Trong những năm qua,Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc về phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tốc độ tăng trưởng nhanh,đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, xoá đói giảm nghèo và phát triển con người có những thành tựu to lớn,sức sản xuất được giải phóng mạnh mẽ.Những thành tựu về kinh tế đã tạo tiền đề cho sự ổn định về chính trị -xã hội,chủ quyền quốc gia được giữ vững.
Để có sự thay đổi đó thì có sự đóng góp to lớn của hoạt động đầu tư phát triển và công tác quản lý đầu tư.Vì tầm quan trọng của công tác đầu tư đối với nền kinh tế nên vấn đề đặt ra là phải nghiên cứu kĩ lưỡng những đặc điểm của đầu tư phát triển từ đó có phương hướng vận dụng các đặc điểm đó trong công tác quản lí hoạt động đầu tư cho phù hợp.
Bài viết “Đặc điểm của đầu tư phát triển và sự quán triệt các đặc điểm đó vào công tác quản lý đầu tư” tập trung làm rõ các đặc điểm của đầu tư phát triển và làm rõ yêu cầu đối với việc quán triệt các đặc điểm này trong công tác quản lí đầu tư của mỗi quốc gia.Đánh giá tình hình quán triệt các đặc điểm của đầu tư trong công tác quản lí đầu tư ở Việt Nam trong khoảng 10 năm trở lại đây từ năm 2000-2009
56 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1287 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đặc điểm của đầu tư phát triển và sự quán triệt các đặc điểm đó vào công tác quản lý đầu tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Lời mở đầu
Trong những năm qua,Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc về phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tốc độ tăng trưởng nhanh,đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, xoá đói giảm nghèo và phát triển con người có những thành tựu to lớn,sức sản xuất được giải phóng mạnh mẽ.Những thành tựu về kinh tế đã tạo tiền đề cho sự ổn định về chính trị -xã hội,chủ quyền quốc gia được giữ vững.
Để có sự thay đổi đó thì có sự đóng góp to lớn của hoạt động đầu tư phát triển và công tác quản lý đầu tư.Vì tầm quan trọng của công tác đầu tư đối với nền kinh tế nên vấn đề đặt ra là phải nghiên cứu kĩ lưỡng những đặc điểm của đầu tư phát triển từ đó có phương hướng vận dụng các đặc điểm đó trong công tác quản lí hoạt động đầu tư cho phù hợp.
Bài viết “Đặc điểm của đầu tư phát triển và sự quán triệt các đặc điểm đó vào công tác quản lý đầu tư” tập trung làm rõ các đặc điểm của đầu tư phát triển và làm rõ yêu cầu đối với việc quán triệt các đặc điểm này trong công tác quản lí đầu tư của mỗi quốc gia.Đánh giá tình hình quán triệt các đặc điểm của đầu tư trong công tác quản lí đầu tư ở Việt Nam trong khoảng 10 năm trở lại đây từ năm 2000-2009
Chương I : Những vấn đề lí luận chung về đầu tư phát triển và đặc điểm của đầu tư phát triển
1.1 Khái niệm
1.1.1 Khái niệm đầu tư
Đầu tư: là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để để đạt được kết quả đó
Các nguồn lực phải phải hy sinh có thể là tiền ,là tài nguyên thiên nhiên ,là sức lao động và trí tuệ.Những kết quả đạt được có thể là sự gia tăng tài sản vật chất , tài sản tài chính hoặc tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc với năng suất cao hơn cho nền kinh tế và cho toàn xã hội
1.1.2 Phân loại đầu tư dựa vào quan hệ quản lí của chủ đầu tư
Trong thực tế,có rất nhiều hình thái biểu hiện cụ thể của đầu tư .Tùy từng góc độ tiếp cận với những tiêu thức khác nhau người ta cũng có thể có các cách phân chia hoạt động đầu tư khác nhau.Dựa vào quan hệ quản lí của chủ đầu tư ta phân hoạt động đầu tư ra hai loại : Đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp.Thể hiện ở sơ đồ:
Đầu tư dịch chuyển
Đầu tư
Đầu tư trực tiếp
Đầu tư gián tiếp
Đầu tư phát triển
Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư trong đó người bỏ vốn không trực tiếp tham gia quản lí ,điều hành quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư.Chẳng hạn như nhà đầu tư thực hiện các hành vi mua các cổ phiếu hoặc trái phiếu trên thị trường chứng khoán thứ cấp.Trong các trường hợp này lợi ích mà chủ đầu tư có thể được hưởng là cổ tức cổ phiếu ,tiền lãi trái phiếu hay tiền lãi của khoản cho vay.hoặc cũng có thể là những lợi ích phi vật chất như quyền biểu quyết,quyền tiên mãi.
Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham gia vào quá trình quản lí ,điều hành quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư.Đầu tư trực tiếp bao gồm đầu tư dich chuyển và đầu tư phát triển.Trong đó đầu tư dich chuyển là một hình thức đầu tư trực tiếp trong đó việc bỏ vốn là nhằm mục đích dịch chuyển quyền sở hữu giá trị tài sản.Thực chất trong đầu tư dịch chuyển không có sự gia tăng giá trị tài sản.Chẳng hạn như việc nhà đầu tư mua một số lượng cổ phiếu với mức khống chế để có thể tham gia vào hội đồng quản trị của một công ty,các trương hợp thôn tính,sáp nhập
1.1.3 Khái niệm đầu tư phát triển
Đầu tư phát triển là một hình thức của đầu tư trực tiếp trong đó việc bỏ vốn nhằm gia tăng tài sản thực chất tức là làm gia tăng những tài sản vật chất(nhà xưởng,thiết bị…), và tài sản trí tuệ( tri thức ,kĩ năng…).Hoạt động đầu tư này nhằm duy trì và tạo ra năng lực mới trong sản xuất và kinh doanh hoặc cải tạo ,mở rộng năng lực hiện có,tạo thêm việc làm vì mục tiêu phát triển.
Đầu tư phát triển đem lại hiệu quả không chỉ cho nhà đầu tư mà cả nền kinh tế xã hội cũng được hưởng thụ.Còn đầu tư gián tiếp và đầu tư dich chuyển chỉ trực tiếp làm gia tăng tài sản của chủ đầu tư ,tác động gián tiếp đến làm tăng tài sản của nền kinh tế thông qua sự đóng góp tài chính tích lũy của các hoạt động đầu tư phát triển,thúc đẩy quá trình lưu thông phân phối các sản phẩm do các kết quả của đầu tư phát triển tạo ra.
Như vậy trong các hình thức đầu tư thi đầu tư phát triển là tiền đề ,là cơ sở cho các hoạt động đầu tư khác .Các hoạt động đầu tư gián tiếp,dịch chuyển không thể tồn tại và vận động nếu không có đầu tư phát triển.Vì thế trong phạm vi đề tài chỉ đề cập tới đầu tư phát triển (gọi tắt là đầu tư).
1.2. Phân loại đầu tư phát triển
Trong công tác quản lí và kế hoạch hoạt động đầu tư các nhà kinh tế phân loại hoạt động đầu tư theo nhiều tiêu thức khác nhau .Mỗi tiêu thức phân loại đáp ứng những nhu cầu quản lí và nghiên cứu kinh tế khác nhau.Những tiêu thức phân loại đầu tư thường được sử dung:
+ Theo bản chất của đối tượng đầu tư: Đầu tư cho các đối tượng vật chất (Đầu tư tài sản vật chất hoặc tài sản thực như nhà xưởng ,máy móc thiết bị…) và đầu tư cho các đối tượng phi vật chất (đầu tư tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực như đào tạo, nghiên cứu khoa học, y tế…).Trong đó đầu tư cho đối tượng vật chất là điều kiện tiên quyết ,cơ bản làm tăng tiềm lực của nền kinh tế,đầu tư tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực là điều kiện tất yếu để đảm bảo cho đầu tư các đối tượng vật chất tiến hành thuận lợi
+ Theo phân cấp quản lý: Đầu tư phát triển được chia thành đầu tư theo các dự án quan trọng quốc gia,dự án nhóm A,B,C .Dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định,nhóm A do Thủ tướng chính phủ quyết định,nhóm B và C do Bộ trưởng ,Thủ trưởng cơ quan ngang bộ,cơ quan trực thuộc chính phủ,UBND tỉnh thành phố trực thuộc trung ương quyết định.
