Trong những năm gần đây tỷ lệ lạm phát có xu hướng tăng cao đã có những tác động tiêu cực tới nền kinh tế và đã đạt ra những thách thức cho điều hành kinh tế vĩ mô nhằm kiềm chế lạm phát, duy trì tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô. Trong đó Chính sách tài khóa (CSTK) là một trong những công cụ quan trọng và giữ vai trò quyết định trong việc quản lý và điều tiết kinh tế vĩ mô nền kinh tế của Chính phủ.
Các chính sách điều hành của Chính phủ đã có những tác dụng nhất định trong việc kiềm chế lạm phát, tuy nhiên hiệu quả của Chính sách tài khóa còn chưa thể hiện rõ nét. Đặc biệt hiện nay khi Việt Nam đã gia nhập WTO nên tình hình kinh tế trong nước ngày càng chịu nhiều tác động của tình hình kinh tế chính trị thế giớivà việc thực hiện các cam kết WTO.
Hiện nay, trên các phương tiện thông tin đại chúng đã có rất nhiều ý kiến khác nhau về nguyên nhân của lạm phát trong đó có có nguyên nhân từ chính sách tài khóa đặc biệt là vấn đề chi tiêu công không hiệu quả. Để có cách nhìn khách quan về hiệu quả của CSTK, Nhóm thuyết trình chọn đề tài “Đánh giá hiệu quả của chính sách tài khóa trong việc kiềm chế lạm phát” nhằm đánh giá thực trạng về các nguyên nhân, tác động của lạm phát và những tác động của chính sách tài khóa có ảnh hưởng như thế nào tới lạm phát cũng như hiệu quả của CSTK trong việc kiềm chế lạm phát.
30 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1669 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá hiệu quả của chính sách tài khóa trong việc kiềm chế lạm phát, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đặt vấn đề
Trong những năm gần đây tỷ lệ lạm phát có xu hướng tăng cao đã có những tác động tiêu cực tới nền kinh tế và đã đạt ra những thách thức cho điều hành kinh tế vĩ mô nhằm kiềm chế lạm phát, duy trì tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô. Trong đó Chính sách tài khóa (CSTK) là một trong những công cụ quan trọng và giữ vai trò quyết định trong việc quản lý và điều tiết kinh tế vĩ mô nền kinh tế của Chính phủ.
Các chính sách điều hành của Chính phủ đã có những tác dụng nhất định trong việc kiềm chế lạm phát, tuy nhiên hiệu quả của Chính sách tài khóa còn chưa thể hiện rõ nét. Đặc biệt hiện nay khi Việt Nam đã gia nhập WTO nên tình hình kinh tế trong nước ngày càng chịu nhiều tác động của tình hình kinh tế chính trị thế giớivà việc thực hiện các cam kết WTO.
Hiện nay, trên các phương tiện thông tin đại chúng đã có rất nhiều ý kiến khác nhau về nguyên nhân của lạm phát trong đó có có nguyên nhân từ chính sách tài khóa đặc biệt là vấn đề chi tiêu công không hiệu quả. Để có cách nhìn khách quan về hiệu quả của CSTK, Nhóm thuyết trình chọn đề tài “Đánh giá hiệu quả của chính sách tài khóa trong việc kiềm chế lạm phát” nhằm đánh giá thực trạng về các nguyên nhân, tác động của lạm phát và những tác động của chính sách tài khóa có ảnh hưởng như thế nào tới lạm phát cũng như hiệu quả của CSTK trong việc kiềm chế lạm phát.
Phạm vi và đối tượng nghiên cứu:
Có nhiều quan điểm khác nhau về chính sách tài khóa (CSTK) nhưng những quan điểm này đều có điểm chung là: nội dung chủ yếu của CSTK là những chủ trương, quan điểm và phương thức quản lý thu - chi NSNN của Chính phủ nhằm tác động tới nền kinh tế. Do đó đề tài của nhóm chủ yếu tập trung vào vấn đề thu – chi NSNN (tập trung vào thu từ thuế và chi tiêu công); vấn đề thâm hụt NSNN, các nguồn bù đắp thâm hụt NSNN có tác động như thế nào tới mức độ lạm phát của nền kinh tế, qua đó đánh giá hiệu quả của CSTK trong việc kiềm chế lạm phát và kiến nghị một số giải pháp.
