Đề tài Công tác xã hội với nhóm trẻ khiếm thị (Nghiên cứu tại tỉnh hội người mù Hà Tây)

Vì sao tôi lại chọn đề tài này? Thứ nhất, tôi muốn đến với công tác xã hội bằng cách hướng mình đến công tác xã hội (CTXH) chuyên nghiệp và thực thụ. Tuy vậy, chưa có một nghiên cứu công tác xã hội mẫu mực nào (hoặc là tôi chưa được đọc) cho tôi tham khảo cả. Với một mong muốn cá nhân đó tôi buộc phải lựa chọn nhóm đối tượng mà tôi có khả năng nhất, có điều kiện nhất để thực hiện cái gọi là CTXH chuyên nghiệp, nghĩa là thực hiện theo yêu cầu, nguyên tắc mà khoa học và nghề nghiệp công tác xã hội đặt ra. Và đó là nhóm trẻ khiếm thị mà Đội Sinh viên làm công tác xã hội cũng như tôi đã hoạt động được một thời gian tại Tỉnh hội người mù Hà Tây. Thứ hai, bất cứ một đề tài nào cũng xuất phát từ tình huống có vấn đề từ cuộc sống. Đề tài của tôi tất nhiên cũng vậy. Nó xuất phát từ vấn đề mà các em khiếm thị sinh hoạt tại Tỉnh Hội người mù Hà Tây đang gặp phải. Vấn đề xã hội dưới góc độ công tác xã hội của các em vừa là vấn đề của người khuyết tật, cụ thể là khiếm thị, vừa là vấn đề của trẻ em. Bởi vậy, đây là một nghiên cứu công tác xã hội mang cả đặc điểm của công tác xã hội với người khiếm thị và công tác xã hội với trẻ em. Khái quát lại vấn đề của các em, tính bức thiết mà đề tài nêu ra chính là vấn đề đáp ứng nhu cầu giao lưu, giao tiếp của các em, và qua đó góp phần định hướng cho sự hình thành nhân cách lành mạnh cho các em. Với hai lí do đó, tôi đã lựa chọn nghiên cứu và thực hành đối với nhóm trẻ khiếm thị và xây dựng nên báo cáo này.

doc29 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 11868 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Công tác xã hội với nhóm trẻ khiếm thị (Nghiên cứu tại tỉnh hội người mù Hà Tây), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Công tác xã hội với nhóm trẻ khiếm thị (Nghiên cứu tại tỉnh hội người mù Hà Tây) LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Vì sao tôi lại chọn đề tài này? Thứ nhất, tôi muốn đến với công tác xã hội bằng cách hướng mình đến công tác xã hội (CTXH) chuyên nghiệp và thực thụ. Tuy vậy, chưa có một nghiên cứu công tác xã hội mẫu mực nào (hoặc là tôi chưa được đọc) cho tôi tham khảo cả. Với một mong muốn cá nhân đó tôi buộc phải lựa chọn nhóm đối tượng mà tôi có khả năng nhất, có điều kiện nhất để thực hiện cái gọi là CTXH chuyên nghiệp, nghĩa là thực hiện theo yêu cầu, nguyên tắc mà khoa học và nghề nghiệp công tác xã hội đặt ra. Và đó là nhóm trẻ khiếm thị mà Đội Sinh viên làm công tác xã hội cũng như tôi đã hoạt động được một thời gian tại Tỉnh hội người mù Hà Tây. Thứ hai, bất cứ một đề tài nào cũng xuất phát từ tình huống có vấn đề từ cuộc sống. Đề tài của tôi tất nhiên cũng vậy. Nó xuất phát từ vấn đề mà các em khiếm thị sinh hoạt tại Tỉnh Hội người mù Hà Tây đang gặp phải. Vấn đề xã hội dưới góc độ công tác xã hội của các em vừa là vấn đề của người khuyết tật, cụ thể là khiếm thị, vừa là vấn đề của trẻ em. Bởi vậy, đây là một nghiên cứu công tác xã hội mang cả đặc điểm của công tác xã hội với người khiếm thị và công tác xã hội với trẻ em. Khái