Đầu thế kỉ XX, châu Á thức tỉnh, phong trào cách mạng dân chủ tư sản ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa như Iran, Thổ Nhĩ Kì, Trung Quốc, Ấn Độ mang một nội dung mới: Đấu tranh yêu nước giải phóng dân tộc kết hợp đấu tranh giành quyền dân chủ.
Ở nước ta, vào những năm đầu thế kỉ XX, dưới tác động của chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, nền kinh tế - xã hội Việt Nam có sự biến đổi. Nền kinh tế có tính chất tự nhiên, tự cấp, tự túc đã bị phá vỡ, mặc dù chưa tan rã hoàn toàn. Nền nông nghiệp cổ truyền còn chiếm ưu thế, nhưng một nền công thương nghiệp theo kiểu tư bản đã xuất hiện, thể hiện một cảnh quan mới, khác lạ ở Việt Nam và hơn hẳn chế độ phong kiến. Đồng thời, mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp ngày càng sâu sắc.
Trước sự suy tàn của chế độ phong kiến và những yêu cầu mới của lịch sử, những người yêu nước Việt Nam đã ý thức được sự lỗi thời của thiết chế cũ về mọi mặt, họ nhận thấy rằng, “quan niệm trung quân ái quốc” của thời kì Cần Vương không thể là con đường cứu nước, cứu dân được nữa. Đây là những tiền đề cho sự hình thành một khuynh hướng cách mạng mới.
Đúng lúc, các tân thư, tân văn của Trung Quốc, Nhật Bản dội vào nước ta đã giới thiệu những tư tưởng dân chủ tư sản của phương Tây dưới lăng kính của các nhà tư tưởng lập hiến. Các học thuyết về nhân đạo, dân quyền của những nhà tư tưởng trong trào lưu triết học ánh sáng Pháp thế kỉ XVIII cũng truyền bá vào Việt Nam, được các sĩ phu yêu nước tiến bộ tiếp thu nồng nhiệt. Trào lưu tư tưởng đó đã cổ vũ, hướng theo họ lí tưởng của cuộc Cách mạng Pháp (1789), cuộc vận động Duy Tân (1898) và Cách mạng Tân Hợi (1911) ở Trung Quốc, giúp họ đoạn tuyệt những tư tưởng quân chủ bảo hoàng, chuyển sang tư tưởng dân chủ cộng hòa. Mặt khác, hơn 30 năm sau duy tân, Nhật Bản đã trở thành một nước tư bản hùng mạnh, nhất là sau chiến thắng vang dội của quân đội Nhật trong chiến tranh Nga – Nhật (1904-1905) càng củng cố niềm tin của các sĩ phu yêu nước vào con đường cách mạng tư sản và họ đã dấy lên một cuộc vận động yêu nước theo khuynh hướng này.
74 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 5848 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cuộc vận động yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam đầu thế kỉ XX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cuộc vận động yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam đầu thế kỉ XX
MỞ ĐẦU
Đầu thế kỉ XX, châu Á thức tỉnh, phong trào cách mạng dân chủ tư sản ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa như Iran, Thổ Nhĩ Kì, Trung Quốc, Ấn Độ… mang một nội dung mới: Đấu tranh yêu nước giải phóng dân tộc kết hợp đấu tranh giành quyền dân chủ.
Ở nước ta, vào những năm đầu thế kỉ XX, dưới tác động của chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, nền kinh tế - xã hội Việt Nam có sự biến đổi. Nền kinh tế có tính chất tự nhiên, tự cấp, tự túc đã bị phá vỡ, mặc dù chưa tan rã hoàn toàn. Nền nông nghiệp cổ truyền còn chiếm ưu thế, nhưng một nền công thương nghiệp theo kiểu tư bản đã xuất hiện, thể hiện một cảnh quan mới, khác lạ ở Việt Nam và hơn hẳn chế độ phong kiến. Đồng thời, mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp ngày càng sâu sắc.
Trước sự suy tàn của chế độ phong kiến và những yêu cầu mới của lịch sử, những người yêu nước Việt Nam đã ý thức được sự lỗi thời của thiết chế cũ về mọi mặt, họ nhận thấy rằng, “quan niệm trung quân ái quốc” của thời kì Cần Vương không thể là con đường cứu nước, cứu dân được nữa. Đây là những tiền đề cho sự hình thành một khuynh hướng cách mạng mới.