Do hạn chế về mặt thời gian, trình độ lý luận và tài liệu tham khảo nên đề tài không thể tránh khỏi sai sót, kính mong Thầy và lớp cho ý kiến bổ sung để bài luận được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT VÀ CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA
1. Lạm phát
1.1 Khái niệm lạm phát
Lạm phát là một phạm trù kinh tế khách quan phát sinh từ chế độ lưu thông tiền giấy. Có nhiều định nghĩa khác nhau về lạm phát đã được đưa ra.
- Marx cho rằng “lạm phát là sự phát hành tiền mặt quá lố”
- Trong kinh tế học, lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung của nền kinh tế.
Định nghĩa được nhiều người chấp nhận “Lạm phát (Inflation) là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế tăng lên trong một thời gian nhất định”.
Thời gian nhất định đó có thể là hàng tháng, hàng quí, hàng năm. Mức giá chung hay mức giá tổng quát không phải là các mức giá đơn lẻ. Vì có nhiều trường hợp mức giá chung tăng lên nhưng vẫn có một số mặt hàng có mức giá không đổi hoặc thậm chí thấp hơn trước, giá các loại hàng hoá tăng lên không nhất thiết cùng một tỷ lệ như nhau.
Ngoài ra theo quan điểm của thuyết số lượng tiền tệ, lạm phát là sự mât can đối giữa tiền và hàng trong nền kinh tế. Có thể tóm tắt trong phương trình Fisher:
P.Y = M.V
Trong đó: M là mức cung tiền
P là mức giá bình quân
Y là sản lượng thực
V là tốc độ lưu thông tiền tệ
Biểu hiện đặc trưng của lạm phát:
- Hiện tượng gia tăng tiền giấy vượt quá nhu cầu cần thiết của lưu thông hàng hóa dẫn đến hệ quả là tiền giấy bị mất giá.
- Giá cả hàng hóa tăng đồng bộ, liên tục.
- Sự bất ổn định trong đời sống kinh tế – xã hội.
1.2 Nguyên nhân gây lạm phát
+ Theo quan điểm của lạm phát giá cả: có hai nguyên nhân dẫn đến lạm phát:
- Lạm phát do cầu kéo (Demand – Pull Inflation): tổng cầu cao hơn tổng cung ở mức toàn dụng lao động. Lạm phát do sự gia tăng của tổng cầu có thể do hộ gia đình, doanh nghiệp, chính phủ, người nước ngoài tự ý thay đổi mức chi tiêu của mình, cũng có thể do tác động của một số yếu tố khác như ngân sách trung ương tăng mức cung tiền …
- Lạm phát do cung, còn gọi là lạm phát do chi phí đẩy (Cost- Push Inflation) xảy ra khi chi phí sản xuất kinh doanh tăng sẽ đẩy giá cả tăng lên ngay cả khi các yếu tố sản xuất chưa sử dụng đầy đủ.
+ Theo lý thuyết cơ cấu: Cho rằng lạm phát phát sinh do sự mất cân đối trong cơ cấu kinh tế làm cho nền kinh tế phát triển không hiệu quả.
+ Theo lý thuyết tiền tệ: J.M.Keynes đã có công vạch rõ tác động của việc in tiền vào nền kinh tế cho rằng: chính chế độ tiền tệ danh nghĩa dẫn đến lạm phát, cung tiền tăng khiến cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên là nguyên nhân gây ra lạm phát.
+ Ngoài các lý thuyết trên còn tồn tại nhiều quan điểm khác lý giải về nguyên nhân của lạm phát như lạm phát do xuất nhập khẩu,…
- Nguyên nhân chủ quan: bắt nguồn từ chính sách vĩ mô (chính sách tài chính và chính sách tiền tệ) không hiệu quả. Hoặc do nhà nước chủ động sử dụng lạm phát như một công cụ kích thích tăng trưởng kinh tế…
- Nguyên nhân khách quan: thiên tai, chiến tranh, ảnh hưởng từ thị trường thế giới,…
1.3 Tác động của lạm phát
Lạm phát có ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển kinh tế – xã hội tuỳ theo mức độ của nó:
+ Tác động tích cực: Nếu duy trì được một tỷ lệ lạm phát vừa phải thì sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển, bên cạnh những tác hại không đáng kể.
