Kinh tế thế giới năm 2008 qua đi đã để lại những hậu quả lớn cho nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, khi khó khăn dần qua đi nền kinh tế thế giới đang tìm lại sự cần bằng và phát triển cần có. Là một thành viên trong cộng đồng thế giới, kinh tế Việt Nam cũng có những bước tiến đáng kể, bước lên từ trong khó khăn. Năm 2010 là một năm đáng nhớ đối với nền kinh tế Việt Nam, đan xen giữa những thành công trong điều kiện khó khăn là những vấn đề bộc lộ đòi hỏi phải giải quyết. Nhìn lại một năm đầy biến động của nền kinh tế có thể thấy rõ điều này. Trong bối cảnh khó khăn của kinh tế toàn cầu, dù nội lực nền kinh tế còn chưa mạnh, Việt Nam vẫn đạt tốc độ tăng trưởng 6,78%, cao hơn chỉ tiêu kế hoạch đề ra (6,5%). Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2010, con số này ước tăng 14% so năm trước và cao hơn kế hoạch năm (12%). Giá trị sản xuất toàn ngành nông, lâm, thủy sản cả năm 2010 ước tăng 4,69% so năm trước, trong đó nông nghiệp tăng 4,24%, lâm nghiệp tăng 4,6%, thủy sản tăng 6,05%. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tính chung cả năm 2010 ước đạt hơn 1.561,6 nghìn tỷ đồng, tăng 24,5% so với năm 2009. Thu ngân sách Nhà nước tính từ đầu năm đến ngày 15/12 ước đạt 504,4 nghìn tỷ đồng, bằng 109,3% dự toán năm.
Bên cạnh những thành tựu chung thì nhìn lại năm 2010, nền kinh tế cũng bộc lộ nhiều vấn đề. Kinh tế vĩ mô vẫn thiếu nền tảng vững chắc, chất lượng tăng trưởng thấp, tiềm ẩn không ít bất trắc, nếu không sớm khắc phục có thể ảnh hưởng đến sự phát triển ổn định trong những năm tiếp theo. Ðánh giá chung, tình hình kinh tế-xã hội năm 2010 phát triển theo chiều hướng tích cực, nền kinh tế phục hồi khá nhanh trong điều kiện kinh tế thế giới vẫn còn nhiều diễn biến phức tạp; an sinh xã hội được bảo đảm, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện; chính trị, xã hội tiếp tục ổn định. Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức: Thiên tai, lũ lụt đã gây thiệt hại rất lớn về người và tài sản; áp lực của nền kinh tế thế giới tác động không nhỏ đến nền kinh tế trong nước. Hy vọng bước sang năm 2011, năm đầu của thập niên mới, con thuyền kinh tế của Việt Nam sẽ không ngừng vươn lên, tiếp tục phát triển vững chắc nhằm đưa đời sống nhân dân ngày càng cải thiện hơn nữa.
Có thể thấy, Việt Nam có đẩy đủ các điều kiện thuận lợi để phát triển một nền kinh tế toàn cầu cởi mở hơn trong vòng 20 năm vừa qua. Bằng việc mở rộng ngoại thương và đầu tư và hòa nhập nhanh chóng với các nền kinh tế phát triển, Bằng việc mở rộng ngoại thương và đầu tư và hòa nhập nhanh chóng với các nền kinh tế phát triển, kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể. Kinh tế Việt Nam hiện nay đang đứng trước những thuận lợi cũng như những thách thức lớn, trong hoàn cảnh này, vai trò của công tác đầu tư phát triển trở nên hết sức quan trọng, là điểm mốc đánh dấu sự phát triển tương lai của đất nước. Bài viết “Đặc điểm của đầu tư phát triển và sự quán triệt những đặc điểm này trong công tác quản lí đầu tư” sẽ tập trung nghiên cứu đặc điểm của đầu tư phát triển tại Việt Nam cũng như định hướng cho công tác quản lí đầu tư hiệu quả trong thời gian tới.