Đúng lúc, các tân thư, tân văn của Trung Quốc, Nhật Bản dội vào nước ta đã giới thiệu những tư tưởng dân chủ tư sản của phương Tây dưới lăng kính của các nhà tư tưởng lập hiến. Các học thuyết về nhân đạo, dân quyền của những nhà tư tưởng trong trào lưu triết học ánh sáng Pháp thế kỉ XVIII cũng truyền bá vào Việt Nam, được các sĩ phu yêu nước tiến bộ tiếp thu nồng nhiệt. Trào lưu tư tưởng đó đã cổ vũ, hướng theo họ lí tưởng của cuộc Cách mạng Pháp (1789), cuộc vận động Duy Tân (1898) và Cách mạng Tân Hợi (1911) ở Trung Quốc, giúp họ đoạn tuyệt những tư tưởng quân chủ bảo hoàng, chuyển sang tư tưởng dân chủ cộng hòa. Mặt khác, hơn 30 năm sau duy tân, Nhật Bản đã trở thành một nước tư bản hùng mạnh, nhất là sau chiến thắng vang dội của quân đội Nhật trong chiến tranh Nga – Nhật (1904-1905) càng củng cố niềm tin của các sĩ phu yêu nước vào con đường cách mạng tư sản và họ đã dấy lên một cuộc vận động yêu nước theo khuynh hướng này.
I. Hoàn cảnh lịch sử
1.1. Sự thất bại của phong trào yêu nước dưới ngọn cờ phong kiến và những vấn đề đặt ra trong phong trào giải phóng dân tộc
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng chính thức xâm lược Việt Nam. Lúc đầu, triều đình Huế cũng lãnh đạo quần chúng nhân dân đứng lên đấu tranh chống Pháp để bảo về độc lập chủ quyền của đất nước. Đã có lúc chúng ta đã giành được thắng lợi, đẩy thực dân Pháp vào thế bị bao vây khốn đốn. Song sự bạc nhược, đớn hèn, thiếu kiên quyết, tư tưởng “thủ để hoàn” của vua quan nhà Nguyễn đã khiến cho cuộc chiến của chúng ta từng bước bị thất bại. Thực dân Pháp đã chớp lấy thời cơ, chiếm lấy từng phần lãnh thổ Việt Nam. Vớí hiệp ước Nhâm Tuất (5/6/1862), hiệp ước Giáp Tuất (15/3/1874), hiệp ước Hácmăng ngày (25/8/1883), hiệp ước Pa-tơ-nốt (6/6/1884), triều đình đã đi từ từng bước đến hoàn toàn đầu hàng thực dân Pháp.
Trái ngược với triều đình Huế, phong trào đấu tranh trong quần chúng nhân dân vẫn diễn ra rất mạnh mẽ và quyết liệt. Cuối thế kỷ XIX, phong trào vũ trang chống Pháp dưới ngọn cờ Cần Vương do vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết đứng đầu bùng nổ. Phong trào lan rộng ra khắp các địa phương, kéo dài cho đến hết thế kỷ XIX, với các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu như: khởi nghĩa Ba Đình (1886-1887), khởi nghĩa Bãi Sậy (1883-1892), khởi nghĩa Hùng Lĩnh (1887-1892), khởi nghĩa Hương Khê (1885-1896). Song phong trào Cần Vương cuối cùng đã tàn lụi với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Hương Khê (1896).
Sự thất bại các phong trào này, đã gây nên một không khí u ám báo trùm trong phong trào giải phóng yêu nước Việt Nam. Sĩ phu văn thân ở thế hệ trước bắt đầu bị phân hóa thành năm, bảy mảnh. Một số đã hy sinh trong kháng chiến, trong một cuộc chiến không cân sức, không có lý tưởng vững vàng. Một số khác bị bắt bớ, tù đày. Một số công khai quay trở về công tác với địch… Thế nhưng, đến thời điểm này, do tình trạng phân hóa trong cơ cấu xã hội Việt Nam xuất phát từ những chủ trương duy trì chế độ phong kiến lỗi thời, lạc hậu gây ra nên hệ tư tưởng mới không có điều kiện nảy nở, truyền bá từ bên ngoài vào. Trong điều kiện như vậy, cuộc dấu tranh yêu nước của nhân dân ta nửa cuối thế kỷ XIX vẫn không có con đường nào khác là hướng tới việc khôi phục lại chế độ cũ giống như mơ ước của Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết được thể hiện dưới dạng một bài học kêu gọi nhân dân: “chuyển loạn làm trị, chuyể ngụy làm an, khôi phục lại bờ cõi”. Người lãnh đạo tối cao cuối thế kỷ XIX, vẫn là sĩ phu văn thân yêu nước.
