Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là thực thể kinh tế hình thành và phát triển ở nhiều quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, ngay từ khi ra đời với tên gọi Xí nghiệp quốc doanh, đến nay đã tồn tại hơn một nữa thế kỷ, DNNN đã có những đóng góp to lớn, chứng minh được vai trò then chốt trong sự phát triển của đất nước. Nhưng từ khi Việt Nam chuyển sang KTTT định hướng XHCN, các DNNN đã đứng trước mâu thuẫn giữa sứ mệnh và thực trạng. Hoạt động của các DNNN bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém, khả năng cạnh tranh không cao. Trước tình hình đó, một yêu cầu tất yếu khách quan và mang tính cấp bách được đặt ra là phải đổi mới, phải cải cách DNNN. Nhưng áp dụng giải pháp chủ yếu nào cho việc cải cách DNNN lại phụ thuộc vào mô hình kinh tế xã hội mà mỗi quốc gia lựa chọn. Đối với Việt Nam, xuất phát từ tình hình thực tế và kinh nghiệm trên thế giới, đặc biệt từ sự thành công của Trung Quốc, CPH được xác định là giải pháp tối ưu nhất trong quá trình sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả của DNNN.
Vấn đề CPH DNNN ở Việt Nam được thực hiện thí điểm từ năm 1990 trên cơ sở Quyết định số 143/HĐBT ngày 10/5/1990 và sau đó được thực hiện với quy mô rộng lớn. Từ đó đến nay đã có rất nhiều văn bản pháp lý được ban hành nhằm điều chỉnh vấn đề CPH các DNNN, nhưng chưa có một văn bản nào đưa ra khái niệm trực tiếp, đầy đủ về vấn đề này.
Dưới góc độ chính trị: CPH CTNN không đồng nghĩa với tư nhân hoá nền kinh tế, mặc dù CPH có chứa đựng yếu tố tư nhân hoá. CPH làm cho sở hữu trong doanh nghiệp chuyển từ “ảo” đến “ thực”, từ sự kiểm soát bằng chế độ quan liêu sang sự kiểm soát lợi ích của các chủ sở hữu thực sự [1]. CPH nhằm thu hút sự tham gia, làm chủ thực sự của người lao động vào CTNN thông qua việc để họ sở hữu một phần vốn trong chính CTNN mà họ làm việc, biến họ từ người lao động thuần tuý thành người lao động có sở hữu vốn của công ty. Giải pháp này làm cho công ty có thêm chủ nhân thực sự, bên cạnh chủ nhân trừu tượng là Nhà nước.
Dưới góc độ kinh tế: CPH là quá trình chuyển đổi từ một doanh nghiệp được tổ chức dưới các hình thức khác nhau theo mô hình CTCP, theo đó vốn điều lệ của công ty được chia thành các phần bằng nhau gọi là cổ phần. Trách nhiệm của các thành viên trong hoạt động kinh doanh của công ty phụ thuộc vào tỷ trọng cổ phần mà họ sở hữu.
Dưới góc độ pháp lý: CPH là việc biến doanh nghiệp một chủ thành doanh nghiệp nhiều chủ, tức là chuyển từ hình thức sở hữu đơn nhất sang đa sở hữu, thông qua việc chuyển một phần tài sản thuộc khu vực kinh tế công sang khu vực tư nhân. Những người này trở thành cổ đông của công ty, sở hữu chủ của doanh nghiệp theo tỷ trọng tài sản mà họ nắm giữ.