+ Theo lĩnh vực hoạt động của các kết quả đầu tư: Đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng.Các hoạt động đầu tư này có quan hệ tương hỗ với nhau
+ Theo đặc điểm hoạt động của các kết quả đầu tư: Đầu tư cơ bản và đầu tư vận hành.Đầu tư cơ bản nhằm tái sản xuất các tài sản cố định.Đầu tư vận hành nhằm tạo ra cá tài sản lưu động cho các cơ sở sản xuất ,kinh đoanh dịch vụ mới hình thành,tăng thêm tài sản lưu động cho các cơ sở hiện có,duy trì hoạt động của cơ sở vật chất không thuộc doanh nghiệp.Đầu tư cơ bản quyết định đầu tư vận hành,đầu tư vận hành tạo điều kiện cho các kết quả đầu tư cơ bản phát huy hiệu quả.Đầu tư cơ bản là loại đầu tư dài hạn,quá trình đầu tư nhằm tái sản xuất mở rộng vì vậy mà phức tạp và đòi hỏi vốn đầu tư lớn,thu hồi vốn lâu.
+ Theo giai đoạn hoạt động của các kết quả đầu tư trong quá trình tái sản xuất xã hội: Đầu tư thương mại và đầu tư sản xuất. Đầu tư thương mại là hoạt động đầu tư mà thời gian thực hiện ngắn,vốn vận động nhanh còn đầu tư sản xuất là loại đầu tư dài hạn,vốn đầu tư lớn,thu hồi lâu
+ Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư: Đầu tư ngắn hạn và đầu tư dài hạn.
+ Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư: Đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
+ Theo nguồn vốn trên phạm vi quốc gia: Đầu tư bằng nguồn vốn trong nước và đầu tư bằng nguồn vốn nước ngoài .
+ Theo vùng lãnh thổ: Đầu tư phát triển của các vùng lãnh thổ, các vùng kinh tế trọng điểm, đầu tư phát triển khu vực thành thị và nông thôn…
1.3 Đặc điểm của đầu tư phát triển
Hoạt động đầu tư phát triển có những đặc điểm chủ yếu sau :
+ Quy mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư thường rất lớn.
Vốn đầu tư nằm khê đọng lâu trong suốt quá trình thực hiện đầu tư.
Lao động cần sử dụng cho các dự án rất lớn, đặc biệt đối với các dự án trọng điểm quốc gia. Do đó, công tác tuyển dụng, đào tạo, sử dụng và đãi ngộ cần tuân thủ một kế hoạch định trước, sao cho đáp ứng tốt nhất nhu cầu từng loại nhân lực theo tiến độ đầu tư, đồng thời, hạn chế đến mức thấp nhất những ảnh hưởng tiêu cực do vấn đề “hậu dự án” tạo ra như việc bố trí lao động, giải quyết lao động dôi dư…
+ Thời kỳ đầu tư kéo dài. Thời kỳ đầu tư tính từ khi khởi công thực hiện dự án đến khi dự án hoàn thành và đưa vào hoạt động. Nhiều công trình đầu tư phát triển có thời gian đầu tư kéo dài hàng chục năm.
+ Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài. Thời gian này tính từ khi dưa công trình vào hoạt động cho đến khi hết thời hạn hoạt động và đào thải công trình. Nhiều thành quả đầu tư phát huy kết quả lâu dài, có thể tồn tại vĩnh viễn như các Kim tự tháp Ai Cập, Nhà thờ La Mã ở Rôm, Vạn Lý Trường Thành ở Trung Quốc, ĂngCoVát ở Cam-pu-chia… Trong suốt quá trình vận hành, các thành quả đầu tư chịu sự tác động hai mặt, cả tích cực và tiêu cực của nhiều yếu tố tự nhiên, chính trị, kinh tế, xã hội…
+ Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển mà là các công trình xây dựng thường phát huy tác dụng ở ngay tại nơi nó được tạo dựng nên, do đó, quá trình thực hiện đầu tư cũng như thời kỳ vận hành các kết quả đầu tư chịu ảnh hưởng lớn của các nhân tố về tự nhiên, kinh tế xã hội vùng.
+ Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao. Do quy mô vốn đầu tư lớn, thời kỳ đầu tư kéo dài và thời gian vận hành các kết quả đầu tư cũng kéo dài… nên mức độ rủi ro của hoạt động đầu tư phát triển thường cao. Rủi ro đầu tư do nhiều nguyên nhân, trong đó, có nguyên nhân chủ quan từ phía các nhà đầu tư như quản lý kém, chất lượng sản phẩm không đạt yêu cầu… có nguyên nhân khách quan như giá nguyên liệu tăng, giá bán sản phẩm giảm, công suất sản xuất không đạt công suất thiết kế…
1.4 Yêu cầu quán triệt đặc điểm đầu tư phát triển trong quản lí đầu tư tại một quốc gia
1.4.1 Đối với đặc điểm thứ nhất.”quy mô tiền vốn và vạt tư và lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư thường rất lớn”
Vốn cho đầu tư phát triển phải lớn,vì vậy ta phải huy động vốn qua các kênh khác nhau, và dùng các biện pháp thích hợp:
Chúng ta cần phải huy động, thu hút tối đa mọi nguồn lực tài chính với phương châm "vốn trong nước là quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng". Gắn công tác huy động vốn thông qua việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu của DN các thành phần kinh tế, nhất là các DNNN cổ phần hóa với việc phát triển thị trường chứng khoán, đồng thời phải chú trọng tính hiệu quả an toàn và tác động tích cực của thị trường đến các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô.
Đối với vốn trong nước ta tạo điều kiện huy động vốn hợp lý bằng cơ chế lãi suất và những chính sách khuyến khích cổ phần hóa làm tăng nguồn vốn cho đầu tư phát triển, thực hiện đầu tư có trọng điểm,quản lý vốn đầu tư nhằm nâng cao hiệu quả của nguổn vốn sử dụng.
Đối với những nguồn vốn nước ngoài ta nên thực hiện chủ trương mở cửa,giảm các thủ tục rườm rà,tạo môi trường đầu tư hấp dẫn cho các nhà đầu tư. điều chỉnh quy hoạch ngành, nhằm dỡ bỏ các hạn chế đối với nhà đầu tư nước ngoài, phù hợp với các cam kết quốc tế song phương và đa phương; ban hành các quy hoạch ngành còn thiếu như quy hoạch mạng lưới các trường đại học, dạy nghề cùng các điều kiện, tiêu chuẩn cấp phép cho các dự án thuộc lĩnh vực này; đồng thời tăng cường đầu tư nâng cấp các công trình cơ sở hạ tầng, rà soát các dự án đã được cấp phép
Để đảm bảo tiến độ thực hiện đầu tư của dự án ,vừa để tránh ứ đọng vốn nên các nguồn tài trợ không chỉ xem xét về mặt số lượng mà về cả thời điểm nhận được tài trợ. Các nguồn vốn dự kiến này phải đảm bảo chắc chắn. Sự đảm bảo này thể hiện ở tính pháp lí và cơ sở thực tế của các nguồn vốn huy động.