Tuy vậy, cũng có không ít sĩ phu vẫn một long sắt son với sự nghiệp cứu nước, cứu dân, ngày đêm trăn trở với câu hỏi: Vì sao dân tộc ta mất nước ? Làm thế nào và đi theo con đường nào để cứu được nước. Tóm lại, cuối thể kỷ XIX Việt Nam bước vào một thời kỳ xã hội lố lăng, vua là tượng gỗ, dân là than trâu, mọi người dân bị tước hết quyền dân sinh, dân chủ tối thiểu. Người nông dân bị cướp hét ruộng dất, công nhân bị bóc lột đến tận xương tủy. Phong trào giải phóng dân tộc ở nước ta đang lâm vào tình trạng bế tắc, khủng hoảng về một con đường cứu nước.
1.2. Những biến đổi về kinh tế - chính trị - xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX
1.2.1 Cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp
Năm 1897, Pôn Đu - me được cử làm Toàn quyền Đông Dương. Ngay khi vừa đặt chân đến Đông Dương, y đã đưa ra chương trình hành động gồm 7 điểm, trong đó tập trung vào các vấn đề:
+ Hoàn thiện cơ cấu tổ chức hành chính trên toàn cõi và cho từng xứ ở Đông Dương.
+ Sửa đổi chế độ tài chính, thuế khóa, xây dựng các thiết bị khai thác, tạo điều kiện chắc chắn cho tư bản Pháp đầu tư vào Đông Dương.
+ Ổn định tình hình chính trị và quân sự, đồng thời khuếch trương ảnh hưởng của Pháp ra khỏi vùng Viễn Đông, nhất là đối với các nước lân cận.
Để thực hiện chương trình trên, Dume đã cho thi hành một loạt chính sách trên tất cả các mặt từ chính trị, kinh tế, xã hội đến quân sự, văn hóa, giáo dục:
+ Về chính trị:
Chúng áp dụng triệt để chính sách chia để trị, “dùng người bản xứ trị người bản xứ”. Tổ chức liên bang Đông Dương (thành lập từ năm 1887) tiếp tục kiện toàn để chia rẽ nhân dân Đông Dương trong một cấu trúc thống nhất giả tạo, xóa tên Việt Nam, Lào, Campuchia trên bản đồ thế giới. Chúng liên kết với các thế lực phong kiến phản động ở Việt Nam để đàn áp về chính trị và vơ vét, bóc lột về kinh tế.
Song song với việc tổ chức hành chính nhà nước là bộ máy quân sự, cảnh sát, tòa án, nhà tù. Chúng ra sắc lệnh bắt thanh niên Việt Nam đi lính, lập lực lượng lính khố xanh (6/1897), xây dựng lực lượng cảnh sát đặc biệt, lập sở tình báo an ninh.
+ Về văn hóa giáo dục
Ngu dân về giáo dục, đầu độc về văn hóa là một trong những biện pháp cai trị của thực dân Pháp. Mục tiêu của chính sách này là hướng vào việc xác lập và duy trì vĩnh viễn ách thống trị của thực dân. Vì vậy, tùy theo yêu cầu về chính trị mà ở từng giai đoạn cụ thể, thực dân Pháp đã cho thi hành những chính sách về giáo dục khác nhau.
Song song với chính sách giáo dục nô dịch, thực dân Pháp còng cho thi hành một số chính sách phản động về văn hóa nhằm phá hoại lòng tự hào dân tộc, reo rắc tư tưởng tự ti trong nhân dân, duy trì nếp sống hủ lậu của xã hội cũ và truyền bá nếp sống tư sản phương Tây không kém phần hủ bại.
+ Về kinh tế:
Trong chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897 – 1914), thực dân Pháp đã chú trọng đẩy mạnh đầu tư vào Đông Dương (từ năm 1896 đến năm 1914 đầu tư 514 triệu Phơrăng vàng dưới hình thức vốn nhà nước).