69 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1299 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Công ty nhà nước và pháp luật về cổ phần hóa công ty nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG I
CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CPH CÔNG TY NHÀ NƯỚC VÀ
PHÁP LUẬT VỀ CỔ PHẦN HÓA CÔNG TY NHÀ NƯỚC
I. Khái quát chung về cổ phần hóa công ty Nhà nước
1. Khái niệm về CPH CTNN
Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là thực thể kinh tế hình thành và phát triển ở nhiều quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, ngay từ khi ra đời với tên gọi Xí nghiệp quốc doanh, đến nay đã tồn tại hơn một nữa thế kỷ, DNNN đã có những đóng góp to lớn, chứng minh được vai trò then chốt trong sự phát triển của đất nước. Nhưng từ khi Việt Nam chuyển sang KTTT định hướng XHCN, các DNNN đã đứng trước mâu thuẫn giữa sứ mệnh và thực trạng. Hoạt động của các DNNN bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém, khả năng cạnh tranh không cao. Trước tình hình đó, một yêu cầu tất yếu khách quan và mang tính cấp bách được đặt ra là phải đổi mới, phải cải cách DNNN. Nhưng áp dụng giải pháp chủ yếu nào cho việc cải cách DNNN lại phụ thuộc vào mô hình kinh tế xã hội mà mỗi quốc gia lựa chọn. Đối với Việt Nam, xuất phát từ tình hình thực tế và kinh nghiệm trên thế giới, đặc biệt từ sự thành công của Trung Quốc, CPH được xác định là giải pháp tối ưu nhất trong quá trình sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả của DNNN.
Vấn đề CPH DNNN ở Việt Nam được thực hiện thí điểm từ năm 1990 trên cơ sở Quyết định số 143/HĐBT ngày 10/5/1990 và sau đó được thực hiện với quy mô rộng lớn. Từ đó đến nay đã có rất nhiều văn bản pháp lý được ban hành nhằm điều chỉnh vấn đề CPH các DNNN, nhưng chưa có một văn bản nào đưa ra khái niệm trực tiếp, đầy đủ về vấn đề này.
Dưới góc độ chính trị: CPH CTNN không đồng nghĩa với tư nhân hoá nền kinh tế, mặc dù CPH có chứa đựng yếu tố tư nhân hoá. CPH làm cho sở hữu trong doanh nghiệp chuyển từ “ảo” đến “ thực”, từ sự kiểm soát bằng chế độ quan liêu sang sự kiểm soát lợi ích của các chủ sở hữu thực sự [1]. CPH nhằm thu hút sự tham gia, làm chủ thực sự của người lao động vào CTNN thông qua việc để họ sở hữu một phần vốn trong chính CTNN mà họ làm việc, biến họ từ người lao động thuần tuý thành người lao động có sở hữu vốn của công ty. Giải pháp này làm cho công ty có thêm chủ nhân thực sự, bên cạnh chủ nhân trừu tượng là Nhà nước.
Dưới góc độ kinh tế: CPH là quá trình chuyển đổi từ một doanh nghiệp được tổ chức dưới các hình thức khác nhau theo mô hình CTCP, theo đó vốn điều lệ của công ty được chia thành các phần bằng nhau gọi là cổ phần. Trách nhiệm của các thành viên trong hoạt động kinh doanh của công ty phụ thuộc vào tỷ trọng cổ phần mà họ sở hữu.
Dưới góc độ pháp lý: CPH là việc biến doanh nghiệp một chủ thành doanh nghiệp nhiều chủ, tức là chuyển từ hình thức sở hữu đơn nhất sang đa sở hữu, thông qua việc chuyển một phần tài sản thuộc khu vực kinh tế công sang khu vực tư nhân. Những người này trở thành cổ đông của công ty, sở hữu chủ của doanh nghiệp theo tỷ trọng tài sản mà họ nắm giữ.
Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 về việc chuyển đổi CTNN thành CTCP đã gián tiếp đưa ra khái niệm về CPH CTNN. Theo đó CPH CTNN được hiểu là: “chuyển đổi những CTNN không cần nắm giữ 100% vốn sang loại hình doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu”.
Nhìn chung hiện nay có rất nhiều quan điểm, nhiều ý kiến dựa trên những khía cạnh, góc độ khác nhau về CPH. Nhưng tựu chung lại về bản chất CPH CTNN được hiểu là quá trình chuyển đổi CTNN thành CTCP, và là một quá trình làm đa dạng hoá sở hữu trong doanh nghiệp, đây là cách hiểu khá phổ biến ở nhiều quốc gia.
