dân về tái định canh định cư. Mô hình chủ yếu là xây dựng cơ sở hạ tầng khu tái định cư, di dãn dân nội vùng, xây dựng nhà định canh định cư cho hộ nghèo, đối tượng chính sách, khai hoang xây dựng đồng ruộng để giao cho dân sản xuất. Đã di dãn 128 hộ dân từ các xã có ít đất sản xuất, mật độ dân số cao về ổn định sinh sống tại các xã có đủ điều kiện về đất sản xuất, cơ sở hạ tầng. Từ năm 2001 đến năm 2010 đã đầu tư xây dựng 4.176 nhà hỗ trợ định canh định cư cho đối tượng chính sách và hộ nghèo khó khăn về nhà ở. Toàn huyện không có hộ du canh du cư. Tỉ lệ hộ nghèo những năm đầu mới thành lập huyện là 70% (theo chuẩn cũ) đã giảm xuống còn 24,75% theo chuẩn mới vào cuối năm 2010.
6. Lĩnh vực Nội chính:
Đẩy mạnh cải cách hành chính và đã đạt được những kết quả nhất định, sắp xếp bộ máy hành chính theo hướng gọn, nhẹ, bảo đảm hiệu quả công tác. Thực hiện cơ chế “Một cửa” ở cấp huyện và cấp xã để giải quyết nhu cầu giao dịch của người dân với bộ máy công quyền. Có 100% cán bộ lãnh đạo phòng ban và hơn 80% cán bộ chủ chốt ở cơ sở có trình độ trung cấp chính trị trở lên. Nhận thức pháp luật của người dân chuyển biến tích cực, phần lớn các vụ việc tranh chấp được hòa giải thành ở cơ sở, đơn thư khiếu nại tố cáo giảm và được tổ chức giải quyết 100% đơn thư.
Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc được phát động sâu rộng trong cộng đồng dân cư. Vấn đề tôn giáo, dân tộc được ổn định, mâu thuẫn dân tộc không xảy ra, đồng bào có đạo sống tốt đời đẹp đạo. Trên địa bàn huyện không có hiện tượng Fulro, Tin lành Đềga. Các tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm không xảy ra, các tập tục lạc hậu, mê tín dị đoan, cờ bạc từng bước được đẩy lùi. Công tác trực chiến sẵn sàng chiến đấu được duy trì chặt chẽ, an ninh chính trị - TTATXH trên địa bàn huyện được giữ vững ổn định.
7. Về công tác xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể:
Toàn huyện có 843 Đảng viên, 36 Chi-Đảng bộ sơ sở. Đảng bộ huyện luôn tự củng cố và hoàn thiện mình qua công tác đấu tranh phê bình và tự phê trên tinh thần thẳng thắn, đoàn kết, xây dựng. Ban Thường vụ Huyện ủy qua các nhiệm kỳ đã chú trọng công tác bồi dưỡng, trang bị kiến thức về lý luận chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng cho cán bộ Đảng viên, thực hiện chặt chẽ công tác xem xét, giới thiệu, đề bạt cán bộ Đảng viên ưu tú vào giữ các vị trí lãnh đạo trong hệ thống chính trị, đồng thời tăng cường chỉ đạo công tác kiểm tra Đảng, làm tốt công tác giáo dục, chấn chỉnh kịp thời những sai phạm, thiếu sót của Đảng viên và cơ sở Đảng. Đảng bộ huyện nhiều năm liên tục đạt danh hiệu Trong sạch vững mạnh. Mặt trận và các đoàn thể đã làm tốt công tác vận động quần chúng thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, vận động nhân dân chú trọng tình đoàn kết các dân tộc anh em, thực hiện tốt công tác tôn giáo, tham gia phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình, thực hiện Qui chế dân chủ ở cơ sở, tự vươn lên xóa đói giảm nghèo, góp phần cùng chính quyền thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra.
II. Nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND&UBND huyện Khánh Vĩnh:
Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cấp mình và xuất
phát từ lợi ích chung của đất nước, của nhân dân địa phương, HĐND:
Quyết định những chủ trương và biện pháp quan trọng để phát huy tiềm
năng của địa phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước. Khi quyết định những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Hội đồng nhân dân ra nghị quyết; nhưng nghị quyết về các vấn đề mà pháp luật quy định thuộc quyền phê chuẩn của cấp trên thì trước khi thi hành phải được cấp trên phê chuẩn;
Giám sát hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát việc thực hiện các Nghi quyết về các lĩnh vực được quy định các điều 12, 13, 14, 15, 16, 17, và 18 của Luật Hội đồng nhân dân; giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa phương.