Ngoài việc vơ vét thóc gạo để xuất khẩu, bọn thực dân còn tăng cường việc tước đoạt ruộng đất lập đồn điền. Khi nền nông nghiệp mang các yếu tố tư bản chủ nghĩa xuất hiện thì tất yếu sẽ dẫn đến sự xuất hiện các cơ sở công nghiệp chế biến và sản xuất hàng hóa. Các nhà máy xay xát, xay bột, nấu rượu nối tiếp nhau mọc lên. Để có đủ lượng gạo xuất khẩu, thương nhân Pháp được chính quyền thực dân giúp đỡ đã sử dụng mọi hình thức ép nông dân phải bán rẻ cho chúng số lúa gạo ít ỏi của mình. Nông dân do đó bị kiệt sức, không còn khả năng để cải tiến kĩ thuật canh tác.
Tình hình trên đã dẫn đến hậu quả là nông nghiệp Việt Nam vẫn ở nguyên tình trạng độc canh, năng suất rất thấp mà lại phải đáp ứng nhu cầu xuất khẩu cao, cho nên đời sống nhân dân, nhất là nông dân vô cùng bi đát.
Nền công nghiệp Việt Nam lúc này nằm trong tay nhà nước thực dân. Hướng phát triển của nó đã được vạch sẵn là: “Chỉ giới hạn trong phạm vi sao cho nền công nghiệp đó không tổn hại đến công nghiệp chính quốc. Nền công nghiệp chính quốc phải được nền công nghiệp thuộc địa bổ sung chứ không bị nền công nghiệp này phá hoại”. Nói cách khác, công nghiệp thuộc địa được đẻ ra là để làm những cái mà công nghiệp Pháp không thể làm được, để cung cấp những sản phẩm đến những nơi mà sản phẩm công nghiệp Pháp không đến được.
Phần lớn hàng tiêu dùng phải nhập từ Pháp.
Do đó có thể nói rằng nền kinh tế Việt Nam đầu thế kỉ XX về cơ bản vẫn mang nặng tính tự cung tự cấp. Các ngành thủ công do đó còn rất cần thiết. Nhưng hàng hóa nhập từ Pháp ngày càng nhiều cùng với chính sách độc quyền kinh tế của nhà nước thực dân đã làm cho nhiều ngành thủ công dân gian gặp khó khăn. Hàng tiêu dùng cần thiết cho nhân dân hết sức khan hiếm.
Pháp độc chiếm thị trường Đông Dương, nắm nguồn thuế, độc quyền thương mại, thuế quan, xuất nhập khẩu. Hai thứ thuế trực thu và gián thu tăng mạnh. Nhiều thứ thuế mới được đặt ra để nuôi sống một số lượng quan lại đông đúc, nhất là các quan chức Pháp lương cao, đồng thời góp tiền của để hoàn chỉnh cơ sở kĩ thuật cho cuộc khai thác thuộc địa đại quy mô của Pháp.
Tất cả các vấn đề trên đây đã tác động mạnh mẽ đến xã hội Việt Nam, làm cho xã hội đó bị lay động đến tận nền tảng của nó. Từ một nước phong kiến tuy lạc hậu nhưng là một nước độc lập thống nhất, từ đây Việt Nam biến thành một nước bị đô hộ, chia cắt với một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, có đổi mới nhưng không thật sự tiến bộ và cởi mở, ngược lại ngày càng bị lệ thuộc vào đế quốc Pháp.
1.2.2. Tác động đến xã hội Việt Nam
Cuộc khai thác thuộc địa quy mô của thực dân Pháp cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX đã làm cho cơ cấu kinh tế Việt Nam có những chuyển biến quan trọng. Phương thức bóc lột tư bản chủ nghĩa bắt đầu du nhập vào nước ta, thâm nhập vào các khu vực kinh tế nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp, kết hợp với phương thức sản xuất phong kiến (do thực dân Pháp cố tình duy trì) đã dẫn tới hình thành phương thức bóc lột thuộc địa, đảm bảo siêu lợi nhuận tối cao cho thực dân Pháp và phong kiến tay sai. Trong bối cảnh đó, xã hội Việt Nam từ đầu thế kỉ XX bắt đầu có sự thay đổi nhanh chóng.