Ở Việt Nam, là quốc gia có nền kinh tế đang trong giai đoạn chuyển đổi, một nền KTTT định hướng Xã hội chủ nghĩa (XHCN), vấn đề CPH CTNN vẫn còn nhiều điểm đáng chú ý: đầu tiên xuất phát từ việc xác định vai trò chủ đạo của DNNN trong nền KTTT và chủ trương không tư nhân hoá khu vực kinh tế nhà nước, nên từ khi có chủ trương CPH DNNN đến nay, ở nước ta chỉ chuyển một số DNNN thành CTCP chứ không phải là chuyển toàn bộ. Nhà nước chỉ CPH những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn điều lệ, và tuỳ thuộc vào mức độ chi phối đối với hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế mà Nhà nước nắm giữ cổ phần hoặc không nắm giữ cổ phần, hoặc nắm giữ cổ phần chi phối. Có thể nói CPH ở Việt Nam cũng là một biện pháp duy trì sở hữu nhà nước đối với tư liệu sản xuất dưới hình thức CTCP. Ngoài ra, chúng ta phải nhận thức một cách rõ ràng, CPH là một quá trình chuyển đổi CTNN sang CTCP. Một công ty nhà nước sau khi hoàn tất quy trình CPH, sẽ không chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp Nhà nước mà chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp. Khi đã chuyển đổi hình thức hoạt động sang CTCP thì địa vị pháp lý của doanh nghiệp đó hoàn toàn tuân theo các quy định pháp luật của CTCP.
2. Mục tiêu và yêu cầu đối với hoạt động CPH CTNN trong giai đoạn hiện nay
Tuỳ theo tình hình phát triển kinh tế xã hội mà mục tiêu CPH CTNN đặt ra ở mỗi quốc gia là khác nhau. Ở Việt Nam, mục tiêu CPH có sự khác biệt so với các nước khác, điều này bắt nguồn trước hết từ các nguyên tắc chi phối quá trình CPH CTNN: Việc CPH phải góp phần nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước, làm cho tài sản thuộc sở hữu Nhà nước được sử dụng một cách hiệu quả, và CPH phải nằm trong chương trình tổng thể và quy hoạch phát triển kinh tế xã hội do Nhà nước đặt ra.
Trong giai đoạn hiện nay, khi xu hướng kinh tế quốc tế, toàn cầu hoá ngày càng phát triển, nền KTTT đòi hỏi tính cạch tranh cao thì việc chuyển CTNN thành CTCP phải nhằm hai mục tiêu:
1. Chuyển đổi những CTNN mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn sang loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu; huy động vốn của các nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và ngoài nước để tăng năng lực tài chính, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạch tranh của nền kinh tế.
2. Đảm bảo hài hoà lợi ích nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao động trong doanh nghiệp.
Hai mục tiêu này được đưa ra căn cứ trên tinh thần Nghị quyết Trung ương IX và đặc biệt từ thực trạng CPH nội bộ khép kín trong thời gian trước. Nhấn mạnh vào vấn đề chuyển đổi CTNN mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn sang loại hình doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu. Các DNNN ra đời bắt nguồn từ nhu cầu, sự cần thiết phải điều tiết các hoạt động kinh tế của Nhà nước, Nhà nước nắm quyền sở hữu các doanh nghiệp này và chi phối nó theo kiểu “quản lý hành chính”, giành những ưu đãi đặc biệt cho hoạt động sản xuất kinh doanh…, chính những điều này đã làm mất đi tính tự chủ của DNNN, giảm năng lực hoạt động, tính cạnh tranh. Phần lớn các DNNN đã lạc hậu về kỹ thuật, yếu kém trong cung cách quản lý, không còn theo kịp nền kinh tế đang thay đổi nhanh chóng. Để thực hiện mục tiêu nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, sức cạnh tranh của loại hình doanh nghiệp này, điều cần nhất là có vốn đầu tư. Chỉ khi tăng năng lực tài chính doanh nghiệp mới có điều kiện đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức quản lý từ đó nâng cao được hiệu quả và sức cạnh tranh. Nguồn vốn này sẽ được huy động từ chính những người lao động trong doanh nghiệp, từ các cá nhân các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và ngoài nước. Ngoài mục tiêu kinh tế, CPH còn phải đảm bảo tính dân chủ, công bằng. Hiệu quả sản xuất gắn với lao động, nhưng lao động phải đem lại lợi ích cho người thực hiện, với mục đích nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiêp, thì một điều rất cần thiết trong hoạt động CPH đó là đảm bảo được hài hoà lợi ích của các chủ thể.
