Hệsinh thái rừng mưa nhiệt đới là hệsinh thái với nhiều cấu trúc tầng 
thứphức tạp, có tính Đa dạng sinh học cao. Vai trò, chức năng của hệsinh 
thái này được thểhiện rất rõ rệt, thểhiện qua việc bảo vệcác nguồn tài 
nguyên khác như: Đất, nước, khí hậu. Cung cấp gỗ, củi. Đặc biệt là việc bảo 
vệtính Đa dạng sinh học là rất tốt. Với rất nhiều kiểu thảm thực vật khác 
nhau như: Thảm thực vật cây gỗ, thảm thực vật cây bụi,., lại có các kiểu 
trạng thái, cấu trúc, thành phần sinh vật khác nhau thì vai trò, chức năng, giá 
trịcũng khác. 
Tuy nhiên hiện nay việc mất rừng trên thếgiới và Việt Nam đang là 
vẫn đềcần được quan tâm nhiều hơn. Nguy cơsuy giảm hoặc mất tính Đa 
dạng sinh học tại một sốvùng miền trên thếgiới cũng nhưViệt Nam là rất 
cao. Vấn đềlàm thếnào đềcó thểbảo vệ được tính Đa dạng sinh học là rất 
cần thiết. 
Theo TS. ĐỗHữu Thư đã khẳng định: Thảm thực vật nói chung và 
thảm cây bụi nói riêng là đối tượng rất quan trọng đểkhoanh nuôi phục hồi 
rừng. Do thảm cây bụi thường là quần xã sinh vật tiên phong sau nương rẫy, 
nơi chưa có rừng, nơi đất đai bịthoái hóa, và cũng là nơi diễn ra quá trình 
diễn thếtái sinh, diễn thếtựnhiên đểhình thành rừng. Trong quá trình đó 
thực vật góp phần chống xói mòn đất, bảo vệmôi trường và bảo tồn tính đa 
dạng sinh học. 
Việc nghiên cứu xây dựng cơsởkhoa học cho công tác quản lý, bảo vệ, 
sửdụng nhưthếnào đối với thảm thực vật cây bụi là rất cần thiết. Do vậy, 
quá trình đánh giá cấu trúc và giá trịcủa thảm cây bụi là một khâu không thể
thiếu trong công tác bảo tồn, phục hồi và phát triển Đa dạng sinh học. 
Trước thực tiễn đó, chúng tôi tiến hành thực hiện đềtài: “Đánh giá đặc 
điểm cấu trúc và giá trịcủa trạng thái thảm cây bụi tại trạm Đa dạng sinh 
học Mê Linh, Vĩnh phúc” làm cơsởkhoa học cho việc nghiên cứu vềdiễn 
thếvà đa dạng sinh học.Từ đó đềxuất một sốgiải pháp nhằm phục hồi rừng 
phục vụcho công tác nghiên cứu khoa học và bảo tồn tài nguyên đa dạng sinh 
học ở địa bàn nghiên cứu.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 51 trang
51 trang | 
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1888 | Lượt tải: 3 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá đặc điểm cấu trúc và giá trịcủa trạng thái thảm cây bụi tại trạm Đa dạng sinh học Mê Linh, Vĩnh Phúc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 
Phần 1. MỞ ĐẦU 
1.1. Đặt vấn đề 
Hệ sinh thái rừng mưa nhiệt đới là hệ sinh thái với nhiều cấu trúc tầng 
thứ phức tạp, có tính Đa dạng sinh học cao. Vai trò, chức năng của hệ sinh 
thái này được thể hiện rất rõ rệt, thể hiện qua việc bảo vệ các nguồn tài 
nguyên khác như: Đất, nước, khí hậu... Cung cấp gỗ, củi.. Đặc biệt là việc bảo 
vệ tính Đa dạng sinh học là rất tốt. Với rất nhiều kiểu thảm thực vật khác 
nhau như: Thảm thực vật cây gỗ, thảm thực vật cây bụi,..., lại có các kiểu 
trạng thái, cấu trúc, thành phần sinh vật khác nhau thì vai trò, chức năng, giá 
trị cũng khác. 