- Các giai cấp cũ phân hóa. Nông dân và thợ thủ công bị bần cùng hóa và phá sản hàng loạt.
Các giai cấp địa chủ được thực dân Pháp nâng đỡ nên thế lực kinh tế và chính trị của giai cấp này tăng lên.
Ngoài địa chủ Pháp, địa chủ nhà thờ, địa chủ quan lại, địa chủ thường, còn xuất hiện thêm các địa chủ kiêm công thương.
Địa chủ Việt Nam phát triển hơn trước, trở thành chõ dựa vững chắc cho thực dân Pháp trong công cuộc khai thác thuộc địa và duy trì trật tự có lợi cho chúng.
- Một số giai cấp và tầng lớp mới ra đời như giai cấp công nhân. Tuy nhiên, giai đoạn này công nhân nước ta còn đang trong giai đoạn tự phát.
Sự ra đời của giai cấp công nhân Việt Nam trước giai cấp tư sản dân tộc là một đặc điểm lịch sử, quy định những nét đặc thù sự phát triển của phong trào cách mạng Việt Nam.
Ngoài giai cấp công nhân, còn xuất hiện tầng lớp tư sản và tiểu tư sản thành thị. Vì bị thực dân Pháp chèn ép nặng nề, tư sản Việt Nam phát triển chậm chạp về mọi mặt, chưa đủ điều kiện để hình thành một giai cấp. Tuy vậy, sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa nói chung và sự lớn lên của tầng lớp tư sản dân tộc nói riêng đã trở thành cơ sở thuận lợi cho sự tiếp thu các trào lưu tư tưởng cách mạng từ bên ngoài.
3. Sự thức tỉnh của Châu Á và sự truyền bá Tân thư, tân văn vào Việt Nam
Sự thức tỉnh của Châu Á là khái niệm của Lênin đầu thế kỉ XX dùng để chỉ những trào lưu tư tưởng muốn thoát khỏi chế độ phong kiến để vươn tới những nền văn minh mới ở Châu Âu. Phong trào ấy bắt đầu ở Nga với xu hướng cải tổ nhằm thủ tiêu chế độ Nga Sa hoàng, thiết lập chế độ tư bản chủ nghĩa ở Nga. Sau đó trào lưu tư tưởng này xuất hiện ở Tây Ban Nha, Mianma, Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Việt Nam, Nhật Bản… Khi nói tới sự thức tỉnh của Châu Á, người ta hay nói đến Trung Quốc, Nhật Bản, trong đó có sự xuất hiện của những cuốn sách, những tờ báo đề cập những vấn đề về kinh tế, chính trị, tư tưởng của phương Tây.
Năm 1868, Nhật Bản tiến hành cuộc Minh Trị duy tân. Cuộc cải cách này đã giúp Nhật thoát khỏi thân phận thuộc địa của tư bản phương Tây, và hơn nữa còn nhanh chóng phát triển thành một cường quốc. Đặc biệt, năm 1905, Nhật Bản đánh thắng Nga hoàng. Sự kiện này đã gây chấn động lớn đến các nước Châu Á, làm xuất hiện trào lưu sùng bái Nhật, muốn học theo Nhật Bản.
Ở Trung Quốc, vào năm 1899, Lương Khải Siêu và Khang Hữu Vỹ đã vận động vua Quang Tự tiến hành cuộc cải cách mà sách vở gọi là biến pháp. Mở đầu cuộc vận động là chống lề thói phong kiến, vận động mở trường học, thư quán, báo quán để tuyên truyền tư tưởng mới, dân chủ tiến bộ; khuyến khích, chấn hưng nền kinh tế dân tộc. Những biện pháp này đã động chạm đền quyền lợi của triều đình phong kiến Trung Hoa nhất là quyền lợi của phái Bảo thủ do Từ Hy Thái hậu cầm đàu. Phái bảo thủ đã sử dụng quân đội, thậm chí liên kết với tư bản nước ngoài, sử dụng vũ lực để đàn áp phái cải cách. Nhiều người trong phái cải cách đã bị bắt, tra tấn, tù đày. Một số người chạy sang nước ta. Họ đem theo tất cả tài liệu, tân thư tân văn vào. Đến lượt mình, các nhà nho Việt Nam đón nhận rất hồ hởi. coi như món ăn tinh thần vô giá.