quát lại vấn đề của các em, tính bức thiết mà đề tài nêu ra chính là vấn đề đáp ứng nhu cầu giao lưu, giao tiếp của các em, và qua đó góp phần định hướng cho sự hình thành nhân cách lành mạnh cho các em. Với hai lí do đó, tôi đã lựa chọn nghiên cứu và thực hành đối với nhóm trẻ khiếm thị và xây dựng nên báo cáo này. 2. Ý nghĩa đề tài - Ý nghĩa lí luận – khoa học Đề tài vận dụng kiến thức công tác xã hội với người khuyết tật nói chung và người khiếm thị và trẻ em nói riêng. Đây là một đề tài nghiên cứu khám phá để tạo đà cho những nghiên cứu mang tính khoa học hơn, thực thụ hơn trong các giai đoạn sau. - Ý nghĩa thực tiễn: Báo cáo không phải là một báo cáo suông. Nó vận dụng kiến thức công tác xã hội để thực hành vào trường hợp cụ thể là các em các em khiếm thị tại Tỉnh Hội Người mù Hà Tây, mang lại những tác dụng tích cực thấy rõ cho các em. 3. Mục đích nghiên cứu Tăng cường năng lực giao tiếp cho các em, tăng cường khả năng tự lực cho các em trong cuộc sống. 4. Nhân viên xã hội, hệ thống thân chủ và phạm vi nghiên cứu - Nhân viên xã hội (NVXH): Nguyễn Trung Kiên và các thành viên của Đội Sinh viên làm công tác xã hội. - Hệ thống thân chủ: gồm 13 em khiếm thị đang sinh hoạt, học tập tại Tỉnh Hội người mù Hà Tây. - Phạm vi nghiên cứu: + Thời gian: Giai đoạn I: từ 10/12 đến 16/12/2007. Giai đoạn II: từ 1/3 đến 25/5/2008. + Địa điểm: tại 56 Tô Hiệu, Tỉnh Hội người mù Hà Tây, thành phố Hà Đông, Hà Tây. 5. Phương pháp nghiên cứu *Phương pháp luận nghiên cứu - Sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử Marxist làm kim chỉ nam cho nghiên cứu và thực hành các phương pháp, kỹ năng đối với thân chủ. * Phương pháp công tác xã hội với nhóm trẻ khiếm thị: - Phương pháp công tác xã hội nhóm là phương pháp được sử dụng chính trong nghiên cứu này. Phương pháp công tác xã hội nhóm sử dụng mối quan hệ của nhóm trẻ khiếm thị, sử dụng chương trình sinh hoạt nhóm, bầu không khí nhóm như là công cụ để tác động vào từng đứa trẻ khiếm thị và mang lại tăng trưởng tâm lý xã hội cho các em. Trong 3 mô hình nhóm, chúng tôi chọn mô hình nhóm xã hội hoá nhằm giáo dục và tác động đến sự hình thành nhân cách các em. Chương trình sinh hoạt, chúng tôi thực hiện các hình thức sau: + Tổ chức các trò chơi yêu cầu nhanh trí và vận động: trò chơi “Thuyền ai, thuyền ai” – yêu cầu tìm nhanh từ chỉ một vật cùng chữ cái đầu với tên mình; trò chơi vỗ tay theo nhịp – yêu cầu vỗ tay đúng theo số lượng mà NVXH đưa ra; trò chơi + Tổ chức tập văn nghệ: tập bài hát “Trống cơm” với hình thức đồng ca có sự tham gia tích cực của tất cả các em. Tập kịch đưa các em vào sắm vai, thể hiện bản thân mình. + Thảo luận, đối thoại: người NVXH chủ động đưa ra chủ đề và yêu cầu các thành viên trong nhóm trẻ đưa ra ý kiến. Ví dụ: về ước mơ, về câu chuyện “Bó đũa” để các em đưa ra nhận xét ý nghĩa. - Phương pháp công tác xã hội cá nhân: Đồng thời với công tác xã hội nhóm thì tôi sử dụng công tác xã hội cá nhân để bổ trợ. Sử dụng công tác xã hội cá nhân nhằm mục đích tìm hiểu sâu về cá nhân của từng đứa trẻ, tâm tư, tình cảm của các em từ đó có thể giúp đỡ các em bằng chính mối