Thực hiện mục tiêu CPH CTNN, trong thời gian gần đây tiến trình CPH diễn ra ngày càng nhanh, mở rộng cả về quy mô, số lượng… Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, nổi cộm lên là vấn đề CPH “khép kín” và không thực sự gắn kết với TTCK. Trước thực tế như vậy, yêu cầu của việc chuyển CTNN thành CTCT đã được đề ra, tại khoản 3 điều 1 Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ quy định: CPH CTNN phải khắc phục CPH khép kín trong nội bộ doanh nghiệp; gắn với phát triển thị trường vốn, TTCK.
Đây là những yêu cầu tất yếu phù hợp với quy luật khách quan của KTTT. Để thực hiện mục tiêu cải cách, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của DNNN - một loại hình doanh nghiệp đã tồn tại hơn một nửa thế kỷ mà chỉ đơn thuần huy động thêm vốn sẽ khó có thể hoàn thành được. Cái mà doanh nghiệp cần là cung cách quản lý mới, những tư duy sáng tạo mới, một sự nhạy bén, linh hoạt,… Những điều này khó có thể tạo ra từ bộ máy cũ. CPH không chỉ là “khép kín”, trao tài sản và vốn cho nội bộ doanh nghiệp mà định hướng đúng đắn là phải thu hút nguồn vốn, nguồn chất xám từ bên ngoài doanh nghiệp, đặc biệt là phải thu hút sự tham gia của các nhà đầu tư chiến lược. CPH khép kín, “bình mới” mà “rượu cũ” đã hết thời, “CPH ở trình độ cao là phải niêm yết trên TTCK” [2], phải gắn với thị trường vốn. Khi CPH gắn với TTCK sẽ nâng cao được tính công khai minh bạch của quá trình này, cổ phiếu của các CTNN tiến hành CPH sẽ được quy định bởi quy luật cung cầu.
3. Mối quan hệ giữa CPH công ty nhà nước và TTCK
“CPH phải gắn với TTCK”, đó là một trong những yêu cầu được đưa ra đối với hoạt động CPH trong giai đoạn hiện nay. Nhưng tại sao lại đưa ra yêu cầu này, tại sao hoạt động CPH chỉ thực sự đạt hiệu quả và đi vào chiều sâu khi gắn với TTCK? Nguyên nhân xuất phát từ mối quan hệ hai chiều giữa quá trình CPH các CTNN và TTCK. Quá trình CPH CTNN sẽ tạo cơ sở cho sự hình thành phát triển của TTCK và ngược lại, TTCK sẽ góp phần đẩy nhanh tốc độ, cũng như nâng cao hiệu quả CPH.
3.1. Chứng khoán - thị trường chứng khoán và những tác động đến tiến trình CPH
Chứng khoán và TTCK là những biểu hiện của sự phát triển ở mức độ cao của nền KTTT. Chứng khoán theo Luật Chứng khoán 2006 là “bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành”. Còn TTCK (srecurites market) là “nơi giao dịch chứng khoán và công cụ tài chính có liên quan đến chứng khoán” [3], tại TTCK diễn ra các hoạt động mua bán các loại chứng khoán, phổ biến là cổ phiếu và trái phiếu. Khi nhà đầu tư mua chứng khoán lần đầu từ các chủ thể phát hành thì việc mua bán chứng khoán này diễn ra ở thị trường sơ cấp (primary market), đối với thị trường chứng khoán thứ cấp (secondary market) bao gồm Sở giao dịch chứng khoán và Thị trường phi tập trung (OTC) sẽ diễn ra hoạt động mua bán chứng khoán đã được phát hành ở thị trường sơ cấp.
TTCK đã phát triển ở hầu hết các nước phát triển trên thế giới như Mỹ (năm 1792), Pháp (năm 1801), Nhật (năm 1878)… và cũng đã hình thành ở các nước có nền kinh tế chuyển đổi như Trung Quốc, Hungari… Có thể nói TTCK có vai trò quan trọng, không chỉ tạo nên một thị trường vốn sôi động, huy động vốn vào đầu tư sản xuất kinh doanh, huy động vốn tập trung dài hạn cho các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sử dụng vốn hiệu quả,… hơn thế TTCK còn tác động mạnh đến quá trình CPH.