Cùng với ảnh hưởng của Nhật Bản, Trung Quốc, làn sóng Tân thư tràn vào Việt Nam. Có thể khẳng định Tân Thư là một hiện tượng chung của các nước Châu Á lúc bấy giờ trước nguy cơ bành trướng của chủ nghĩa tư bản chủ nghĩa phương Tây. Nhưng do hoàn cảnh và các điều kiện của mỗi nước khác mà sự du nhập Tân Thư và ảnh hưởng của loại sách đó đối với mỗi nước khác nhau mà sự du nhập Tân Thư và ảnh hưởng của loại sách đó đối với mỗi nước không giống nhau. Ở Việt Nam từ đầu thế kỉ XX, dưới ảnh hưởng của chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, cơ cấu kinh tế cũng như cơ cấu xã hội đã có nhiều biến chuyển mới.
Từ đầu thế kỉ XX cho đến chiến tranh thế giới I, xã hội Việt Nam ở vào buổi giao thời, xét về mặt phân hóa giai cấp, ngoài các giai cấp cũ của xã hội phong kiến là địa chủ và nông dân đã bắt đầu hình thành những giai tầng mới.
Trước hết là giai cấp tư sản và giai cấp vô sản đang trong quá trình hình thành. Cùng với sự mở mang đô thị và các bộ máy hành chính, sự nghiệp của chính quyền thực dân, giai cấp tiểu tư sản thành thị cũng đã ra đời. Nhưng đó là một giai cấp trung gian, phức tạp, không có hệ tư tưởng riêng, do đó không có khả năng lãnh đạo cách mạng.
Thực dân Pháp cũng đã mở một số trường học. Nhưng trong thời gian đầu thế kỉ, chúng chỉ mới nhằm đạo tạo một số công chức và kinh tế viên cấp thấp. Do đó, tầng lớp trí thức Tây học chưa có mấy người.
Trong những điều kiện như trên, bộ phận có tinh thần yêu nước và tiến bộ trong tầng lớp trí thức. Nho học đã được lịch sử giao cho một số nhiệm vụ trong chức năng lãnh đạo cách mạng Việt Nam (nuôi dưỡng tinh thần yêu nước của nhân dân, tố cáo tội ác của giặc, tiếp thu tư tưởng mới, đưa ra đường lối cứu nước…). Vào thời điểm đầu thế kỉ, bộ phận này của tầng lớp trí thức Nho học là những người có khả năng nhất trong việc vận động phong trào cứu nước và học hỏi, tiếp thu các tư tưởng. Tự giác hay không tự giác, họ đã đảm nhận sứ mệnh mà lịch sử đã giao cho họ trong buổi giao thời của xã hội.
Các nhà Nho yêu nước hồi đầu thế kỉ có nhược điểm cố hữu là được đào tạo trong trường Nho học cũ kĩ, không biết tiếng nước ngoài nào khác ngoài Trung Quốc, họ chỉ có thể tiếp xúc với tư tưởng mới qua các sách báo Trung Quốc. Tình hình này chẳng những hạn chế họ rất nhiều trong việc tiếp thu cái mới mà luôn đặt họ trước nguy cơ chỉ có thể tiếp thu được các học thuyết của phương Tây đã bị “khúc xạ” qua tư tưởng của các tác giả và dịch giả Trung Quốc.
Đối với các nhà Nho hồi đầu thế kỉ XX đã thấy sự lỗi thời của Nho giáo và đang khao khát giải thích nhiều vấn đề có liên quan đến sự nghiệp giải phóng dân tộc, Tân Thư đã có sức hút mãnh liệt.
Niềm say mê Tân Thư còn được kích thích thêm bởi tấm gương duy tân của nước Nhật “đồng văn đồng chủng”, và bởi các sự kiện trên thế giới như cuộc chính biến Mậu Tuất 1898 ở Trung Quốc, chiến tranh Nga – Nhật 1904 – 1905, Cách mạng Tân Hợi 1911.