+ Tác động tiêu cực: lạm phát cao thường gây những tác hại đến kinh tế và đời sống xã hội (phân phối thu nhập, tăng trưởng kinh tế- công ăn việc làm, tác động khác, cơ cấu kinh tế)
+ Ngoài ra tác động của lạm phát còn tuỳ thuộc vào lạm phát có dự đoán trước được hay không.
2. Chính sách tài khóa
2.1 Khái niệm
Định nghĩa 1: Chính sách tài khóa (CSTK) được hiểu là chính sách của chính phủ trong việc quản lý ngân sách nhà nước (NSNN), nhất là những vấn đề có liên quan tới chính sách thuế và vay nợ của chính phủ (theo định nghĩa của Wordnet Dictionary). Chính sách tài khóa thể hiện hành vi của chính phủ trong việc huy động nguồn tài chính/tiền (thu ngân sách) để tài trợ cho các khoản chi thường xuyên và đầu tư từ ngân sách (chi ngân sách) theo qui định của pháp luật.
Định nghĩa 2: Chính sách tài khóa là các chính sách của Chính phủ nhằm tác động lên định hướng phát triển của nền kinh tế thông qua những thay đổi trong chi tiêu chính phủ và thuế khóa.
Định nghĩa 3: CSTK là tổng hợp các quan điểm, cơ chế và phương thức huy động các nguồn hình thành NSNN, các quỹ tài chính có tính chất tập trung của Nhà nước nhằm mục tiêu phục vụ các khoản chi lớn của NSNN theo kế hoạch từng năm tài chính gồm: chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển, bổ sung quỹ dự trữ quốc gia, trả nợ trong và ngoài nước đến hạn.(TS. Lê Quang Cường)
Mặc dù có sự khác nhau giữa các nước về cách phân loại, phân tổ, tên gọi, song tựu trung lại, CSTK tập trung vào các khoản mục chính trong thu NSNN, thường bao gồm các khoản thu về thuế và phí; các khoản chi ngân sách thường bao gồm hai khoản mục chính là chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển.
2.2 Nội dung của chính sách tài khóa
+ Khi nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái và thất nghiệp, tổng cầu ở mức rất thấp. Lúc này để mở rộng tổng cầu, Chính phủ phải tăng thêm chi tiêu hoặc giảm thuế nhằm gia tăng tổng cầu của nền kinh tế dẫn đến làm tăng sản lượng, việc làm, giảm thất nghiệp, song đổi lại nền kinh tế chấp nhận một mức lạm phát cao.
+ Ngược lại, khi nền kinh tế tăng trưởng quá mức, lạm phát tăng cao, Chính phủ có thể giảm chi tiêu và tăng thuế, kích thích làm giảm tổng cầu của nền kinh tế, làm giảm sản lượng, giảm việc làm, tăng thất nghiệp nhưng đổi lại lạm phát giảm xuống.
Với một cơ chế tác động đơn giản như vậy, chính sách tài khoá có thể coi là phương thuốc hữu hiệu để ổn định nền kinh tế. Tuy nhiên, chính sách tài khoá không có đủ sức mạnh đến như vậy, đặc biệt trong nền kinh tế hiện đại. Bởi vì hệ thống tài chính hiện đại có những nhân tố ổn định tự động; hó tính toán một cách chính xác liều lượng tăng, giảm chi tiêu và thuế một cách chính xác; độ trễ của CSTK trải qua một thời gian mới phát huy tác dụng do vậy chính sách tài khoá chỉ có tác dụng khi mức sản lượng đạt ở mức sản lượng tiềm năng; thâm hụt ngân sách nhà nước lớn sẽ gây ra lạm phát.