68 trang |
Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1320 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đặc điểm của đầu tư phát triển và sự quán triệt những đặc điểm này trong công tác quản lí đầu tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài: Đặc điểm của đầu tư phát triển và sự quán triệt những đặc điểm này trong công tác quản lí đầu tư
MỤC LỤC
Mục lục
Phần mở đầu
Phần nội dung
Chương 1: Lý luận chung về đặc điểm của đầu tư phát triển và sự quán triệt những đặc điểm này trong công tác quản lý đầu tư
1.1. Khái niệm về đầu tư và đầu tư phát triển
1.1.1. Đầu tư
1.1.2. Đầu tư phát triển
Mối tương quan giữa đầu tư và đầu tư phát triển
Đặc điểm của đầu tư phát triển
1.2.1. Qui mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát triển thường rất lớn
1.2.2. Thời kì đầu tư kéo dài
1.2.3. Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài
1.2.4. Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển
1.2.5. Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao
1.3. Sự quán triệt những đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác quản lý đầu tư
1.3.1.Đặc điểm thứ nhất
1.3.2. Đặc điểm thứ hai
1.3.3. Đặc điểm thứ ba
1.3.4. Đặc điểm thứ tư
1.3.5. Đặc điểm thứ năm
Chương 2: Thực trạng về đầu tư phát triển và đánh giá sự quán triệt những đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác quản lý đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 2000-2010
2.1.Thực trạng chung về đầu tư phát triển ở Việt Nam
2.2. Thực trạng chung về công tác quản lý hoạt động đầu tư phát triển ở Việt Nam
2.3Đánh giá thực trạng sự quán triệt những đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác quản lý đầu tư ở Việt Nam
2.3.1. Đánh giá sự quán triệt đặc điểm thứ nhất
2.3.1.1. Thực trạng chuẩn bị và sử dụng tiền vốn đầu tư
2.3.1.1.1 Khả năng tạo lập huy động vốn đầu tư phát triển ngày càng tăng
2.3.1.1.2 Tình hình các nguồn vốn cho đầu tư phát triển
2.3.1.1.3 Một số bất cập trong việc huy động vốn hiện nay và giải pháp khắc phục
2.3.1.2. Thực trạng chuẩn bị và sử dụng nguồn nhân lực
2.3.1.3. Thực trạng chuẩn bị và sử dụng nguồn vật tư
2.3.2. Đánh giá sự quán triệt đặc điểm thứ hai
2.3.2.1. Thực trạng về lập kế hoạch vốn đầu tư cho thời kỳ đầu tư kéo dài
2.3.2.2. Tình trạng đầu tư dàn trải
2.3.2.3. Công tác quản lý giám sát còn thực hiện chưa tốt, dẫn đến tình trạng các công trình sai phạm, chất lượng thấp xảy ra ngày càng nghiêm trọng.
2.3.2.4. Nghiên cứu tình huống cụ thể trường hợp tập đoàn Vinashin
2.3.3. Đánh giá sự quán triệt của đặc điểm thứ ba:
2.3.3.1 Thực trạng về hoạt động xây dựng cơ chế trong họat động đầu tư
2.3.3.1.1 Cơ chế vận hành chính sách đầu tư:
2.3.3.1.1.1.Cơ chế vận hành chính sách đầu tư còn nhiều hạn chế
2.3.3.1.2.Quá trình bảo hành bảo trì ở Việt Nam vẫn chưa được đề cao đúng mức.
2.3.3.2. Phương pháp dự báo khoa học:
2.3.3.2.1. Phân loại
2.3.3.2.2. Quy trình dự báo
2.3.3.2.3. Tình hình các phương pháp/mô hình dự báo ở Việt nam
2.3.4. Đánh giá sự quán triệt của đặc điểm thứ tư
2.3.5. Đánh giá sự quán triệt đặc điểm thứ năm
Chương 3: Giải pháp tăng cường quán triệt những đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác quản lý đầu tư và nâng cao hiệu quả đầu tư
3.1. Dự báo xu hướng đầu tư phát triển trong giai đoạn 2011- 2015
3.2. . Giải pháp tăng cường quán triệt những đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác quản lý đầu tư và nâng cao hiệu quả đầu tư.