Những nguồn vốn sau khi dc huy động ta phải quản lý chặt chẽ,tránh thất thoát nguồn vốn cũng như sử dụng nguồn vốn không hiệu quả
Lao động sử dụng cho đầu tư phát triển là rất lớn
Đầu tư phát triển cần rất số lượng lớn về lao đông,đặc biệt là công nhân kĩ thuật ,những lao động có kiến thức về kĩ năng quản lí ,những sinh viên tốt nghiệp đại học,cao đẳng. Hiện nay nhu cầu về những lao động này của tất cả các nước trên thế giới nói chung và nước ta nói riêng là rất lớn nhưng khả năng đáp ứng là chưa đủ,lượng lao động trong nước chủ yếu là nông dân và lao động trình độ thấp. Hiện tượng “thiếu về lượng,yếu về chất” đang là thực tế ở nước ta.Vấn đề trước mắt là đào tạo nguồn nhân lực,giải quyết tình trạng “thừa thầy thiếu thợ”.Đối với trường ĐH, cần củng cố chất lượng đào tạo, đội ngũ giảng viên; trường có chương trình đào tạo chất lượng cao theo nhu cầu doanh nghiệp đã được ký kết có thể đề xuất ngay mức học phí mới. Đối với doanh nghiệp, cần có thông tin về nhu cầu nhân lực của mình, hỗ trợ tài chính và tham gia vào quá trình đào tạo, xây dựng chương trình, cho sinh viên thực tập.Bên cạnh đó cần phải chú trọng hơn trong việc sử dụng nguồn nhân lực,nhiều sinh viên ra trường không có việc làm ngay,những công nhân sau dự án thường nhàn rỗi.Việc đãi ngộ công nhân viên chức cũng như đội ngũ giáo viên cũng là một việc hết sức quan trọng để cho việc đào tạo diễn ra một cách hiệu quả
1.4.2 Đối với đặc điểm thứ hai “ thời kì đầu tư kéo dài” .
Trong giai đoạn thực hiện đầu tư vấn đề thời gian là quan trọng hơn cả, 90 – 98% tổng vốn đầu tư được chia ra và huy động trong suốt những năm thực hiện đầu tư. Đây là những năm vốn không sinh lời, thời gian thực hiện đầu tư cũng kéo dài, vốn khê động càng nhiều tổn thất càng lớn, hơn nữa, nó còn ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Thời gian thực hiện đầu tư phụ thuộc nhiều vào công tác chuẩn bị đầu tư và quản lý quá trình thực hiện những hoạt động khác có liên quan trực tiếp đến các kết quả của quá trình thực hiện đầu tư đã được xem xét trong dự án đầu tư.
Quá trình thực hiện đầu tư gồm: hoàn tất thủ tục để triển khai thực hiện đầu tư, thiết kế và lập dự toán thi công xây lắp công trình, thi công xây lắp công trình, chạy thử và nghiệm thu sử dụng.
Như vậy yêu cầu quán triệt đặc điểm này của đầu tư phát triển là
+Cần quản lý sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư. Do ở giai đoạn này vốn nằm khê đọng trong thời gian dài nên để nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, cần tiến hành phân kỳ đầu tư, bố trí vốn và các nguồn lực tập trung hoàn thành dứt điểm từng hạng mục công trình, quản lý chặt chẽ tiến độ kế hoạch đầu tư, khắc phục tình trạng thiếu vốn, nhất là trong xâu dựng cơ bản.