2.3 Công cụ của chính sách tài khoá
2.3.1 Chi tiêu công
Dù còn tồn tại sự khác biệt về thể chế chính trị ở các quốc gia trên thế giới, trong thực tế luôn có hai lĩnh vực mà chi tiêu công hướng đến. Khu vực thứ nhất là chi tiêu công phục vụ trực tiếp cho phát triển kinh tế. Chúng bao gồm nhiều khoản mục khác nhau và tất cả chúng đều có liên quan trực tiếp đến việc thiết lập một nền tảng tốt hơn cho phát triển kinh tế. Loại chi tiêu công này được mong đợi là góp phần nâng cao sản lượng của nền kinh tế.
Bên cạnh các khoản chi vào đầu tư và phát triển, lĩnh vực thứ hai mà chi tiêu công hướng đến là khoản chi nhằm mục đích cải thiện và nâng cao đời sống của người dân trong nền kinh tế. Loại chi tiêu này được xem là chi tiêu dùng mặc dù nó cũng đóng góp vào việc tăng trưởng kinh tế thông qua việc nâng cao năng suất của của lực lượng lao động trong xã hội.
2.3.2 Hệ thống thuế
Hiện nay có rất nhiều các quan điểm khác nhau về thuế nhưng điểm chung nhất đó là những khoản thu bằng tiền, có tính chất xác định không hoàn trả trực tiếp cho các chủ thể nộp thuế (công dân, doanh nghiệp) đóng góp cho nhà nước thông qua con đường quyền lực (nghĩa vụ nộp thuế) nhằm bù đắp những chi phí của nhà nước.
Thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN, là công cụ quan trọng để phân phối lại thu nhập, góp phần tích cực giảm bội chi NSNN, giảm lạm phát góp phần ổn định trật tự xã hội.
Thuế là công cụ quản lý và điều tiết kinh tế vĩ mô: khuyến khích hoặc kìm hãm hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế theo từng mục tiêu chung của Đất nước; thúc đẩy tăng cường đầu tư vốn và lành mạnh hóa thị trường.
Thuế góp phần đảm bảo bình đẳng giữa các thành phần kinh tế (công bằng-thuế suất).
Một hệ thống thuế muốn có hiệu quả phải đảm bảo tính công bằng, thuận tiện, ổn định, tính kinh tế, năng suất và hiệu quả kinh tế - xã hội.
Hệ thống thuế hiện hành bao gồm nhiều sắc thuế khác nhau tác động lên tất cả các hoạt động kinh tế, các giai đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh. Vì vậy, Chính phủ hoàn toàn có thể sử dụng công cụ thuế để điều tiết hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, khuyến khích đầu tư, phát triển các hoạt động sản xuất có lợi cho quốc kế dân sinh, thực hiện điều tiết, hướng dẫn sản xuất và tiêu dùng, thực hiện chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài, bảo hộ và khuyến khích phát triển sản xuất trong nước và tạo điều kiện hàng hóa trong nước cạnh tranh trên thị trường Thế giới.
Bên cạnh đó cần phải thực hiện tốt công tác quản lý thuế để đảm tăng nguồn thu đáp ứng chi thường xuyên và đáp ứng cân đối NSNN.
3. Mục tiêu của chính sách tài khóa
Mục tiêu của CSTK sẽ được thiết lập dựa trên mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của Đất nước nhằm ổn định nền kinh tế bằng những thay đổi về mức độ và thành phần của thuế và chi tiêu của chính phủ qua đó tác động đến các biến số sau trong nền kinh tế: tổng cầu và mức độ hoạt động kinh tế, kiểu phân bổ nguồn lực, phân phối thu nhập.
4. Yêu cầu của chính sách tài khóa
+ Thiết lập, tôn trọng kỷ luật tài chính tổng thể: kế hoạch thu chi NSNN, kế hoạch này dựa trên các cân đối kinh tế vĩ mô, trên cơ sở tăng trưởng kinh tế và các quy định của pháp luật. Tổ chức khai thác hiệu quả nguồn thu và công tác hành thu để đáp ứng nhu cầu chi tiêu. Phân bổ và sử dụng nguốn lực tài chính hiệu quả: yêu cầu chi NSNN phải được thiết lập một cách độc lập và trước khi ra quyết định chi tiêu từng phần (khoản mục chi tiêu).