3.2.1. Nhóm giải pháp quán triệt đặc điểm thứ nhất
3.2.1.1. Giải pháp nâng cao hiệu quả quá trình huy động vốn
3.2.1.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quá trình sử dụng vốn
3.2.2. Nhóm giải pháp quán triệt đặc điểm thứ hai
3.2.2.1. Giải pháp tiến hành phân kì đầu tư
3.2.2.2. Giải pháp Thực hiện tốt cơ chế giám sát cộng đồng nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động đầu tư
3.2.3. Nhóm giải pháp quán triệt đặc điểm thứ ba
3.2.3.1. Giải pháp xây dựng cơ chế và phương pháp dự báo khoa học
3.2.3.2. Giải pháp quản lý tốt quá trình vận hành, nhanh chóng đưa các kết quả đầu tư vào sử dụng và hoạt động tối đa công suất
3.2.3.3. Giải pháp quan tâm đúng mức đến độ rễ thời gian trong đầu tư
3.2.4. Nhóm giải pháp quán triệt đặc điểm thứ tư
3.2.4.1. Giải pháp hoàn thiện các chủ trương , quyết định đầu tư
3.2.4.2. Giải pháp lựa chọnn đia điểm dầu tư hợp lý
3.2.5. Nhóm giải pháp quán triệt đặc điểm thứ năm
3.2.5.1. Giải pháp hoàn thiện, nâng cao hoạt động nhận diện và quá trình đánh giá mức độ rủi ro
3.2.5.2.Giải pháp xây dựng các biện pháp phòng và chống rủi ro
3.2.5.3. Giải pháp đối với Nhà nước
Phần kết luận
Tài liệu tham khảo
I.Phần mở đầu
Kinh tế thế giới năm 2008 qua đi đã để lại những hậu quả lớn cho nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, khi khó khăn dần qua đi nền kinh tế thế giới đang tìm lại sự cần bằng và phát triển cần có. Là một thành viên trong cộng đồng thế giới, kinh tế Việt Nam cũng có những bước tiến đáng kể, bước lên từ trong khó khăn. Năm 2010 là một năm đáng nhớ đối với nền kinh tế Việt Nam, đan xen giữa những thành công trong điều kiện khó khăn là những vấn đề bộc lộ đòi hỏi phải giải quyết. Nhìn lại một năm đầy biến động của nền kinh tế có thể thấy rõ điều này. Trong bối cảnh khó khăn của kinh tế toàn cầu, dù nội lực nền kinh tế còn chưa mạnh, Việt Nam vẫn đạt tốc độ tăng trưởng 6,78%, cao hơn chỉ tiêu kế hoạch đề ra (6,5%). Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2010, con số này ước tăng 14% so năm trước và cao hơn kế hoạch năm (12%). Giá trị sản xuất toàn ngành nông, lâm, thủy sản cả năm 2010 ước tăng 4,69% so năm trước, trong đó nông nghiệp tăng 4,24%, lâm nghiệp tăng 4,6%, thủy sản tăng 6,05%. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tính chung cả năm 2010 ước đạt hơn 1.561,6 nghìn tỷ đồng, tăng 24,5% so với năm 2009. Thu ngân sách Nhà nước tính từ đầu năm đến ngày 15/12 ước đạt 504,4 nghìn tỷ đồng, bằng 109,3% dự toán năm.
Bên cạnh những thành tựu chung thì nhìn lại năm 2010, nền kinh tế cũng bộc lộ nhiều vấn đề. Kinh tế vĩ mô vẫn thiếu nền tảng vững chắc, chất lượng tăng trưởng thấp, tiềm ẩn không ít bất trắc, nếu không sớm khắc phục có thể ảnh hưởng đến sự phát triển ổn định trong những năm tiếp theo. Ðánh giá chung, tình hình kinh tế-xã hội năm 2010 phát triển theo chiều hướng tích cực, nền kinh tế phục hồi khá nhanh trong điều kiện kinh tế thế giới vẫn còn nhiều diễn biến phức tạp; an sinh xã hội được bảo đảm, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện; chính trị, xã hội tiếp tục ổn định. Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức: Thiên tai, lũ lụt đã gây thiệt hại rất lớn về người và tài sản; áp lực của nền kinh tế thế giới tác động không nhỏ đến nền kinh tế trong nước. Hy vọng bước sang năm 2011, năm đầu của thập niên mới, con thuyền kinh tế của Việt Nam sẽ không ngừng vươn lên, tiếp tục phát triển vững chắc nhằm đưa đời sống nhân dân ngày càng cải thiện hơn nữa.