Tuy nhiên hiện nay việc mất rừng trên thế giới và Việt Nam đang là 
vẫn đề cần được quan tâm nhiều hơn. Nguy cơ suy giảm hoặc mất tính Đa 
dạng sinh học tại một số vùng miền trên thế giới cũng như Việt Nam là rất 
cao. Vấn đề làm thế nào đề có thể bảo vệ được tính Đa dạng sinh học là rất 
cần thiết. 
Theo TS. Đỗ Hữu Thư đã khẳng định: Thảm thực vật nói chung và 
thảm cây bụi nói riêng là đối tượng rất quan trọng để khoanh nuôi phục hồi 
rừng. Do thảm cây bụi thường là quần xã sinh vật tiên phong sau nương rẫy, 
nơi chưa có rừng, nơi đất đai bị thoái hóa, và cũng là nơi diễn ra quá trình 
diễn thế tái sinh, diễn thế tự nhiên để hình thành rừng. Trong quá trình đó 
thực vật góp phần chống xói mòn đất, bảo vệ môi trường và bảo tồn tính đa 
dạng sinh học. 
Việc nghiên cứu xây dựng cơ sở khoa học cho công tác quản lý, bảo vệ, 
sử dụng như thế nào đối với thảm thực vật cây bụi là rất cần thiết. Do vậy, 
quá trình đánh giá cấu trúc và giá trị của thảm cây bụi là một khâu không thể 
thiếu trong công tác bảo tồn, phục hồi và phát triển Đa dạng sinh học. 
Trước thực tiễn đó, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Đánh giá đặc 
điểm cấu trúc và giá trị của trạng thái thảm cây bụi tại trạm Đa dạng sinh 
học Mê Linh, Vĩnh phúc” làm cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu về diễn 
thế và đa dạng sinh học. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm phục hồi rừng 
phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học và bảo tồn tài nguyên đa dạng sinh 
học ở địa bàn nghiên cứu. 
2 
1.2. Mục đích nghiên cứu 
Góp phần bổ sung kiến thức về cấu trúc tổ thành và giá trị của các thảm 
thực vật, làm cơ sở cho việc bảo tồn và phát triển sự đa dạng sinh học tại địa 
bàn nghiên cứu. Đồng thời làm rõ về mối tương quan giữa cấu trúc tổ thành 
với giá trị của thảm thực vật nói chung và thảm cây bụi nói riêng. 
1.3. Mục tiêu nghiên cứu 
1.3.1. Về lý luận 
Góp phần bổ sung kiến thức về cấu trúc tổ thành và giá trị của thảm 
thực vật, làm cơ sở cho việc bảo tồn và phát triển sự đa dạng sinh học tại địa 
bàn nghiên cứu. 
1.3.2. Về thực tiễn 
- Xác định được cấu trúc tổ thành của thảm thực vật cây bụi. 
- Đánh giá được cấu trúc và giá trị của thảm thực vật cây bụi. 
- Từ đó làm cơ sở đề xuất một số giải pháp phục hồi rừng và bảo tồn 
tính đa dạng sinh học tại địa bàn nghiên cứu. 
1.4. Ý nghĩa của đề tài 
1.4.1. Ý nghĩa trong học tập 
Bổ sung những hiểu biết về đặc điểm cấu trúc và giá trị của trạng thái 
thảm thực vật tại Trạm Đa dạng sinh học Mê Linh, Vĩnh Phúc góp phần vào 
việc nghiên cứu về diễn thế và đa dạng sinh học. Đồng thời nâng cao hiệu quả 
sử dụng đối với thảm thực vật, tận dụng được tiêm năng sẵn có.Từ đó đề xuất 
các biện pháp tác động thích hợp nhằm từng bước đưa rừng về trạng thái có 
cấu trúc hợp lý, ổn định hơn. 