+ Mặt khác, cần rút ngắn thời gian đầu tư, đảm bảo đúng tiến độ thi công công trình. Thời gian hoàn thành dự án càng ngắn thì chi phí và rủi ro càng ít. Hoạt động đầu tư luôn luôn gắn liền với yếu tố rủi ro, điều quan trọng là nhận biết và khắc phục được chúng trong quá trình thực hiện đầu tư. Kéo dài thời gian thực hiện là kéo thêm một khoản chi phí ( chi phí vốn, chi phí nguyên vật liệu, chi phí trả lương công nhân, chi phí tăng do lạm phát...), tăng thêm những rủi ro, bất trắc, mất đi cơ hội cạnh tranh trên thị trường, hiệu quả đầu tư vì thế cũng giảm sút.Bên cạnh đó cần quản lý chặt chẽ việc sử dụng nguyên vật liệu, tránh lãng phí, nâng cao hiệu suất sử dụng. Mặt khác cũng cần có sự đầu tư về mặt công nghệ, lắp đặt các dây chuyền thiết bị hiện đại, phù hợp với trình độ quản lý và sử dụng giúp cho chủ đầu tư nâng cao được chất lưọng sản phẩm, mặt khác lại tiết kiệm được đáng kể chi phí về vận hành, về nhân công, nguyên vật liệu và năng lượng, góp phần nâng cao hiệu quả trong thực hiện đầu tư.
1.4.3 Đối với đặc điểm thứ ba “Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài”.
Đây là giai đoạn quyết định tới việc dự án có thực hiện được các mục tiêu đề ra hay không,là quá trình thu hồi vốn,hiệu quả việc khai thác các nguồn lực được biểu hiện rõ nhất.Giai đoạn này kéo dài thường là vài năm,thậm chí vài chục năm hoặc lâu hơn do dó chịu tác động của rất nhiều yếu tố chủ quan lẫn khách quan.Vì vậy yêu cầu đặt ra đó là
Thứ nhất, xác định cơ chế và phương pháp dự báo khoa học ở cấp độ vĩ mô và vi mô về nhu cầu thị trường của sản phẩm dự án trong tương lai,khả năng cung của dự án trong từng năm,và cả đời dự án.Đối với mọi dự án thì điểm mấu chốt đó là sản phẩm của dự án phải được chấp nhận trên thị trường,sản phẩm có tiêu thụ được thì dự án mới có thể thu hồi vốn và sinh lời.vì vậy công tác dự báo là vô cùng quan trọng,công việc này phải được thực hiện nghiêm túc và tỉ mỉ ngay từ khi lập báo cáo nghiên cứu khả thi, đồng thời cũng phải được thực hiện thường xuyên trong quá trình vận hành dự án vì nhu cầu của thị trường thường xuyên có sự thay đổi.Sau khi tiến hành dự báo cầu về sản phẩm,phải tiến hành dự báo tới khả năng cung ứng của dự án từ đó mới có các quyết định thu hẹp hay mở rộng sản xuất cho phù hợp.Việc phân tích ,đánh giá tiềm năng và quy mô của dự án cần dựa trên cơ sở phân tích các tác động của môi trường vĩ mô như pháp luật,chính sách,kinh tế,văn hóa xã hội… ảnh hưởng tới triển vọng ra đời của dự án và quá trình vận hành kết quả đầu tư.Do đó dự báo nhu cầu thị trường về sản phẩm của dự án và khả năng cung ứng của dự án cần dựa trên các dự báo vĩ mô về nền kinh tế như tốc độ tăng trưởng, tỉ lệ lạm phát,lãi suất…
Thứ hai, phải quản lí tốt quá trình vận hành,nhanh chóng đưa thành quả đầu tư vào sử dụng hoạt động tối đa công suất của dự án.Quá trình vận hành thực chất là quá trình sản xuất kinh doanh cho nên vai trò của công tác quản trị là hết sức quan trọng.Có một cơ chế quản lí tốt có nghĩa là đã có một cách thức huy động và sử dụng các nguồn lực ( vốn,nguồn nhân lực,tài nguyên thiên nhiên…) một cách có hiệu quả.Mà việc quản lí tốt hay không lại phụ thuộc và cách thức tổ chức của bộ máy quản trị. Việc bố trí bộ máy quản trị phải đảm bảo các nguyên tắc :
+ thực hiện được các mục tiêu ,chương trình kế hoạch đã vạch ra
+ phải thống nhất lãnh đạo ,chỉ đạo quản lí
+ tổ chức bộ máy phải tinh gọn nhưng hiệu quả
+ quan hệ giữa các bộ phận lãnh đạo,điều hành ,quản lí phải rõ ràng
+ quyền hạn đi đôi với trách nhiệm
+ hợp tác nhằm thực hiện mục tiêu chung.