Đầu tiên, TTCK tác động tới tính công khai minh bạch của tiến trình CPH CTNN. Trong một thời gian dài trước đây quá trình CPH diễn ra nội bộ khép kín đã không thực sự đem lại hiệu quả đổi mới doanh nghiệp cao. Sự ra đời và phát triển của TTCK sẽ tạo ra những điều kiện cho hoạt động CPH diễn công khai, đảm bảo hơn tính công bằng. Điều này được thể hiện trong nhều quy định. Đầu tiên thông qua sự tham gia của các Công ty chứng khoán, những chủ thể đóng vai trò trung gian, có khả năng chuyên môn cao và tính chuyên nghiệp trong hoạt động vào việc xác định giá trị doanh nghiệp, sẽ tạo điều kiện cho vấn đề “gai góc” này được chính xác rõ ràng. Ở khía cạnh bán đấu giá cổ phần, khi các CTNN thực hiện bán đấu giá cổ phần qua các TTGDCK đều phải công bố công khai các thông tin liên quan như: thời gian, địa điểm bán cổ phần, số lượng cổ phấn dự kiến bán ra. Đối với các CTNN CPH phát hành cổ phần ra công chúng và tham gia niêm yết trên TTCK thì báo cáo tài chính của công ty này phải được kiểm toán độc lập, phải công bố với các cổ đông và công chúng về tình hình tài chính, sản xuất, kinh doanh. Các CTNN CPH muốn niêm yết cũng phải thỏa mãn một tỷ lệ cổ phần nhất định bán ra bên ngoài. Tất cả những điều này đã tạo ra những tiền đề nâng cao tính công khai minh bạch của quá trình CPH, từng bước gắn tiến trình CPH với TTCK.
Thứ hai, sự tồn tại, phát triển của TTCK sẽ tạo tính thanh khoản cho cổ phiếu của CTNN CPH, làm gia tăng số lượng cổ đông cho các công ty này. TTCK sẽ có tác động lớn trong trong việc huy động vốn nhàn rỗi trong các CTCP trong đó có các CTNN CPH. Thực tế hiện nay một lượng lớn nguồn vốn đang nằm yên hoặc đầu tư vào vàng, USD, bất động sản thay vì đầu tư vào sản xuất kinh doanh, trong khi rất nhiều doanh nghiệp đang thiếu vốn. Việc phát triển và hoạt động hiệu quả của TTCK sẽ khuyến khích sự tham gia của công chúng vào mua cổ phần của các CTNN CPH, huy động nguồn vốn nhàn rỗi này. Ngoài ra chỉ với sự tồn tại của TTCK, những cổ đông của CTCP, những nhà đầu tư đã mua cổ phần mới thực sự yên tâm nắm giữ “hàng hoá cổ phiếu” do cổ phiếu của công ty niêm yết có tính thanh khoản cao, cổ đông có thể dễ dàng chuyển nhượng khi có nhu cầu. Còn đối với những nhà đầu tư mới, nhà đầu tư có nhu cầu đầu tư, muốn đầu tư nhưng còn e dè, TTCK sẽ tạo ra trạng thái tâm lý tin tưởng, động lực cho họ tham gia mua cổ phần, bởi TTCK với các định chế trung gian phục vụ thị trường như các Công ty chứng khoán sẽ có vai trò to lớn trong việc giúp doanh nghiệp CPH ở khía cạnh tư vấn phát hành cổ phần, bảo lãnh phát hành cổ phần, giao dịch chứng khoán,… những công việc mà tuyệt đại đa số các CTCP ở nước ta chưa trải qua. TTCK giúp xác định chính xác hơn giá trị doanh nghiệp của các CTNN CPH, thông qua các giao dịch đối với cổ phiếu của chúng. TTCK với các nguyên tắc hoạt động công khai, gián tiếp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp do nguyên tắc công khai đòi hỏi các nhà đầu tư phải điều hành tốt hơn, chú trọng đến sự phát triển sản xuất kinh doanh nhiều hơn. Về phía công chúng, họ có thông tin đầy đủ hơn để xác định hiệu quả của CTCP nhằm đưa ra lựa chọn thích hợp. Giá của cổ phiếu sẽ được quy định bởi quy luật cung cầu, tâm lý sợ mua đắt, ngần ngại của nhà đầu tư tiềm năng sẽ được giải tỏa.