1.4.2. Về thực tiễn 
Tuy đề tài mới chỉ đề cập về cấu trúc tổ thành và giá trị của thảm thực vật 
cây bụi, lại tiến hành trong thời gian ngắn nhưng với sự giúp đỡ tận tình của thầy 
giáo, cùng tất cả các chú, bác, anh hiện đang công tác tại trạm, tôi hy vọng đề tài 
có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu cấu trúc và tổ 
thành thực vật, nhằm bảo tồn và phát triển được tính đa dạng sinh học tại Trạm 
Đa dạng sinh học Mê Linh nói riêng và cả nước nói chung. 
3 
Phần 2. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 
2.1. Cơ sở khoa học nghiên cứu 
+ Thảm thực vật 
Là toàn bộ lớp thảm thực vật ở một vùng cụ thể hay toàn bộ lớp phủ 
thực vật trên bề mặt trái đất. Theo khái niệm này thảm thực vật mới chỉ là 
một khái niệm chung chưa chỉ rõ đặc trưng hay phạm vi không gian của một 
đối tượng cụ thể. Nó chỉ có nội hàm cụ thể khi có tính ngữ kèm theo như 
“Thảm thực vật Mê Linh” hay “Thực vật Tam Đảo”. 
+ Hệ sinh thái 
 Là một hệ thống hoàn chỉnh tương đối ổn định, bao gồm quần xã sinh 
vật và khu vực sống của quần xã (sinh cảnh). Sự tác động qua lại giữa quần 
xã và sinh cảnh tạo nên những mối quan hệ dinh dưỡng xác định, cấu trúc của 
tập hợp loài trong quần xã, chu trình tuần hoàn vật chất giữa các sinh vật 
trong quần xã và các nhân tố vô sinh. 
+ Phục hồi rừng 
Phục hồi rừng được hiểu là quá trình tái tạo lại rừng trên những diện 
tích đã bị mất rừng. Theo quan điểm sinh thái học thì phục hồi rừng là một 
quá trình tái tạo lại một hệ sinh thái mà trong đó cây gỗ là yếu tố cấu thành 
chủ yếu. Đó là một quá trình sinh địa phức tạp gồm nhiều giai đoạn và kết 
thúc bằng sự xuất hiện một thảm thực vật cây gỗ bắt đầu khép. 
Để tái tạo lại rừng người ta có thể sử dụng các giải pháp khác nhau tuỳ 
theo mức độ tác động của con người là: phục hồi nhân tạo (trồng rừng), phục hồi 
tự nhiên và phục hồi tự nhiên có tác động của con người (xúc tiến tái sinh). 
+ Cấu trúc rừng 
Cấu trúc rừng là sự sắp xếp tổ chức nội bộ của các thành phần sinh vật 
trong hệ sinh thái rừng mà qua đó các loài có đặc điểm sinh thái khác nhau có 
thể cùng sinh sống hoà thuận trong một khoảng không gian nhất định trong 
một giai đoạn phát triển của rừng. Cấu trúc rừng vừa là kết quả vừa là sự thể 
hiện các mối quan hệ đấu tranh sinh tồn và thích ứng lẫn nhau giữa các thành 
phần trong hệ sinh thái với nhau và với môi trường sinh thái. Cấu trúc rừng 
bao gồm cấu trúc sinh thái, cấu trúc hình thái và cấu trúc tuổi. 