+ Phân cấp quản lý NSNN để đảm bảo cân đối trong hệ thống NSNN: Phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách; các khoản chuyển giao giữa chính quyền nhà nước trung ương và chính quyền nhà nước địa phương; vay nợ của chính quyền địa phương.
+ Bội chi NSNN: Tùy thuộc vào mục đích chính trị, kinh tế mà có những quan điềm khác nhau trong việc xác định mục tiêu của CSTK. Các biện pháp để xử lý bội chi: tăng thuế, cắt giảm chi tiêu, phát hành tiền, vay nợ (trong nước và nước ngoài) và quản lý nợ công.
5. Tiêu chí đánh giá hiệu quả của CSTK
Các tiêu chí đánh giá CSTK phải được xây dựng dựa trên các chỉ tiêu tổng thể của kinh tế vĩ mô: quy mô GDP; tỷ suất thu/GDP; sự gia tăng chi tiêu hằng năm/GDP; tỷ lệ nợ trên GDP; tỷ lệ tiết kiệm trên GDP; mức độ thâm hụt của cán cân thanh toán… Theo đó, hiện nay có một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của CSTK (các tiêu chí này có thể có sự khác nhau ở từng quốc gia, khu vực) cụ thể như sau:
+ Các tiêu chí về kinh tế vĩ mô như: tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ lạm phát, cán cân thanh toán, cân đối NSNN, …
+ Đảm bảo thực hiện đúng kế hoạch thu – chi theo dự toán (đảm bảo tuân thủ kỷ luật tài chính tổng thể):
- Các quốc gia đều thống nhất ở một điểm là việc tăng tốc độ thu NSNN từ thuế không thể vượt quá cao so với tỷ lệ tăng trưởng GDP mà giữa chúng phải có một giới hạn dừng nào đó (khác nhau ở từng quốc gia). Nếu tốc độ tăng thu vượt quá giới hạn này thì sẽ xảy ra hiện tượng tận thu và nguồn thu NSNN từ thuế trong các năm sau sẽ giảm.
- Mức bội chi có nằm trong phạm vi kiểm soát hay không; nguồn bù đắp bội chi và tính hiệu quả của chi tiêu công. Xác lập tỷ lệ bội chi ngân sách so với GDP , theo thông lệ là nhỏ hơn 5% và tỷ lệ số bội chi ngân sách lũy kế so với GDP (thực chất là tỷ lệ nợ vay so với GDP vì thâm hụt được bù đắp chủ yếu bằng vay nợ). Theo Hiệp ước Masstricht, các quốc gia thành viên được phép bội chi NSNN không quá 3% GDP.
+ Hiệu suất sử dụng vốn đầu tư, hệ số ICOR so sánh trong khu vực và so sánh với những nước có trình độ phát triển tương đồng (thông thường, chỉ số ICOR của các nước là 2 – 3).
+ Vấn đề vay nợ để bù đắp thâm hụt: Khả năng hấp thụ vốn vay và khả năng hoàn trả, theo kinh nghiệm quốc tế nợ nước ngoài/ GDP nhỏ hơn 50%, tổng mức trả nợ/kim ngạch xuất khẩu hàng năm nhỏ hơn 20%, (tỷ lệ trả nợ), khả năng trả nợ nước ngoài nhỏ hơn 150% (tổng nợ nước ngoài/tổng kim kim ngạch xuất khẩu hàng năm); tỷ lệ nợ không quá 60% GDP đối với các nước thành viên EU; theo chuẩn an toàn của WB là không quá 40% GDP.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CỦA CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA TRONG VIỆC KIỀM CHẾ LẠM PHÁT TRONG THỜI GIAN QUA (2007-2008)
1. Thực trạng tình hình lạm phát của Việt Nam trong thời gian vừa qua
1.1 Lạm phát năm 2007 và 2008:
Biểu hiện:
Chỉ số CPI qua các tháng của năm 2008
Tháng
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
% so tháng trước
2,38
3,56
2,99
2,2
3,91
2,14
1,13
1,56
0,18
-0,19
% so với năm 2007
2,38
6,02
9,19
11,6
15,96
18,44
19,78
21,65
21,87
21,43
Giá tiêu dùng qua các tháng trong năm 2007 và 2008 tính từ năm 1992. Tốc độ tăng giá tiêu dùng năm 2007 là 12,63% cao gấp rưỡi tốc độ tăng GDP 8,48%, tốc độ tăng CPI tính tới tháng 10/2008 là 21,43% cao gấp ba lần so với tốc độ tăng GDP (tốc độ tăng GDP 9 tháng/2008 là 6,52).