Trước sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ thì xảy ra hiên tượng hao mòn vô hình.đó là hiên tượng suy giảm thuần túy về giá trị của các tài sản cố định.Sự hao mòn vô hình ngày càng diễn ra mạnh mẽ,các máy móc thiết bị có thể bị lỗi thời nhanh chóng.Khoa học công nghệ cũng tác động làm rút ngắn vòng đời của sản phẩm.Vì vậy mà sau khi hoàn thành giai đoạn thực hiện đầu tư phải nhanh chóng đưa thành quả đầu tư vào sử dụng,phát huy tối đa công suất nhằm tránh hao mòn vô hình.Một nguyên nhân khác dẫn đến yêu cầu này đó là do nguồn vốn của dự án thường là vốn đi vay.nguồn vốn bị khê đọng không sinh lời trong suốt quá trình thực hiện đầu tư nhưng vẫn phải chịu chi phí lãi suất,do đó đưa thành quả đầu tư vào sử dụng càng sớm thì càng nhanh chóng thu hồi vốn,tiết kiệm được chi phí vốn.
Để nhanh chóng đưa vào sử dụng và phát huy tối đa công suất thì yêu cầu đặt ra là chủ đầu tư phải chuẩn bị một lượng vốn nhất định phục vụ chu kì đầu của sản xuất,tránh tình trạng sau khi xây xong dự án lại phải nằm chờ vì không có tiền cho sản xuất.Mặt khác phải đảm bảo nguồn cung nguyên liệu lâu dài và ổn định cho dự án
Thứ ba,chú ý đúng mức tới độ trễ thời gian trong đầu tư.Đầu tư năm nay nhưng thành quả đầu tư chưa chắc phát huy tác dụng ngay trong năm đó.Đây là đặc điểm rất riêng của lĩnh vực đầu tư ,ảnh hưởng lớn tới công tác quản lí hoạt động đầu tư.
1.4.4 Đối với đặc điểm thứ tư “Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển mà là các công trình xây dựng thường phát huy tác dụng ở ngay tại nơi nó được tạo dựng nên, do đó, quá trình thực hiện đầu tư cũng như thời kỳ vận hành các kết quả đầu tư chịu ảnh hưởng lớn của các nhân tố về tự nhiên, kinh tế xã hội vùng.
Trước hết cần phải có chủ trương đầu tư và quyết định đầu tư đúng
Để đưa ra được chủ trương, quyết định đầu tư thì cần phải xác định rõ ràng quy mô, tính chất, đặc điểm của dự án mà mình chuẩn bị đầu tư vào. Điều đó dẫn đến việc cần trả lời câu hỏi: đầu tư cái gì? – để xác định sản phẩm sản xuất ra là sản phẩm nào, mục đích tìm kiếm lợi nhuận của nhà đầu tư trên lĩnh vực nào; công suất dự kiến là bao nhiêu? – để xác định quy mô nhà máy, xí nghiệp; công nghệ được sử dụng là công nghệ nào?...Như vậy công tác nghiên cứu cơ hội đầu tư là lập dự án đầu tư là vô cùng quan trọng,có ý nghĩa quyết định tới thành công của dự án.Đối với cấp quản lí vĩ mô thì công tác quan trọng đó là quy hoạch hợp lí
Từ việc xác định rõ được các yêu cầu này thì đưa ra được sự lựa chọn một địa điểm đầu tư cho phù hợp.Việc