2. Trong lĩnh vực kinh tế, HĐND quyết định:
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; chủ trương, biện pháp nhằm phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế ở địa phương, đảm bảo quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh của pháp luật, dự toán và phê chuẩn quyết ngân sách của địa phương;
Chủ trương, biện pháp quản lý, sử dụng đất đai, rừng, núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên ở địa phương theo quy định của pháp luật;
Biện pháp thực hiện chính sách tiết kiệm trong hoạt động quản lý Nhà nước, trong sản xuất kinh doanh và tiêu dùng, chống tham nhũng, chống buôn lậu.
3. Trong lĩnh vực văn hoá, xã hội và đời sống, HĐND quyết định:
Chủ trương, biện pháp phát triển sự nghiệp giáo dục, văn hoá, văn nghệ, thể thao, phát thanh, truyền hình, giáo dục thanh niên, bảo vệ, chăm sóc, giáo dục thiếu niên, nhi đồng, xây dựng nếp sống văn minh, giáo dục truyền thống đạo đức tốt đẹp, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, chống các tệ nạn xã hội và những biểu hiện không lành mạnh trong đời sống xã hội ở địa phương;
Chủ trương, biện pháp giải quyết việc làm và cải thiện điều kiện làm việc , sinh hoạt của người lao động, cải thiện đời sống nhân dân ở địa phương.
Chủ trương, biện pháp bảo vệ sức khoẻ nhân dân, bảo vệ, chăm sóc người già, bà mẹ, trẻ em, thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình;
Chủ trương, biện pháp thực hiện chính sách ưu đãi, chăm sóc và giúp đỡ thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ, những người và gia đình có công với nước, thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, cứu tế xã hội.
4. Trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và môi trường, HĐND quyết định:
Chủ trương, biện pháp nhằm khuyến khích việc nghiên cứu, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ phục vụ sản xuất và đời sống ở địa phương.
Chủ trương, biện pháp bảo vệ và cải thiện môi trường ở địa phương theo quy định của pháp luật;
Biện pháp thực hiện các quy định của pháp luật về tiêu chuẩn đo lường chất lượng sản phẩm, ngăn chặn việc sản xuất và lưu hành hàng giả tại địa phương, bảo vệ lợi ích người tiêu dùng.
5. Trong lĩnh vực quốc phòng an ninh, trật tự, an toàn xã hội, HĐND quyết định:
Biện pháp thực hiện nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang và quốc phòng toàn dân, đảm bảo thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, thực hiện nhiệm vụ hậu cần tại chỗ, thực hiện nhiệm vụ động viên, chính sách hậu phương quân đội và chính sách đối với các lực lượng vũ trang nhân dân ở địa phương;
Biện pháp thực hiện nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác ở địa phương.
6. Trong việc thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo, HĐND quyết định:
Biện pháp bảo đảm thực hiện chính sách dân tộc, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần, nâng cao dân trí của đồng bào các dân tộc, bảo đảm thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc, giữ gìn, tăng cường khối đoàn kết và tương trợ giữa các dân tộc ở địa phương;
Biện pháp bảo đảm thực hiện chính sách tôn giáo, quyền bình đẳng giữa các tôn giáo trước pháp luật, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân ở địa phương theo quy định của pháp luật.
7. Trong lĩnh vực thi hành pháp luật, HĐND quyết định:
Biện pháp bảo đảm việc thi hành Hiến pháp, luật và các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên trong cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và đối với công dân ở địa phương.
Biện pháp bảo hộ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự, nhân phẩm, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân;
Biện pháp bảo vệ tài sản, lợi ích của Nhà nước, bảo hộ tài sản của tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội ở địa phương;
Biện pháp bảo đảm việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nhị của công dân theo quy định của pháp luật.
8. Trong lĩnh vực xây dựng chính quyền địa phương và quản lý địa giới hành chính, HĐND:
Bầu, miễn nhiêm, bài nhiệm Chủ tịch, Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch, Phó chủ tịch và thành viên khác của Uỷ ban nhân dân, Trưởng ban và các thành viên khác của các ban của Hội đồng nhân dân bầu; miễn nhiệm, bài nhiệm Hội thẩm nhân dân của toà án nhân dân cúng cấp theo quy định của pháp luật;
Bãi bỏ nhứng quyết định sai trái của Uỷ ban nhân dân cùng cấp, nhứng nghị quyết sai trái của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp;
Quyết định giải tán Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp trong trường hợp Hội đồng nhân dân đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân. Nghị quyết giải tán Hội đồng nhân dân phải được sự phê chuẩn của Hội đồng nhân dân cấp trên trực tiếp khi thi hành. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh giải tán Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp phải được sự phê chuẩn của Uỷ ban thường vụ Quốc hội trước khi thi hành;
Thông qua đề án phân vạch, điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính ở địa phương để đề nghị cấp trên xét.
PHẦN II
THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH – KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG TRONG LĨNH VỰC TRỢ GIÚP XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KHÁNH VĨNH:
I. Khái quát đặc điểm t