1.2 Nguyên nhân
Dựa vào tình hình thực tiễn của Việt Nam những năm gần đây, lạm phát có thể do những nhóm nguyên nhân chính sau đây:
Thứ nhất, nguồn vốn nước ngoài vào ồ ạt và Ngân hàng Nhà nước đã bỏ tiền ra mua USD vào với số lượng lớn trong một thời gian ngắn
Trong năm 2007 Nhà nước bỏ tiền ra mua 9 tỉ USD (tương đương với 145 ngàn tỉ đồng) để tăng dự trữ ngoại hối. Dòng vốn đầu tư nước ngoài vào nhiều đã gây sức ép tăng giá đồng Việt Nam, đồng thời góp phần làm tăng tổng phương tiện thanh toán đã tạo sức ép tăng giá.
Thứ hai, tín dụng tăng lên nhanh do yêu cầu sản xuất, kinh doanh
Tăng trưởng kinh tế liên tục và ở mức cao đòi hỏi lượng tiền đưa vào lưu thông cũng phải tăng lên tương ứng. Tuy nhiên, khi chênh lệch giữa mức tăng cung tiền và tăng tổng sản phẩm quốc gia (GDP) trở nên quá lớn. Tốc độ tăng cung tiền tại Việt Nam từ năm 2003 đến nay liên tục duy trì trên dưới 25% mỗi năm và tín dụng nội địa cũng tăng trên 35%, năm 2007 tăng 53%. Thế nhưng tốc độ tăng trưởng của Việt Nam lại chỉ tăng từ 7-8% trong khi đầu tư hàng năm của nền kinh tế chiếm tới 35% GDP. Sự mất cân đối giữa tốc độ tăng cung tiền và tốc độ tăng trưởng GDP lớn làm cho lạm phát gia tăng vào những năm gần đây.
Thứ ba, hiệu quả đầu tư của ta không cao dẫn tới hệ số hiệu quả (ICOR) cao, gấp đôi các nước khu vực
Hệ số ICOR là mức gia tăng vốn đầu tư để đạt một đơn vị gia tăng tăng trưởng được dùng để đo năng suất của đồng vốn. Hệ số ICOR càng cao thì hiệu suất sử dụng vốn càng thấp. Hiện tại, hệ số ICOR của Việt Nam ta rất cao và ngày càng tăng chứng tỏ vốn đầu tư chưa được sử dụng tốt.
Thứ tư, tài khóa bội chi (thâm hụt NSNN hàng năm khoảng gần 5%)
Tổng chi tiêu của Nhà nước trong năm 2006 là 321 nghìn tỷ đồng, tăng 221,8 nghìn tỷ đồng (hay 45%) so với năm 2004. Như vậy, tốc độ tăng chi tiêu hàng năm của Nhà nước trong giai đoạn 2004-2006 là 20,3% năm (tương đương với tốc độ tăng truởng bán lẻ).
Cũng trong giai đoạn trên, thu ngân sách tăng chủ yếu không phải từ nguồn thu nội địa mà là từ dầu mỏ, nợ và viện trợ nước ngoài. Thu nội địa trong năm 2004 chỉ đạt 119 nghìn tỷ, và trong năm 2006 là 190 nghìn tỷ, chỉ tăng 71 nghìn tỷ. Trong khi đó chỉ tiêu của nhà nước tăng 131 nghìn tỷ, từ 190 lên tới 321 nghìn tỷ, tức là gần gấp đôi mức tăng thu nội địa. Nhưng nếu các khoản chi tiêu này lại không được sử dụng một cách hiệu quả, chỉ đóng góp nhỏ cho sản lượng (tức là không làm cho tổng cung tăng một cách tương ứng) thì tất yếu sẽ dẫn tới lạm phát.