Như vậy, TTCK không chỉ có vai trò quan trọng việc thúc đẩy tiến trình CPH, mà còn cón ý nghĩa trong việc nâng cao tính công khai, minh bạch của quá trình này. Khi TTCK phát triển đến một mức độ nhất định thì các doanh nghiệp sẽ tìm thấy ở đó một kênh huy động vốn nhanh chóng và có hiệu quả cao, ít phải chịu những thủ tục pháp lý phức tạp, những ràng buộc chặt chẽ trong sử dụng vốn như khi huy động vốn qua hệ thống các Ngân hàng Thương mại. Ngoài ra, việc huy động vốn thông qua việc phát hành cổ phiếu sẽ giúp công ty sau CPH có nguồn tài chính quan trọng để phục vụ những chiến lược lâu dài của công ty mà không phải lo trả nợ.
Bên cạnh những tác động tích cực, TTCK Việt Nam hiện nay cũng gây ra một số khó khăn, làm kìm hãm quá trình CPH. Chính thức bắt đầu hoạt động vào năm 2000, cho đến nay TTCK đã có nhiều bước phát triển vượt bậc, song vai trò của nó đối với nền kinh tế nói chung và đối với tiến trình CPH CTNN nói riêng vẫn còn mờ nhạt. Xét về quy mô, TTCK chưa tập trung được nhiều các công ty niêm yết, hoạt động thiếu ổn định rất dễ bị biến động có thể gây thiệt hại cho các nhà đầu tư và hậu quả làm hạn chế sự “hưng phấn” đối với quá trình CPH, gây khó khăn cho quá trình này. Ngoài ra, trong hoạt động của TTCK, có một nguyên tắc quan trọng là công khai, thực hiện theo nguyên tắc này sẽ đem lại nhiều lợi ích cho các doanh nghiệp, nhưng đối với một số doanh nghiệp khi thực hiện CPH phải công bố thông tin, tình hình tài chính sẽ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh và có thủ bị đối thủ cạnh tranh lợi dụng…Điều đó lý giải một phần tại sao nhiều DNNN tiến hành CPH nhưng không muốn niêm yết trên TTCK, mặc dù những lợi ích khi niêm yết trên TTCK sẽ đem lại rất nhiều cơ hội cho doanh nghiệp.
3.2. Những tác động của tiến trình CPH CTNN đối với TTCK
Ở Việt Nam, sự hình thành và phát triển TTCK không xuất phát từ nhu cầu đòi hỏi tự nhiên trong việc huy động vốn mà hình thành cơ sở những quy định và sự can thiệp của Nhà nước. TTCK Việt Nam còn khá mới mẻ vẫn trong quá trình xây dựng và hình thành, cũng chính vì vậy mà nó chịu tác động rất mạnh từ hoạt động CPH các CTNN.
Trên thực tế, sự hình thành và phát triển của của CTCP nói chung và CTNN CPH nói riêng là điều kiện, tiền đề cho sự hình thành TTCK. Khi các công ty đối vốn ra đời, với nét đặc trưng nhất là sự phân chia tài sản của công ty theo phần và các thành viên sở hữu công ty theo phần tỷ lệ vốn đã góp, chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ của công ty trong phần vốn góp đó, và phần vốn này có thể được chuyển nhượng. Cấc trúc vốn này đã tạo ra được khả năng dịch chuyển lợi ích sở hữu, thể hiện qua các cổ phiếu (chứng chỉ xác nhận cổ phần trong công ty). Khi thực hiện việc chuyển giao này, lợi ích được chuyển dịch qua cổ phiếu, chứng chỉ khác, còn bản thân tài sản đã góp vẫn là tài sản thuộc công ty và công ty vẫn tiếp tục tồn tại. Cuối cùng cùng với sự phát triển nhanh chóng của của nền kinh tế, nhu cầu vốn trở nên cấp bách, điều cần thiết là có một nơi để thực hiện các hoạt động mua bán, chuyển dịch các cổ phiếu, chứng chỉ… và như một tất yếu TTCK được hình thành. Đặc biệt ở Việt Nam, với đặc trưng là số lượng các CTCP thành lập theo Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp không nhiều thì rõ ràng sự hình thành và tồn tại của TTCK phần lớn phụ thuộc và chịu sự tác động của tiến trình CPH CTNN. Theo thống kê năm 2005 có 5000 CTCP thì có tới 2000 doanh nghiệp là các CTNN CPH [4].