4 
+ Cây bụi và thảm cây bụi 
Cây bụi là những loài cây có thân hóa gỗ, thường có chiều cao dưới 
3m, có thể có một hoặc nhiều thân. Cùng với thảm tươi và cây tái sinh thì cây 
bụi là thành phần chủ đạo trong các khu rừng thứ sinh ở nước ta hiện nay 
Theo Vdal J., Schmid M., thảm cây bụi là kiểu quần thể thân gỗ, kín 
tán gồm những cây bụi, thân có thể chia nhánh từ dưới thấp hoặc chỉ có một 
thân thấp lùn, không bao giờ vượt quá 8m 
2.2. Những nghiên cứu trên Thế giới 
Tài nguyên rừng hiện nay trên Thế giới đang có chiều hướng suy giảm 
về diện tích và chất lượng rừng. Đặc biệt là tài nguyên rừng ở vùng nhiệt đới, 
xích đạo và cận xích đạo. Theo thống kê của các tổ chức IUCN, UNDP, 
WWP, mỗi năm Thế giới trung bình mất đi khoảng 20 triệu ha rừng. Việc mất 
rừng đã làm nhiều loài động vật, thực vật bị tuyệt chủng làm giảm sự Đa dạng 
sinh học. Ngoài ra nhu cầu về gỗ nhiên liệu ngày một tăng nhanh. Do vậy , để 
có thể đáp ứng được nhu cầu về gỗ nguyên liệu như hiện nay thì việc sản xuất 
kinh doanh nghề rừng ngày càng được chú trọng phát triển. Để cho việc sản 
xuất rừng có hiệu quả thì con người cần phải hiểu rõ về quy luật phát triển tự 
nhiên của tài nguyên rừng như thế nào, từ đó đưa ra cơ sở khoa học để nâng 
cao hiệu quả Sản xuất kinh doanh rừng. Trước thực tiễn đó nhiều nhà khoa 
học đã không ngừng tham gia các nghiên cứu khoa học. Điển hình như: 
* Về mặt cấu trúc có: 
Baur G.N.(1976) [15], đã nghiên cứu các vấn đề về cơ sở sinh thái học 
nói chung và về cơ sở sinh thái học trong kinh doanh rừng mưa nói riêng, 
trong đó đã đi sâu nghiên cứu các nhân tố cấu trúc rừng, các kiểu xử lý về mặt 
lâm sinh áp dụng cho rừng mưa tự nhiên. 
Odum E.P (1978) [17], đã hoàn chỉnh học thuyết về hệ sinh thái trên cơ 
sở thuật ngữ hệ sinh thái (ecosystem) của Tansley A.P, năm 1935. Khái niệm 
hệ sinh thái được làm sáng tỏ là cơ sở để nghiên cứu các nhân tố cấu trúc trên 
quan điểm sinh thái học. 
R. Catinot (1965) [16] đã biểu diễn cấu trúc hình thái rừng bằng các 
phẫu đồ rừng, nghiên cứu các cấu trúc sinh thái thông qua việc mô tả phân 
loại theo các khái niệm dạng sống, tầng phiến. 
5 
Ngoài ra còn các công trình của các tác giả Richards, Odum, Van 
Stennis.. được coi là nền tảng cho những nghiên cứu về cấu trúc rừng. 
* Về mặt tái sinh có: 
Các công trình của các tác giả: Mibbre-ad, 1930; Richards, 1933; 1939; 
Aubreville, 1938; Beard, 1946; Lebrun và Gilbert, 1954; Joné, 1955-1956; 
Schultz, 1960; Baur, 1964; Rollet, 1969,.... là nền tảng cho những nghiên cứu về 
tái sinh rừng. 
Về phương pháp điều tra tái sinh, nhiều tác giả sử dụng cách lấy 
mẫu ô vuông theo hệ thống của Lowder Milk (1927) với diện tích ô dao 
động từ 1- 4m
2
. Nếu diện tích bé thì số ô phải tăng, ngược lại diện tích lớn 
thì số ô ít đi, sao cho đảm bảo tính đại diện, tính trung thực của tình hình tái 
sinh rừng. 
Tóm lại, các nghiên cứu trên của các nhà khoa học trên tuy mỗi người 
nghiên cứu một khía cạnh khác nhau nhưng tất cả đều có mục tiêu chung là: 
Làm thế nào để có thể nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh rừng và bảo 
tồn, duy trì và phát triển tính Đa dạng sinh học và tính năng vốn có của rừng. 
Đặc biệt, sự vận dụng các hiểu biết về quy luật cấu trúc rừng và tái sinh 
rừng để xây dựng các biện pháp kỹ thuật lâm sinh hợp lý nhằm quản lý tài 
nguyên rừng một cách bền vững. 