Có thể thấy, Việt Nam có đẩy đủ các điều kiện thuận lợi để phát triển một nền kinh tế toàn cầu cởi mở hơn trong vòng 20 năm vừa qua. Bằng việc mở rộng ngoại thương và đầu tư và hòa nhập nhanh chóng với các nền kinh tế phát triển, Bằng việc mở rộng ngoại thương và đầu tư và hòa nhập nhanh chóng với các nền kinh tế phát triển, kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể. Kinh tế Việt Nam hiện nay đang đứng trước những thuận lợi cũng như những thách thức lớn, trong hoàn cảnh này, vai trò của công tác đầu tư phát triển trở nên hết sức quan trọng, là điểm mốc đánh dấu sự phát triển tương lai của đất nước. Bài viết “Đặc điểm của đầu tư phát triển và sự quán triệt những đặc điểm này trong công tác quản lí đầu tư” sẽ tập trung nghiên cứu đặc điểm của đầu tư phát triển tại Việt Nam cũng như định hướng cho công tác quản lí đầu tư hiệu quả trong thời gian tới.
II.Phần nội dung
Chương 1: Lý luận chung về đặc điểm của đầu tư phát triển và sự quán triệt những đặc điểm này trong công tác đầu tư
1.1. Khái niệm về đầu tư và đầu tư phát triển
1.1.1. Đầu tư
Hiện nay đầu tư là một hoạt động khá phổ biến trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân . Nhưng trong mỗi lĩnh vực thì hoạt động đầu tư được biểu hiện dưới những tính chất khác nhau . Do đó có khá nhiều khái niệm đầu tư ra đời . Sau đây chúng tôi xin đưa ra một vài khái niệm về đầu tư
- Đầu tư là sự gia tăng của các tài sản hiện vật, là sự bỏ ra một cái gì đó ở hiện tại ( như tiền, sức lao động, của cải vật chất,trí tuệ) nhằm đạt được kết quả có lợi cho nhà đầu tư trong tương lai
-Đầu tư là sự sử dụng vốn để tạo ra các nhân tố sản xuất, đặc biệt là các tư liệu sản xuất như nhà xưởng,máy móc và vật tư cũng như để mua cổ phiếu, trái phiếu hoặc cho vay lấy lãi mà ở đó những chủ đầu tư này có thể sinh lợi dần hoặc thỏa mãn nhu cầu nào đó cho người bỏ vốn cũng như toàn xã hội tại thời gian nhất định trong tương lai
-Đầu tư là sử dụng vốn nhằm tạo nên các dự trữ và tiềm năng về tài sản để sinh lợi dần về thời gian trong tương lai ( Dự trữ : Sử dụng dần , VD: Nhà máy xây dựng để sử dụng dần )
-Đầu tư là một chuỗi hành động chi cho một chủ trương kinh doanh nào đó và từ đó chủ đầu tư sẽ thu được một chuỗi các khoản thu để đảm bảo hoàn vốn và có lãi một cách thích đáng
-Đầu tư là một quá trình quản lý, sử dụng tài snr một cách hợp lý(nhất là về mặt cơ cấu tài sản ) để sinh lời
-Đầu tư là sử dụng các khoản tiền tích lũy của xã hội ,của các cơ sở sản xuất kinh doanh và dịch vụ, tiết kiệm của dân vào tái sản xuất xã hội nhằm tạo ra tiềm lực lớn hơn về mọi mặt của đời sống xã hội
Từ những khái niệm trên chúng ta thấy rằng hoạt động đầu tư có những đặc điểm chung như sau:
+ Nguồn lực sử dụng sẽ không mất đi mà lớn hơn nguồn lực sử dụng ban đầu khi thực hiện hoạt động đầu tư