quan hệ của NVXH với từng em, hay sử dụng kết hợp với sinh hoạt nhóm để đưa các em hoà nhập tốt trong môi trường nhóm và xã hội. Các kỹ năng được sử dụng trong phương pháp CTXH CN là kỹ năng tham vấn với các kỹ năng thực hành cụ thể như kỹ năng vấn đàm, kỹ năng giao tiếp. Kỹ năng giao tiếp được thực hiện qua các buổi sinh hoạt nhóm, qua tiếp xúc với từng em, qua các trang viết nhật ký và qua các trang viết bằng chính chữ nổi Braille cho các em. * Các phương pháp thu thập thông tin: - Phương pháp phân tích tài liệu: Phân tích các trang nhật ký của các tình nguyện viên đến hoạt động vào giao lưu với các em. Mục đích nhằm tìm hiểu những cảm nhận của họ đối với từng cá nhân các em cũng như đối với nhóm các em. Qua đó tìm được sự thay đổi của các em trong quá trình giao lưu tiếp xúc với các anh chị tình nguyện viên. Phân tích các trang viết của các em bằng chữ nổi Braile (nếu có thể). - Phương pháp phỏng vấn sâu: Phỏng vấn sâu nhằm tìm kiếm các thông tin sâu về hoàn cảnh, đặc điểm tâm lý, tính cách của các em, nhu cầu của các em. Phỏng vấn sâu những người liên quan và thường xuyên tiếp xúc với các em như cô giáo Tâm. Phỏng vấn sâu được kết hợp trong vấn đàm, tiếp xúc với từng em. - Phương pháp quan sát: Sử dụng phương pháp quan sát nhằm tìm hiểu đời sống thực của các em tại trung tâm như quan sát bữa ăn, quan sát sinh hoạt của các em, quan sát hành vi của các em trong học tập cũng như trong quá trình sinh hoạt, tiếp xúc, giao lưu với bạn bè và mọi người xung quanh. Sử dụng quan sát kết hợp với phương pháp hồi tưởng, quay phim, chụp ảnh để ghi chép lại các thông tin, tiến trình tâm lý xã hội của các em từng ngày. 6. Cơ sở lý luận và kiến thức công tác xã hội áp dụng *Một vài quan điểm tâm lý học - Lý thuyết phân tâm học do Sigmund Freud (1856-1939) sáng lập cho rằng có thể chia sự phát triển của nhân cách con người thành 5 giai đoạn như sau: 1) Giai đoạn miệng (Oral stage): từ sinh ra đến – 1 tuổi; 2) Giai đoạn hậu môn (Anal stage): từ 1 đến 2 tuổi; 3) Giai đoạn cơ quan sinh dục (Penital stage): từ 3 đến 5tuổi; 4) Giai đoạn tiềm tàng (Latent stage): từ 6 đến tuổi dậy thì; 5) Giai đoạn tính dục (Genital stage): từ tuổi dậy thì đến hết đời. Trong 5 giai đoạn phát triển nhân cách trên thì đã có 3 giai đoạn được phân chia cho lứa tuổi từ 0 đến 5 tuổi. Freud khẳng định rằng với những trải nghiệm tuổi thơ trong 5 năm đầu đời có ý nghĩa quyết định đối với sự hình thành nhân cách. - Bên cạnh đó, cũng có quan điểm tổng hợp các trường phái tư tưởng của các nhà tâm lý học như S.Freud (1856-1939), của E.Erikson (1902-1994), của J.Piaget (1896-1980)…phân chia sự phát triển của con người thành 7 giai đoạn phát triển. Trong đó, 3 giai đoạn đầu tiên là: + Từ 0 - 1 tuổi: Đây là thời kỳ cảm giác vận động. Trẻ thay đổi về sinh lý nhanh (biết đi, biết ngồi, biết đứng…), tìm hiểu thế giới xung quanh. Do quan hệ xã hội chủ yếu với bố mẹ nên việc thoả mãn các nhu cầu cũng được thoả mãn qua sự quan tâm chăm sóc của bố mẹ, tạo cảm giác an toàn, tin tưởng. Nếu không được cảm giác đó thì sẽ tạo ra sự sợ hãi, đó chính là một trong những nguyên nhân gây