2.3. Những nghiên cứu ở Việt Nam 
Diễn biến tài nguyên rừng nước ta trong giai đoạn 1945 - 2000 bị suy 
giảm mạnh cả về chất lượng và số lượng. Theo số liệu của viện điều tra quy 
hoạch rừng, năm 1943, nước ta có 14,3 triệu ha, với độ che phủ 43%, đạt 0,7 
ha/người. Đến năm 2000, còn 10,915 triệu ha, độ che phủ 33,2% đạt 0,14 
ha/người. Mặt khác nhu cầu về gỗ nguyên liệu trong nước cũng bắt đầu có xu 
hướng tăng mạnh. Trước thực tiễn đó nhiều nhà khoa học Việt Nam cũng đã 
tham gia nghiên cứu về quy luật phát triển về tài nguyên rừng để có thể nâng 
cao hiệu quả kinh doanh rừng, đáp ứng nhu cầu gỗ nguyên liệu trong nước, 
cùng với đó là duy trì, bảo tồn sự Đa dạng sinh học như: 
* Về mặt cấu trúc có: 
Đồng Sĩ Hiền (1974) [3], dùng hàm Meyer và hệ đường cong Poisson 
để nắn phân bố thực nghiệm số cây theo cỡ đường kính cho rừng tự nhiên làm 
cơ sở cho việc lập biểu độ thon cây đứng ở Việt Nam. 
6 
Nguyễn Hải Tuất (1982, 1986) [13], đã sử dụng hàm phân bố giảm, 
phân bố khoảng cách để biểu diễn cấu trúc rừng thứ sinh và áp dụng quá trình 
Poisson vào nghiên cứu cấu trúc quần thể rừng. 
Trần Văn Con (1991) [1], đã áp dụng hàm Weibull để mô phỏng cấu 
trúc đường kính cho rừng khộp ở Đăklăk. 
Lê Sáu (1995) [6], đã sử dụng hàm Weibull để mô phỏng các quy luật 
phân bố đường kính, chiều cao tại khu vực Kon Hà Nừng, Tây Nguyên. 
Bùi Văn Chúc (1996) [1], đã nghiên cứu cấu trúc rừng phòng hộ đầu 
nguồn Lâm trường sông Đà ở các trạng thái rừng IIA, IIIA1 và rừng trồng 
làm cơ sở cho việc lựa chọn loài cây. 
Lê Sáu (1996) [6], dựa vào hệ thống phân loại của Thái Văn Trừng 
kết hợp với hệ thống phân loại của Loeschau, chia rừng ở khu vực Kon Hà 
Nừng thành 6 trạng thái. 
Theo PGS.TS Đặng Kim Vui (2002) [14], nghiên cứu đặc điểm cấu 
trúc rừng phục hồi sau nương rẫy để làm cơ sở đề xuất giải pháp khoanh nuôi, 
làm giàu rừng ở huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên đã kết luận đối với giai 
đoạn phục hồi từ 1 - 2 tuổi (hiện trạng là thảm cây bụi) thành phần thực vật 72 
loài thuộc 36 họ và họ Hoà thảo (Poaceae) có số lượng lớn nhất 10 loài, sau 
đó đến họ Thầu dầu (Euphorbiaceae) 6 loài, họ Trinh nữ (Misaceae) và họ Cà 
phê (Rubiaceae) mỗi họ có 4 loài. Bốn họ có 3 loài là họ Long não 
(Lauraceae), họ Cam (Rutaceae), họ Khúc khắc (Smilacaceae) và họ Cỏ roi 
ngựa (Verbenaceae). 
Các công trình trên được coi là nền tảng cho những nghiên cứu về cấu 
trúc ở nước ta. 
* Về mặt tái sinh có: 
Trần Xuân Thiệp (1995) [8], đã định lượng cây tái sinh tự nhiên trong 
các trạng thái rừng khác nhau, theo tác giả số lượng cây tái sinh biến động 
từ 8.000 - 12.000, lớn hơn rừng nguyên sinh. 
Theo TS.Vũ Tiến Hinh (1991) [4], khi nghiên cứu đặc điểm tái sinh tự 
nhiên tại Hữu Lũng (Lạng Sơn) và vùng Ba Chẽ (Quảng Ninh) đã nhận thấy 
rằng, hệ số tổ thành tính theo % số cây của tầng tái sinh và tầng cây cao có 
liên quan chặt chẽ với nhau. 