Các nhà Nho Việt Nam yêu nước đầu thế kỉ XX đã say mê Tân Thư không phải là để thỏa mãn lòng yêu thích cái mới lạ, mà là để tìm phương sách giải quyết vấn đề dân tộc. Họ đã vận dụng các học thuyết mà họ tiếp thu được từ Tân Thư vào sự nghiệp cứu nước. Tình hình Việt Nam lúc bấy giờ có nhiều điểm khác Trung Quốc. Họ không rập khuôn máy móc những trào lưu duy tân của Trung Quốc.
Tóm lại, tư tưởng tư sản đã được đưa vào Việt Nam từ những năm cuối thế kỉ XIX sang đầu thế kỉ XX, thông qua các cuốn Tân Thư theo hai con đường Trung Quốc và Nhật Bản. Những cuốn sách của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, Đàm Tự Đồng, Nghiêm Phục… đề cập tới yêu cầu của cải cách thể chế chính trị, tổ chức kinh tế, giáo dục xã hội… theo lối phương Tây. Đồng thời còn có một số sách báo từ Nhật Bản tới của các tác giả Cát Điền Tùng Âm, Phúc Trạch Dụ Cát… Dù còn thiếu hệ thống và sơ sài nhưng nó cũng là chất men kích thích, có tác dụng giải tỏa những ràng buộc cũ trong suy nghĩ và hành động, hâm nóng bầu nhiệt huyết của những người yêu nước thức thời – tức bộ phận sĩ phu tiến bộ đầu thế kỉ XX – để bước vào thời kì mới.
II. Nội dung cuộc vận động yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam đầu thế kỉ XX
1. Khuynh hướng “dân chủ tư sản” và sự biểu hiện của nó ở Việt Nam
Khuynh hướng dân chủ tư sản là một khái niệm dùng để chỉ một hướng đi của phong trào duy tân mà theo đó sẽ có sự định hướng về con đường giải phóng và phát triển xã hội, đoạn tuyệt với chế độ quân chủ và hướng tới xã hội tiến bộ hơn. Sự tiến bộ đó sẽ được tìm thấy trong các mô hình xã hội phương Tây – cuộc cách mạng tư sản từ thế kỉ XVI – XVII. Nói cách khác, khuynh hướng dân chủ tư sản là một hướng đi, thoát khỏi xã hội phong kiến lạc hậu để xây dựng một xã hội tiến bộ theo mô hình phương Tây.
Khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam tồn tại song song với các khuynh hướng khác như khuynh hướng bảo hoàng. Khuynh hướng này còn ảnh hưởng ở nước ta cho đến tận Cách mạng tháng Tám 1945. Biến thiên của khuynh hướng dân chủ tư sản chịu sự chi phối của các màu sắc tư sản xuất hiện ở nhiều nước xunh quanh lúc bấy giờ. Đó là khuynh hướng quân chủ lập hiến. Nhật Bản là nước điển hình. Sau đó là Thái Lan, thực chất đó là thể chế chính trị dung hòa giữa tư sản với phong kiến, nhưng quyền lực thực tế trong tay giai cấp tư sản.
Ngoài ra, còn có thể chế cộng hòa. Đầu thế kỉ XX, có nước Trung Hoa dân quốc thành lập sau Cách mạng Tân Hợi (1911).
Như vậy, khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam xuất hiện như là một nhu cầu khách quan tất yếu nhằm hướng tới thay thế xã hội quân chủ bằng một thể chế cộng hòa tư sản, lúc đầu là quân chủ lập hiến rồi đến dân chủ cộng hòa.
+ Khuynh hướng dân chủ tư sản bắt nguồn từ nhu cầu nội tại sự phát triển của xã hội Việt Nam.
+ Xuất hiện từ nhu cầu của công cuộc giải phóng dân tộc. Nói cách khác, khuynh hướng dân chủ tư sản vừa là mục tiêu, vừa là phương tiện để đi tới độc lập. Điều này khác với cách mạng tư sản ở Châu Âu.
Sở dĩ có những đặc điểm như vậy là vì: các mầm mống tư bản tuy xuất hiện từ sớm nhưng lại không có điều kiện phát triển. Những nhân tố mới không đủ thắng thế lực cản của xã hội cũ. Đến khi nhà Nguyễn thắng Tây Sơn, để duy trì, bảo vệ chế độ phong kiến đã làm cho những nhân tố TBCN bị thui chột. Đến lúc nhà Nguyễn có sự biến đổi, nhận thức cần phát triển thì lúc đó thực dân