Bên cạnh việc tạo ra tiền đề cho sự hình thành TTCK, tiến trình CPH còn tác động đến sự phát triển của thị trường này, quá trình CPH các CTNN sẽ làm phong phú về số lượng và tác động đến chất lượng hàng hoá trên TTCK. Các CTNN thuộc đối tượng CPH hoạt động trong rất nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau, từ những doanh nghiệp có quy mô nhỏ đến các công ty, tổng công ty nhà nước có vốn điều lệ lên đến hàng nghìn tỷ đồng, lĩnh vực hoạt động cũng rất đa dạng từ các ngành có độ rủi ro cao như: ngân hàng, bảo hiểm,… đến các lĩnh vực ít có biến động như: điện, nước sinh hoạt,… Việc CPH, bán đấu giá cổ phần đăng ký niêm yết cổ phiếu của các công ty này sẽ có tác động to lớn đến quá trình CPH. Thông qua việc làm xuất hiện thêm một lượng CTCP có tiềm lực do thừa kế vốn, công nghệ, lao động từ các CTNN CPH, hàng hoá chứng khoán trên thị trường sơ cấp, TTGDCK, đặc biệt trên thị trường OTC sẽ nhiều hơn, ảnh hưởng của thị trường vốn quan trọng này đến nền kinh tế ngày càng rõ nét hơn. Đặc biệt với sự tham gia của các công ty, tổng công ty lớn vào TTCK còn có tác dụng dẫn dắt thị trường, góp phần tạo tính ổn định cho thị trường còn rất nhiều biến động này.
Không chỉ tạo ra nguồn hàng phong phú, hoạt động CPH các CTNN còn góp phần nâng cao chất lượng hàng hoá trên TTCK. Các nhà đầu tư khi tham gia TTCK có tiềm lực về vốn và khả năng chấp nhận mạo hiểm ở mức độ khác nhau nhưng mục đích chung hướng đến đều là lợi nhuận. Khi tham gia và thực hiện các quyết định đầu tư, các nhà đầu tư này đều phải tìm hiểu kỹ lưỡng các thông tin liên quan đến công ty. Vì vậy các CTNN CPH muốn thu hút được nhà đầu tư, bán được cổ phần đều phải chú trọng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, quảng bá doanh nghiệp. Ở Việt Nam tiến trình CPH đã được thực hiện thí điểm từ năm 1990 và cho đến nay đã có một số lượng lớn các CTNN được CPH, trong đó có rất nhiều các công ty thực hiện niêm yết trên TTCK, phần lớn các công ty nay đều đạt được những kết quả cao trong sản xuất kinh doanh, nhất là sự tăng trưởng về vốn, lợi nhuận một cách đột biến, thần kỳ.
Có thể nói quá trình CPH là nhân tố có ý nghĩ rất lớn đối với sự hình thành và phát triển TTCK. Tuy nhiên quá trình này không phải là không bộc lộ những tồn tại ảnh hưởng tới sự phát triển của TTCK, biểu hiện ở những nội dung sau:
Về vấn đề phát triển thị trường: TTCK ở Việt Nam mới hình thành, hơn nữa, trên nền tảng của một nền kinh tế chuyển đổi, phát triển ở trình độ thấp nên quy mô còn nhỏ bé. Trong khi đó các CTNN tiến hành CPH tuy có sự tăng nhanh về “lượng” nhưng về “chất” vẫn còn nhiều vấn đề. Đại bộ phận các CTNN đã thực hiện CPH đều có quy mô vừa và nhỏ, sau khi CPH vẫn còn một phần lớn vốn Nhà nước, những doanh nghiệp này khi tham gia vào T