Thứ năm, nguyên nhân chi phí đẩy: trong hai năm 2007 và 2008 giá nguyên vật liệu, lương thực, thực phẩm, giá dầu thế giới tăng cao đã làm cho mặt bằng giá những mặt hàng này trong nước tăng cao. Bên cạnh đó Việt Nam vẫn là một nước nhập khẩu, cùng với chính sách “neo” tỷ giá khiến cho lạm phát tại Việt Nam tăng.
1.2. Tác động của lạm phát
1.2.1. Đối với đời sống cư dân
Lạm phát gây ra khó khăn cho người có thu nhập thấp nhiều hơn là cho người có thu nhập cao, vô hình chung đã đào sâu thêm sự cách biệt. Điều mà người dân trông chờ là tăng lương, nhưng tăng lương thì tính bằng năm mà giá cả thì leo thang từng ngày. Đặc biệt là đối với đa số dân cư đang sống ở nông thôn, họ không có gì bù đắp lại cả. Một báo cáo công bố ngày 22-8 của UNDP cho thấy người nghèo Việt Nam hưởng an sinh xã hội thấp nhất. Điều này càng chứng tỏ rằng ảnh hưởng của lạm phát lên những người nghèo ở Việt Nam là rất lớn.
1.2.2. Đối với các doanh nghiệp
Do lạm phát cao nên các doanh nghiệp phải chịu thêm những chi phí phát sinh như: Bóp méo thước đo giá trị, dẫn đến doanh nghiệp khó so sánh doanh thu thực, chi phí thực, lợi nhuận thực và tiền lãi thực theo thời gian; chi phí sản xuất kinh doanh tăng; thay đổi giá tương đối và tạo ra nhầm lẫn trong phân bổ nguồn lực.
1.2.3. Đối với nền kinh tế nói chung
- Do lạm phát nên không phản ánh giá trị thực, làm cho phân phối nguồn lực đã bị lệch và tác động đến đời sống, thị trường không còn khả năng phân bổ nguồn lực theo cách tốt nhất.
Do tác động của các loại chi phí đặc trưng phát sinh trong điều kiện lạm phát tăng cao như chi phí mòn giày là chi phí rút tiền, bán tài sản,… khi đó tiết kiệm sẽ không đủ để đầu tư cho nền kinh tế vốn đã mất cung cầu về tiền – hàng càng làm cho nền kinh tế rối loạn hơn.
Cùng điều kiện và hoàn cảnh, các nước trong khu vực có mức lạm phát thấp hơn Việt Nam. Nếu môi trường VN vẫn bất ổn, lòng tin của nhà đầu tư sẽ giảm đi, ảnh hưởng đến cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài. Nhà đầu tư bỏ đi cũng sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng dài hạn.
Lạm phát dẫn đến những bất ổn vĩ mô đã làm giảm đáng kể mức tín nhiệm quốc gia của Việt Nam.
1.3 Giải pháp về tài chính – tiền tệ đã thực hiện
Thứ nhất, chính sách thắt chặt tiền tệ: hạn chế lượng tiền trong lưu thông, hạn chế cung tín dụng (tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tăng lãi suất cơ bản, lãi suất tái chiết khấu tái cấp vốn, phát hành tín phiếu bắt buộc... nới lỏng biên độ tỷ giá -NHNN đã nới lỏng biên độ tỷ giá 0,25% lên 3% trong hai năm 2007-2008)
Thứ hai, cắt giảm chi tiêu hoặc dừng đầu tư vào các dự án không có hiệu quả mà các DNNN đang đầu tư; đối với các doanh nghiệp nhà nước, chính phủ thực hiện thanh kiểm tra tình hình hoạt động và sử dụng vốn của nhà nước của tất cả các doanh nghiệp có sử dụng vốn n