nhiễu tâm sau này. + Từ 1 - 3 tuổi: Hình thành tính tự chủ, ý muốn độc lập ở trẻ, thể hiện rõ nét qua các câu nói thường gặp ở bé như “của con”, “để con tự làm cơ”…Thời kỳ này vẫn là thời kỳ cảm giác vận động. Trẻ tò mò tìm hiểu, hay bướng bỉnh theo ý kiến bản thân. Nếu không được khích lệ, khen tặng hay sự quan tâm của bố mẹ, trẻ dễ sinh cảm giác nghi ngờ, xấu hổ, dẫn đến nhút nhát, lệ thuộc. + Từ 3 – 6 tuổi: E.Erikson gọi đây là giai đoạn của óc sáng kiến vì trẻ tò mò, đặt rất nhiều câu hỏi tại sao. Tư duy ở giai đoạn này đã phát triển lên tư duy hình ảnh trực quan. Nếu trẻ không được khuyến khích, không có cơ hội để hiểu biết trẻ dễ có cảm giác tội lỗi, dẫn tới nhút nhát, rụt rè. Giai đoạn này quan hệ xã hội của đứa trẻ đã bắt đầu vươn ra khỏi khuôn khổ gia đình, có quan hệ với những bạn cùng lứa tuổi. (Theo Tài liệu tập huấn: Phần II, chương IV, trang 7) Tóm lại, dựa trên các nghiên cứu tâm lý học ta thấy rằng giai đoạn 6 năm đầu đời của trẻ tập trung phát triển rất nhanh và rất nhiều từ giác quan, sinh lý, đến trí tuệ và nhân cách. Những gì có được trong những năm tháng đầu tiên này sẽ không dễ mất đi trong suốt giai đoạn sống về sau, ngược lại, những gì không có được trong thời gian này sẽ khó mà có được ở giai đoạn sau. *Quan điểm nền tảng trong nghiên cứu và thực hành CTXH: - Lấy nền tảng triết lý của công tác xã hội để dẫn đường cho việc xác định mục đích và các hành động đối với thân chủ: + Cá nhân là mối quan tâm hàng đầu xã hội. + Giữa cá nhân và xã hội có sự phụ thuộc hỗ tương. + Cả hai đều có trách nhiệm đối với nhau. + Con người đều có những nhu cầu giống nhau, nhưng mỗi con người là một cái gì đó độc đáo, không giống với người khác. + Cá nhân được phát huy các tiềm năng của bản thân đồng thời cần được thể hiện trách nhiệm đối với xã hội thông qua sự tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội. + Xã hội có trách nhiệm tạo điều kiện để khắc phục những trở ngại đối với sự phát huy hay tự thể hiện của cá nhân bằng cách làm cho mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội không bị mất cân bằng. (Nguyễn Thị Oanh, 1998: 7-8) - Tuân thủ 7 nguyên tắc trong thực hành công tác xã hội là: 1) Chấp nhận thân chủ; (2) Thân chủ cùng tham gia giải quyết vấn đề của mình; (3) Tôn trọng quyền tự quyết của thân chủ; (4) Cá biệt hoá (; (5) Bí mật (những thông tin về thân chủ); (6) Nhân viên xã hội ý thức về mình; (7) Tính chất nghề nghiệp của mối quan hệ giữa nhân viên xã hội và thân chủ (bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, đồng cảm và chia sẻ). *Một số quan điểm về người mù hay người khiếm thị: - Khái niệm: + Người mù: là người bị tổn thương thị giác, không còn nhìn thấy ánh sáng đối với cả hai mắt (thị lực bằng không). Đó là những người mù hoàn toàn hay còn gọi là mù tuyệt đối. + Khiếm thị: ở trong nghiên cứu này, tôi tạm thời sử dụng thuật ngữ khiếm thị để chỉ tình trạng bị khiếm khuyết thị giác ở các em từ mức độ mù hoàn toàn (không nhìn thấy gì) đến mức độ còn nhìn được lờ mờ, tuy nhiên không đủ khả năng đọc được các chữ cái. - Phân loại về người mù (người khiếm thị): Tuỳ thuộc vào