+ Mục tiêu của hoạt động đầu tư ở đây là kì vọng còn thực hiện hay không còn phụ thuộc nhiều yếu tố khác của chủ đầu tư
+ Đều phải bỏ ra một chi phí nhất định ở hiện tại
+ Phạm trù thời gian thường là dài
Từ đây ta có thể đưa ra khái niệm chung nhất về đầu tư :
“ Đầu tư nói chung là quá trình sử dụng các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được kết quả đó ”
Đầu tư phát triển:
Nguồn lực cho hoạt động đầu tư phát triển tương đối lớn do bản chất của hoạt động này mang tính phức tạp hơn các hoạt động đầu tư khác. Xét theo nghĩa hẹp,nguồn lực sử dụng cho đầu tư phát triển là tiền vốn nhưng xét theo nghĩa rộng, nguồn lực đầu tư bao gồm cả tiền vốn, đất đai, lao động,máy móc, thiết bị, tài nguyên. Do đó ,khi xem xét lựa chọn dự án đầu tư hay đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư phát triển cần tính đúng ,tính đủ các nguồn lực tham gia để đưa ra những quyết định hợp lý nhất
Đối tượng của đầu tư phát triển là tập hợp các yếu tố được chủ đầu tư bỏ vốn thực hiện nhằm đạt được mục tiêu nhất định trong tương lai. Mỗi đối tượng đều mang những nét đặc trưng riêng , trên mỗi góc độ của nền kinh tế nó lại mang một tính chất khác nhau .Vì vậy mà có khá nhiều cách phân loại đối tượng của đầu tư phát triển
+ Xét trên quan điểm phân công lao động xã hội có 2 nhóm đối tượng đầu tư chính là : Đầu tư theo ngành và đầu tư theo lãnh thổ
+ Xét trên góc độ tính chất và mục đích đầu tư chia thành 2 nhóm chính : Công trình vì mục đích lợi nhuận và công trình vì mục đích phi lợi nhuận
+Xét trên góc độ tầm quan trọng, đối tượng đầu tư chia thành: Loại được khuyến khích đầu tư, loại không được khuyến khích đầu tư, loại bị cấm đầu tư
+Xét trên góc độ tài sản, đối tượng đầu tư chia thành: Tài sản vật chất và tài sản vô hình
Kết quả của đầu phát triển là sự tăng thêm về tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và tài sản vô hình. Kết quả đạt được của đầu tư phát triển góp phần làm gia tăng năng lực sản xuất của xã hội. Hiệu quả của đầu tư phát triển phản ánh quan hệ giữa kết quả về cả mặt tài chính và mặt kinh tế xã hội , chi phí phải bỏ ra để đạt được kết quả đó trong một thời kì nhất định. Kết quả cũng như hiệu quả của hoạt động đầu tư phát triển cần được xem xét cả trên phương diện chủ đầu tư và xã hội ,nó phải đảm bảo sự kết hợp hài hòa giữa lợi ích của các bên , vừa phát huy vai trò chủ động sáng tạo của chủ đầu tư , vừa thực hiện tốt vai trò quản lý, kiểm tra giám sát của cơ quan quản lý nhà nước ở các cấp . Trên thực tế có những khoản đầu tư không trực tiếp tạo ra tài sản cho hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng lại rất quan trọng để nâng cao chất lượng cuộc sống và vì mục tiêu phát triển ,cũng được xem là đầu tư phát triển như : đầu tư cho y tế, đầu tư cho giáo dục...