7 
Phạm Ngọc Thường (2001, 2003) [9, 10], nghiên cứu quá trình tái sinh 
tự nhiên phục hồi sau nương rẫy tại hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn đã 
cho thấy khả năng tái sinh của thảm thực vật trên đất rừng còn nguyên trạng 
có số lượng loài cây gỗ tái sinh nhiều nhất, chỉ số đa dạng loài của thảm cây 
gỗ là khá cao. 
Các công trình trên được coi là những cơ sở cho các nghiên cứu về tái 
sinh ở trong nước. 
Tóm lại, tất cả những nghiên cứu của các nhà nghiên cứu khoa học tuy 
có mục tiêu khác nhau nhưng đều có chung một mục tiêu là: Nâng cao hiệu 
quả kinh doanh rừng, bảo tồn và phát triển tính Đa dạng sinh học của tài 
nguyên rừng. 
2.4. Tổng quan khu vực nghiên cứu 
2.4.1. Điều kiện tự nhiên 
* Vị trí địa lý 
Trạm Đa dạng sinh học Mê Linh thuộc viện sinh thái và Tài nguyên 
sinh vật (Viện khoa học và công nghệ Việt Nam), nằm trong địa phận xã 
Ngọc Thanh, thị xã Phúc Yên, Vĩnh phúc. Khu vực trạm có tọa độ 210 23’ 
57”-210 25’ 35” độ vĩ bắc và 1050 42’ 40”-1050 46’ 65” độ kinh đông. Phía 
Bắc giáp huyện Phổ Yên - Thái nguyên, phía Đông và Nam giáp hợp tác xã 
Đồng Trầm xã Ngọc Thanh, phía Tây giáp xã Trung Mỹ huyện Bình Xuyên 
xã vùng đệm vườn Quốc gia Tam Đảo. 
* Địa hình 
Khu vực nghiên cứu nằm ở phía đông nam dãy núi Tam Đảo thuộc tỉnh 
Vĩnh Phúc. Là nơi có địa hình dốc, độ chia cắt mạnh, có nhiều dông phụ gần 
như vuông góc với dông chính. Độ dốc trung bình từ 150 - 250, nhiều nơi dốc 
từ 300 - 350. Độ cao từ 100 - 520 m so với mực nước biển. 
* Địa chất - thổ nhưỡng 
- Về địa chất: Khu vực nghiên cứu là một bộ phận của dãy núi Tam 
Đảo, nên có cấu tạo địa chất chủ yếu bằng hệ tầng phun trào axit gồm các lớp 
Rionit, Daxit kết tinh xen kẽ nhau, có tuổi khoảng 260 triệu năm. 
- Về thổ nhưỡng: Nhìn chung các loại đá mẹ khá cứng, thành phần 
khoáng có nhiều thạch anh, Muscovit, khoáng phong hóa, hình thành nên các 
8 
loại đất có thành phần cơ giới nhẹ, các hạt thô dễ bị rửa trôi và xói mòn, nhất 
là những nơi dốc cao bị xói mòn mạnh để trơ lại phần đá cứng (điển hình là 
khu vực có độ dốc cao 300 - 500m). 
Theo nguồn gốc phát sinh trong vùng có hai loài đất chính sau: 
+) Ở độ cao trên 300m là đất Feralit mùn đỏ vàng. Đất thường có màu 
vàng ưu thế do độ ẩm cao, hàm lượng sắt di động và nhôm tích lũy tương đối 
lớn. Do đất phát triển trên đá macma axit kết tinh chua: Rhyonit, Daxit, Granit 
nên tầng đất mỏng, thành phần cơ giới nhẹ, tầng mùn mỏng, không có tầng 
thảm mục, đá lộ đầu nhiều (> 75 %). 
+) Ở độ cao dưới 300m là đất Feralit đỏ vàng, phát triển trên nhiều loại đá 
khác nhau. Đất có khả năng hấp thụ không cao do nhiều khoáng sét, phổ biến là 
Kaolimit. Hàm lượng các khoáng nguyên sinh thấp, ngoài khoáng Kaolimit còn 
có nhiều khoáng hydroxit sắt , nhôm lẫn trong đất và silic bị rửa trôi. 