tiêu chí mà có nhiều cách phân loại người mù: Nếu dựa vào nguyên nhân gây ra mù thì có mù bẩm sinh do di truyền; mù do bệnh tật (có thể nhiều loại như sởi, đậu mùa, thiên đầu thống, đục thuỷ tinh thể…); mù do tai nạn lao động; do chiến đấu... Cách phân loại theo tuổi bị mù là một cách phân loại được chú ý. Theo đó, người ta phân ra theo 3 mốc tuổi: thứ nhất là bị mù trước 6 tuổi; thứ hai là bị mù sau 6 tuổi đến hết tuổi trung niên hay tuổi lao động (60 tuổi ở nam và 55 tuổi ở nữ); và giai đoạn cuối là bị mù khi đã già. + Người bị mù trong vòng 6 năm đầu đời là những người không hề được thấy ánh sáng, hoặc có thì cũng còn quá bé để có thể nhớ lại những hình ảnh mà mắt đã thấy. Những người mù này là những người mù tiêu chuẩn, họ không tận dụng được gì được ở ánh sáng, ở mắt nhìn. Hoạt động của các giác quan, của tư duy, trí tuệ hoàn toạn dựa vào các giác quan khác. Nghiên cứu người mù phải tập trung ở loại này. + Người bị mù sau 6 tuổi đến tuổi trung niên: là những người có ít nhiều thuận lợi nhận biết được hình ảnh, rèn luyện được trí lực trong thời gian sáng mắt. Càng bị mù muộn thì họ một mặt có thời gian sáng mắt càng lớn, do đó có được nhiều ấn tượng cuộc sống, giúp cho họ trong quá trình tư duy, nhận thức, mặt khác thì khả năng thích ứng với cuộc sống trong điều kiện mới sẽ giảm sút vì càng về già thì các giác quan càng kém tinh tế, khó học tập. Ngược lại, càng bị mù sớm thì một mặt họ có ít thời gian sáng mắt hơn do vậy mà kinh nghiệm cuộc sống có thể ít hơn nhưng việc rèn luyện khả năng thích ứng với hoàn cảnh mới lại dễ hơn, thuận lợi hơn. + Người bị mù trong tuổi già (tuổi sau lao động): đối với những người này, một mặt khả năng thích ứng với hoàn cảnh mới kém hơn rất nhiều, mặt khác họ cũng có ít nhu cầu hơn, hoặc không còn bức thiết. Mỗi loại mù cần có những biện pháp giúp đỡ phù hợp, đặc biệt là người mù trong 6 năm đầu đời. - Hạn chế của người mù: Theo nghiên cứu thì người bình thường lượng tiếp nhận thông tin qua các giác quan như sau: thị giác 80%, thính giác 15 %, xúc giác 4%, khứu giác và vị giác 1%. Với con mắt, người ta có một lợi thế vô cùng lớn trong việc tiếp nhận thông tin. Với đôi mắt, người ta có thể nhìn gần, nhìn xa, nhìn rộng hay nhìn tập trung, nhìn tổng thể hay nhìn vào từng chi tiết như màu sắc sáng tối, đậm nhạt, hình dáng to nhỏ, sần sùi hay nhẵn, kích thức rộng hẹp, có thể thông qua mắt để biểu đạt trạng thái tình cảm như một phương tiện giao tiếp, hay nhận biết các trạng thái tình cảm, cử chỉ, hành động từ người khác. Hơn nữa trong thời đại bùng nổ của khoa học công nghệ và thông tin người ta đã sáng chế ra nhiều máy móc, thiết bị giúp cho khả năng của mắt tăng gấp bội như máy tính, máy hiển vi, kính thiên văn, máy ảnh, ti vi, internet, hoặc lượng sách, báo, truyền hình có mặt ở mọi nơi với đa dạng số lượng, và chủng loại thông tin. Như vậy đối với người mù thì chỉ có thể tiếp nhận thông tin qua 4 giác quan còn lại, chủ yếu vào thính giác và xúc giác. Khi bị mù mắt thì lượng thông tin tiếp nhận do các giác quan còn lại có thể tăng lên song không đáng kể. Ở đây, nếu lượng thông tin và cảm