Mục đích của đầu tư phát triển là vì sự phát triển bền vững, vì lợi ích của quốc gia, cộng đồng và nhà đầu tư. Mỗi chủ thể có liên quan tới hoạt động đầu tư phát triển đều vì một mục đích nhất định. Đối với các doanh nghiệp mục đích của họ là tối thiểu chi phí, tối đa lợi nhuận, nâng cao khả năng cạnh tranh và chất lượng nguồn nhân lực. Còn đầu tư nhà nước với mục đích thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập quốc dân , góp phần giải quyết việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
Đối với đầu tư phát triển thường được thực hiện bởi một chủ đầu tư nhất định . Xác định rõ chủ đầu tư có ý nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình quản lý đầu tư nói chung và vốn đầu tư nói riêng. Chủ đầu tư là người sở hữu vốn, ra quyết định đầu tư , quản lý quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư và là người hưởng lợi từ thành quả đầu tư đó. Chủ đầu tư chịu trách nhiệm kiểm tra, giám sát đầu tư, chịu trách nhiệm về những sai phạm và hậu quả do ảnh hưởng của đầu tư đến môi trường và môi sinh , vì vậy có ảnh hưởng quan trọng đến việc nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư
Hoạt động đầu tư phát triển là một quá trình tương đối dài và nảy sinh vấn đề về “độ trễ thời gian”. Độ trễ thời gian là sự không trùng hợp giữa thời gian đầu tư với thời gian vận hành các kết quả đầu tư. Đầu tư ở hiện tại nhưng kết quả thì thường thu được trong tương lai. Kiểm soát được độ trễ thời gian sẽ giúp cho chủ đầu tư đưa ra những quyết định hợp lý từ đó nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
Xét trên phương diện nền kinh tế đầu tư phát triển là hình thức đầu tư trực tiếp tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, đơn vị sản xuất và cung ứng dịch vụ. nó đóng vai trò quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế tại mỗi quốc gia
Do vậy chúng ta có thể khái quát như sau:
“Đầu tư phát triển là một hoạt động đầu tư trực tiếp, hoạt động đầu tư này nhằm duy trì và tạo ra năng lực mới trong sản xuất kinh doanh dịch vụ và sinh hoạt đời sống của xã hội”
Mối quan hệ giữa đầu tư phát triển và các loại hình đầu tư khác:
Trong nền kinh tế quốc dân hoạt động đầu tư được chia thành 3 nhóm chính : đầu tư tài chính, đầu tư thương mại và đầu tư phát triển . Mỗi hoạt động đầu tư này đều mang những đặc trưng của hoạt động đầu tư nói chung nhưng bên cạnh đó chúng lại khác nhau về mặt bản chất . Đầu tư tài chính là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá trị trên thị trường tiền tệ , thị trường vốn để hưởng lãi suất định trước hoặc lợi nhuận tùy vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát hành. Trong hoạt động đầu tư tài chính chủ đầu tư thường có kì vọng thu được lợi nhuận cao khi đầu tư nhưng thực tế lợi nhuận thu được có thể tăng giảm không theo ý muốn và thường được thực hiện gián tiếp thông qua các trung gian tài chính như: ngân hàng, công ty chứng khoán. Khác với hoạt động đầu tư phát triển , đầu tư tài chính không trực tiếp làm tăng tài sản thực cho nền kinh tế mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính cho chủ đầu tư. Còn đầu tư thương mại là hoạt động đầu tư trong lĩnh vực lưu thông và phân phối hàng hóa, người có tiền mua hàng hóa và bán với giá cao hơn để hưởng chênh lệch giá khi mua và khi bán . Khác với hoạt động đầu tư phát triển, nếu không xét đến quan hệ ngoại thương thì loại đầu tư này đầu tư thương mại cũng không trực tiếp tạo ra của cải vật chất cho nền kinh tế , những giá trị tăng thêm do hoạt động đầu tư thương mại mang lại chỉ là sự phân phối lại thu nhập giữa các ngành, các địa phương , các tầng lớp dân cư trong xã hội. Mặc dù như thế nhưng những hoạt động dầu tư này lại có mối quan hệ mật thiết với nhau. Đầu tư tài chính là kênh huy động vốn rất quan trọng cho hoạt động đầu tư phát triển và là một trong những loại hình đầu tư lựa chọn để tối đa hóa lợi ích, giảm thiểu rủi ro cho các chủ đầu tư . Với đầu tư thương mại lại chính là kênh phân phối cho đầu tư phát triển, nó quyết định tới khả năng thu hồi vốn và có lãi đối với hoạt động đầu tư này.