Ngoài ra còn có đất dốc tụ phù sa ở ven các suối lớn trên độ cao dưới 
100m. Thành phần cơ giới của loại đất này là trung bình, tầng đất dày, độ ẩm 
cao, màu mỡ, đã được khai phá trồng lúa và hoa màu. 
Đất thuộc loại chua với PH là 3,5 - 5,5, độ dày tầng đất trung bình 30 - 40cm. 
* Khí hậu - thủy văn 
- Khí hậu: Trạm Đa dạng sinh học Mê Linh nằm trong vùng khí hậu 
nhiệt đới gió mùa. Số liệu quan sát từ 1990 - 2003 tại trạm khí tượng thủy văn 
Vĩnh Yên (độ cao 50m). 
Bảng 2.1. Số liệu khí tượng trạm khí tượng Vĩnh Yên 
Yếu tố Trạm Vĩnh Yên 
Nhiệt độ bình quân năm ( 0C ) 23,9 
Nhiệt độ tối cao tương đối ( 0C ) 41,5 
Nhiệt độ tối thấp tượng đối ( 0C ) 3,2 
Lượng mưa bình quân năm ( mm ) 1358,7 
Số ngày mưa/ năm 142,5 
Lượng mưa cựu đại trong ngày ( mm ) 284,0 
Độ ẩm trung bình ( % ) 83,0 
Độ ẩm cực tiểu ( % ) 14,0 
Lượng bốc hơi ( mm) 1040,1 
9 
Số liệu quan sát ở bảng cho thấy nhiệt độ trung bình năm là 23,90C 
(trung bình mùa hè là 27 - 290C, mùa đông là 16 - 170C). 
Lượng mưa trung bình là 1358,7 mm/năm, mùa mưa từ tháng 4 - 10 
chiếm 90% lượng mưa cả năm. Mưa tập trung vào các tháng 6, 7, 8, 9. Cao 
nhất là vào tháng 8. Số ngày mưa khá nhiều 142 ngày/năm. Độ ẩm trung bình 
là 83%, thấp nhất vào tháng 2 dưới 80%. 
- Thủy văn: Trạm Đa dạng sinh học Mê Linh là một trong những khu 
vực đầu nguồn của nhiều suối nhỏ đổ vào hồ Đại Lải. 
Sông suối: có một suối nhỏ, nước chảy quanh năm bắt nguồn từ điểm 
cực Bắc chảy dọc biên giới phía Tây giáp với vườn Quốc gia Tam Đảo và gặp 
suối Thanh Lộc đổ vào hồ Đại Lải. Ngoài ra còn có một số suối cạn ngắn nhỏ 
có nước sau những trận mưa. 
2.4.2. Tài nguyên động vật - thực vật rừng 
- Khu hệ động vật: Theo kết quả điều tra năm 2003 của phòng động vật 
có xương sống - Viện sinh Thái và Tài nguyên sinh vật, đã xác định thành 
phần loại học của 5 lớp thú, chim, bò sát, ếch nhái, côn trùng gồm 25 bộ, 99 
họ, 461 loài. 
Trong đó: 
+ Thú có 13 loài thuộc 6 họ của 4 bộ 
+ Chim có 109 loài thuộc 38 họ của 12 bộ 
+ Bò sát có 14 loài thuộc 7 họ của 1 bộ 
+ Ếch nhái có 13 loài thuộc 5 họ của 1 bộ 
+ Côn trùng có 32 loài thuộc 43 họ của 7 bộ 
- Hệ thực vật: 
Theo Nguyễn Tiến Bân (2001), khu vực nghiên cứu nằm trong miền 
địa lý thực vật Đông Bắc và Bắc Trung Bộ, trong đó chủ yếu tồn tại những 
nhân tố bản địa đặc hữu của khu hệ thực vật Bắc Việt Nam, Nam Trung Hoa 
với các ưu hợp thực vật họ Re (Lauraceae), họ Dẻ (Fagaceae), họ Dâu tằm 
(Moraceae), họ Mộc lan (Magloniaceae), họ Đậu (Fabaceae), họ Xoài 
(Anacardiaceae), họ Trám (Bureseraceae), họ Bồ hòn (Sapinraceae), họ Sau 
sau (Hamameliaceae), họ Gạo (Bombaceae). Đây cũng là nơi có yếu tố thực 
vật di cư từ phía nam lên như các loài cây thuộc họ Dầu (Dipterocarpaceae)... 