xúc được tiếp nhận nhiều, chất lượng tốt thì sẽ giúp cho họ nhận thức và hành động tốt và ngược lại. Do đó, cơ sở tiếp nhận thông tin đối với họ rất quan trọng. Đặc biệt đối với trẻ em, trong giai đoạn hình thành và hoàn thiện nhân cách, tiếp nhận các kinh nghiệm và tri thức để có thể bước vào đảm nhiệm các vai trò xã hội thì có thể thấy rằng thông tin cực kỳ quan trọng và bị mù là một khiếm khuyết vô cùng lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự hình thành nhân cách của các em sau này. Do đó, vấn đề tăng cường khả năng thu nhận thông tin cho các em là vấn đề bức thiết, quan hệ tới những cá nhân trưởng thành trong tương lai. - Khả năng của người mù: Tuy vậy, không phải mắt là giác quan duy nhất và mất nó thì các giác quan còn lại vô dụng. Với các giác quan còn lại như xúc giác, thính giác, khứu giác người mù vẫn có khả năng thực hiện được nhiều công việc và do vậy đóng góp nhiều cho xã hội. Xúc giác của người mù tập trung vào đôi bàn tay, vào các phần da trên mặt, ở đôi chân. Xúc giác là giác quan quan trọng nhất cho người mù tiếp nhận thông tin. Đôi chân giúp người mù định hướng đi lại, da mặt, da người giúp người mù nhận biết không khí xung quanh. Và quan trọng nhất là đôi tay, người mù có thể tiếp nhận được chính xác các thông tin về hình dáng, kích thước, độ mịn, độ bong, trọng lượng, nhiệt độ…Người mù cũng có thể đoán biết hình dáng, thể trạng một người chỉ bằng cách sờ mó vào bàn tay, cùi tay của họ. Đặc biệt hiện nay người mù có thể học văn hoá thông qua chữ nổi Braile. Thính giác cũng là giác quan quan trọng đối với người mù. Với thính giác người mù có thể tiếp nhận thông tin qua các âm thanh, nhận biết và giao tiếp với người xung quanh qua giọng nói, qua tiếng động. Với thính giác, người mù cũng có thể học âm nhạc và trở thành những người chơi đàn thành thạo. (xem Lê Hồng Thuỷ: 1999) PHẦN TIẾN TRÌNH CÔNG TÁC XÃ HỘI I. TIẾP CẬN HỆ THỐNG THÂN CHỦ - Hệ thống thân chủ: nhóm trẻ khiếm thị đang sinh hoạt nội trú tại Tỉnh Hội người mù Hà Tây. - Thời gian tiếp cận của NVXH: Bắt đầu từ ngày 10/9/2007. - Cách thức tiếp cận: chủ động đến tiếp xúc với các em thông qua hoạt động của Đội Sinh viên làm công tác xã hội. Có một số thành viên đã hoạt động tại cơ sở này từ năm ngoái. - Kết quả tiếp cận: hiện nay đã tạo được một mối quan hệ khá tốt đẹp và tin tưởng với tất cả các em trong Tỉnh Hội. Các em thân mật gọi tôi là “Anh Kiên Ú của các em”. Công tác xã hội ở đây chưa phải là thân chủ tự tìm đến với nhân viên xã hội, mà ngược lại nhân viên xã hội tìm đến để giúp đỡ thân chủ. Nó mang tính an sinh xã hội nhiều hơn là một hoạt động dịch vụ, hay một nghề nghiệp. II. QUÁ TRÌNH XÁC ĐỊNH VẤN ĐỀ 1. Thông tin và những vấn đề chung của nhóm trẻ 1.1. Thông tin - Số lượng: 13 em. - Cơ cấu giới tính: 4 nam, 9 nữ. - Cơ cấu tuổi: 1 em 6 tuổi, 3 em 7 tuổi, 2 em 8 tuổi, 2 em 9 tuổi, 10, 11, 13, 15, 18 tuổi mỗi lứa có 1 em. - Quê quán: Từ 9 huyện của tỉnh Hà Tây. - Điều kiện ở: có 3 phòng. - Điều kiện mặc: gia đình các em chu cấp. - Điều kiện ăn uống: theo tài trợ của tổ chức ADERA. Mỗi bữa cơm mỗi em ăn một tô cơm, có 5, 6 miếng