Đặc điểm của đầu tư phát triển
1.2.1. Qui mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát triển thường rất lớn
Bản chất của hoạt động đầu tư phát triển là nhằm duy trì và tạo ra năng lực sản xuất mới vì vậy hoạt động này thường gắn liền với quá trình hình thành một loại sản phẩm cho xã hội dưới dạng các công trình xây dựng, nhà xưởng ,máy móc trang thiết bị khoa học,hay thực hiện các chi phí phục vụ cho một chu kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào đó. Các sản phẩm này thường có tính chất và kết cấu phức tạp vì vậy mà để tạo được một sản phẩm như thế thường đòi hỏi một lượng vốn lớn. Mặt khác hoạt động đầu tư phát triển mang tính chất liên hoàn, đồng bộ tức là khi một công đoạn thi công chưa hoàn thành thì không thể vận hành hoặc vận hành nhưng không đạt được năng suất cao , chất lượng như dự tính cho nên thường lượng vốn cho đầu tư phát triển sẽ tồn tại dưới dạng sản phẩm dở dang , nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Hoạt động đầu tư phát triển có tính chất phức tạp hơn các hình thức đầu tư khác bởi sản phẩm của nó thường là vật chất, quy mô lớn vì vậy nên nguồn nguyên liệu đầu vào cũng phải phong phú, đa dạng và tương đối lớn ,có thể phải nhập khẩu từ nước ngoài. Đối với các dự án đầu tư phát triển thì phải thi công nhiều hạng mục công trình đòi hỏi kĩ thuật cao do đó cần một lượng lao động dồi dào, có tính chất công việc, trình độ chuyên môn trong nhiều lĩnh vực khác nhau mới có thể đáp ứng được yêu cầu đặt ra .
1.2.2.Thời kì đầu tư kéo dài
Vì tính chất phức tạp của dự án đâù tư phát triển, đòi hỏi trình độ kĩ thuật cao mới tạo ra được kết quả đầu tư như mong muốn. Cho nên trong quá trình đầu tư phải tỉ mỉ theo sát từng công đoạn thực hiện bởi với tính chất liên hoàn của công trình nếu một khâu làm không đúng sẽ ảnh hưởng tới chất lượng kết quả cuối cùng gây nên tổn thất lớn cho chủ đầu tư..Bên cạnh đó, các dự án đầu tư phát triển thường chịu ảnh hưởng của các yếu tố khó có thể tránh khỏi trong quá trình thi công công trình như: thiên tai, bão lũ, thời tiết, khí hậu,chính trị bất ổn…làm cho công trình bị ngưng trệ và không thể thực hiện trong một thời gian dài. Hơn nữa với sự phá hủy công trình, cộng thêm một lượng vốn bỏ vào đó khá lớn, các hiện tượng tự nhiên lại diễn ra bất ngờ khó nằm trong dự đoán của chủ đầu tư vì vậy chủ đầu tư cần phải có thời gian huy động thêm vốn để có thể khắc phục hậu quả và tiếp tục thực hiện dự án. Trong quá trình đầu tư cũng chịu tác động của môi trường xã hội xung quanh, nếu dự án bị cản trở bởi sự không đồng tình của dân chúng trong khu vực xây dựng hay của nhân công, xảy ra các vụ biểu tình, phản đối, đình công đã làm cho dự án phải kéo dài thời gian để giải quyết hay là biến động nguồn nguyên vật liệu đầu vào cũng làm ngưng trệ quá trình sản xuất…Do tính chất đòi hỏi sự kì công cũng như chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố bên ngoài cho nên hoạt động đầu tư phát triển thường có thời kì đầu tư kéo dài hơn các hoạt động đầu tư khác.
1.2.3. Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài
Đối với hoạt động đầu tư phát triển thời gian vận hành các kết quả đầu tư tính từ khi đưa công trình vào hoạt động cho tới khi hết thời hạn sử dụng và đào thải công trình. Do hoạt động đầu tư phát triển phải bỏ ra một lượng vốn lớn, trong thời gian thực hiện đầu tư vốn nằm khê đọng dưới hình thái sản phẩm dở dang thì không thể vận hành hay vận hành được nhưng hiệu quả không cao do đó khó thu hồi được lượng vốn lớn bỏ ra trong một thời gian ngắn. Hơn nữa khi sản phẩm của quá trình vận hành ra đời không thể ngay lập tức tiếp cận với người tiêu dùng như một sản phẩm quen thuộc mà cũng cần một thời gian nhất định nào đó mới xâm nhập được vào thị trường. Cho nên sau khi hoạt động đầu tư kết thúc để thu lại được khoản vốn lớn và có lãi thì quá trình vận hành kết quả đầu tư phải