10 
Với diện tích khoảng 178ha, Trạm Đa dạng sinh học Mê Linh hiện có 
166 họ thực vật với 651 chi và 1129 loài. Trong đó đã gặp các ngành: 
+ Ngành Thông đất (Lycopodiphyta) 2 họ, 3 chi, 6 loài. 
+ Ngành Mộc tặc (Equisetophyta) 1 họ 1 chi, 1 loài. 
+ Ngành Dương xỉ (Polypodiophyta) 15 họ, 32 chi, 62 loài. 
+ Ngành Mộc lan (Magnoliophyta) 147 họ, 612 chi, 1055 loài. 
Trong đó: 
Lớp Mộc lan (Magnolisida) 120 họ, 487 chi, 823 loài. 
Lớp Hành (Liliopsida) 27 họ, 125 chi, 232 loài. 
Những họ có số lượng nhiều gồm: Họ Ba mảnh vỏ (Euphorbiaceae) 67 
loài; họ cà phê (Rubiaceae) 53 loài; họ Lan (Orchidaceae) 38 loài; họ Cói 
(Cyperaceae) 35 loài; họ Đậu (Fagaceae) 35 loài. Một số họ có từ 20 đến 30 
loài gồm: họ Gừng (Zingiberaceae) 20 loài; họ Ráy (Araceae) 22 loài; họ Cỏ 
roi ngựa (Verbnaceae) 21 loài; họ Đơn nem (Myrsinaceae) 20 loài; họ Cúc 
(Asteraceae) 29 loài; họ Dâu tằm (Moraceae) 21 loài. 
- Hiện trạng thảm thực vật theo Lê Đông Tấn (4/2003) [7], thảm thực 
vật trên khu vực hoàn toàn là các trạng thái thảm thực vật thứ sinh nhân tác từ 
trảng cỏ, trảng cây bụi đến rừng thứ sinh phục hồi tự nhiên hay rừng trồng. 
+ Thảm thực vật tự nhiên: Do khai thác gỗ củi tự nhiên, chặt đốt nương 
lấy đất trồng trọt, chặt phá thảm thực vật tự nhiên để trồng rừng, chăn thả quá 
mức nên đã phát sinh những trạng thái thảm thực vật khác nhau từ trảng cỏ 
đến rừng thứ sinh. Trên toàn khu vực có 4 lớp quần hệ với các kiểu thảm thực 
vật sau: 
Rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới ở địa hình thấp gồm có: 
Rừng cây lá rộng và rừng nứa xen cây gỗ. 
Rừng thưa thường xanh mưa mùa nhiệt đới ở địa hình thấp gồm có: 
Rừng cây lá rộng, rừng nứa xen cây gỗ và rừng giang. 
Trảng cây bụi thường xanh mưa mùa nhiệt đới ở địa hình thấp gồm có: 
các quần xã có hay không có cây gỗ. 
- Trảng cỏ gồm trảng cỏ dạng lúa trung bình có ưu hợp lau lách 
(Saccharum spontaneum) và Cỏ Tranh (Imperata cylindryca), trảng cỏ không 
dạng lúa có quần hợp Guột (Dicranopteris linearis). 
11 
+ Rừng trồng: 
Rừng thuần loài gồm có: Bạch đàn (Eucalyptus globolus), Keo tai 
tượng (Acacia mangium), Keo lá tràm (Acacia auriculiformis), Thông (Pinus 
massonia). 
Rừng hỗn giao gồm có: Bạch đàn (Eucalyptus globolus) - Keo tai 
tượng (Acacia mangium); Bạch đàn (Eucalyptus globolus) - Keo lá tràm 
(Acacia auriculiformis); Thông (Pinus massonia)