thịt, rau và một bát canh. - Hình thức tập trung: tập trung theo hình thức lớp nội trú. Tên gọi là lớp tiền hoà nhập. Dưới sự hỗ trợ một dự án của tổ chức ADERA (tổ chức phi chính phủ Vì sự tiến bộ và phát triển cộng đồng) nhằm giúp các em học chữ nổi Braille và hoà nhập vào cộng đồng. - Thời gian tập trung: từ tháng 9/2006. Có 2 em (Thuý và Loan) mới chuyển đến trong tháng 11/2007. Thời hạn tập trung là 5 năm. Tuy nhiên, có khả năng dự án bị cắt vào cuối tháng 12/2007. - Điều kiện giáo dục: 5 trẻ hiện đang theo học các lớp chữ sáng của học sinh bình thường.Trong đó có 1 em học lớp 5, 4 em học lớp 2. Còn các em khác đang học chữ nổi (học vỡ lòng) và có 2 em chuẩn bị được chuyển lên lớp 1. Việc học tập chữ nổi được diễn ra dưới sự dạy dỗ của chị Đắc Thị Tâm cũng là người khiếm thị. Cô tốt nghiệp trung học phổ thông ở trường Nguyễn Đình Chiểu – trường dành riêng cho người khiếm thị và khoá giáo viên tại Trung tâm phục hồi chức năng người khuyết tật ở Trung Kính – Hà Nội. Lịch trình học như sau: buổi tối ăn cơm xong các em theo học các lớp bình thường chuẩn bị bài lên lớp ngày mai bằng các cuốn vở bằng chữ Braile được chị Tâm soạn theo sách giáo khoa chữ sáng bình thường. Các em khác ngồi tự học chữ. Ban ngày, khi một số em đi học chữ sáng thì ở nhà chị Tâm kèm và dạy cho các em chữ nổi Braile. Các em học ở lớp chữ sáng về nhà được 2 cô giáo bên trường chữ sáng kèm cặp. Đánh giá: điều kiện giáo dục chưa đáp ứng đủ: chỉ có 1 cô giáo (bị khiếm thị) phải dạy đến 13 đứa trẻ. Khả năng tiếp nhận thông tin của các em thấp, do chỉ thu nhận qua việc học chữ nổi Braile. Chưa phát huy được cơ quan thính giác. 1.2. Vấn đề chung - Bệnh tật: tất cả các em bị tật về mắt. Chỉ có một số em còn nhìn mờ mờ như em Phương, Thuý, Đông, mờ hơn có Oanh, Thu, Huyền, còn lại hầu như không thấy gì. - Nhu cầu lớn nhất: nhu cầu được giao tiếp, tiếp xúc, được quan tâm, chia sẻ với mọi người đặc biệt là anh chị sinh viên tình nguyện. Điều này vừa xuất phát từ lứa tuổi của các em đang tuổi ăn, tuổi chơi, vừa xuất phát từ điều kiện bệnh tật của các em. Đây cũng chính là vấn đề tâm lý lớn nhất của các em: nhu cầu được giải toả những bức xúc tâm lý do bệnh tật và một phần do hoàn cảnh gia đình. - Vấn đề giáo dục: Nhóm các em chưa có điều kiện tiếp xúc với các phương tiện giáo dục khác như đài, với các loại hình khác như âm nhạc, thể thao… - Nguy cơ bị cắt dự án, không được tiếp tục tham gia lớp học. Cần có dự án, tổ chức khác hỗ trợ để duy trì. - Nhóm hay cãi nhau, nhất là các em lớn. Có khi không nghe lời cô giáo và em Huyền lớp trưởng. Mối liên hệ giữa các thành viên trong nhóm trẻ không chặt chẽ. 2. Thông tin cụ thể về từng em - Phương pháp sử dụng: phân tích tài liệu; quan sát; vấn đàm. - Những thông tin cơ bản:  Năm sinh  Giới tính  Trình độ văn hoá  Quê quán   1.Thuý  2001  Nữ  Vỡ lòng  Ứng Hoà – HT   2. Đông  2000  Nam  Vỡ lòng  Ba Vì – HT   3. Tuấn  2000  Nam  Vỡ lòng  Thường Tín – HT   4. Hường  2000  Nữ  Vỡ lòng  Hoài Đức – HT   5. Kiên  1999  Nam  Vỡ lòng  Thanh Oai – HT   6. Mơ  1999  Nữ  Lớp 2  Thường Tín – HT   7. Loan  1998  N
Tài liệu liên quan